Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận cao học, TLCNXH h sự phát triển quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta trong quá trình đổi mới và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.81 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
diễn ra hơn 25 năm, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên
tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội, quốc phòng – an ninh.
Thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo nên thế và lực mới để Đảng
ta, nhân dân ta thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Trong suốt quá trình đổi mới đã cung cấp những cơ
sở thực tiễn quý báu giúp Đảng ta nhận thức đầy đủ hơn trong việc vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam. Đánh giá những thành tựu to lớn của hơn 25 năm tiến hành công cuộc
đổi mới, Đảng đã chỉ rõ: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới
của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức
về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan
điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam đã hình thành những nét cơ bản”
Tuy nhiên, cũng từ việc tổng kết hơn 25 năm qua đang đặt ra nhiều vấn
đề về thực tiễn, về xây dựng CNXH ở nước ta mà lý luận chưa giải quyết một
cách thoả đáng, cần phải tiếp tục được nghiên cứu thấu đáo hơn. Đến nay, đã
có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam, nhưng mới hình thành những nét cơ bản như Đảng ta
nhận định. Việc đi sâu nghiên cứu về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam đang là vấn đề mang tính cấp thiết, được nhiều người quan tâm.
Xuất phát từ những lý do trên em chọn nghiên cứu vấn đề “Sự phát
triển quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta trong quá
trình đổi mới và thực tiễn” làm tiểu luận môn Hệ thống quan điểm đổi mới
của Đảng

1



2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ được những nội dung chính của
việc nhận thức mới của Đảng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta
trong quá trình đổi mới; Thành tựu đã đạt được và những biện pháp khắc phục
tồn tại, khó khăn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của tiểu luận là nêu lên những quan điểm của Mác-Ănghen và
của Đảng ta về XHCN và con đường đi lên XHCN ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp lôgíc kết hợp với các phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa của tiểu luận
Tiểu luận phân tích làm rõ việc nhận thức những quan điểm, tư tưởng
của Mác – Ănghen, Lê nin, Hồ Chí Minh và của Đảng ta về CNXH và con
đường đi lên CNXH trong thời kỳ đổi mới cũng như việc vận dụng quan
điểm, tư tưởng đó vào thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, qua quá trình viết tiểu
luận này, nhằm trang bị cho bản thân những kiến thức hết sức cần thiết để
phục vụ cho quá trình học tập và công tác tại địa phương sau này.
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung tiểu luận gồm 02 chương.

2


NI DUNG
Chng 1

C S Lí LUN CHUNG V CH NGHA X HI V CON
NG I LấN CH NGHA X HI VIT NAM TRONG QU
TRèNH I MI
1.1 Quan im ca Mỏc nghen v quỏ i lờn CNXH
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc, triệt để và toàn diện từ xã hội cũ sang
xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra trong toàn bộ
các lĩnh vực đời sống của xã hội, tạo ra các tiền đề vật chất
và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong
đó những nguyên tắc căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
từng

bớc

đợc

thực

hiện.

Phõn tớch cỏc quy lut phỏt trin ca xó hi trong tỏc phm Phờ phỏn
cng lnh Gụ ta C.Mỏc cựng vi Angghen ó rỳt ra kt lun v s dit vong
tt yu ca phng thc sn xut t bn ch ngha v s thay th nú bng
phng thc sn xut cng sn ch ngha. Hai ụng; trc ht, ch rừ s tin
b lch s ca ch t bn, vai trũ cc k to ln ca nú trong vic phỏt trin
sc sn xut v xó hi hoỏ lao ng; mt khỏc, cng ch ra gii hn, tm thi
v mt lch s ca ch ú. C.Mỏc-Angghen ó d bỏo rng: S tp trung
t liu sn xut, v xó hi hoỏ lao ng t n cỏi im m chỳng ta khụng
cũn thớch hp v t bn ch ngha ca chỳng na. Cỏi v ú v tung ra. Gi
tn s ca ch t hu t bn ch ngha ó im. Nhng k i tc ot b

tc ot. Nhng cỏi v ú khụng t nú v tung ra m phi thụng qua cuc
cỏch mng bt u bng vic giai cp vụ sn dn u qun chỳng lao ng ni
dy ginh ly chớnh quyn. C.Mỏc vit: Cỏch mng núi chung-lt chớnh
quyn hin cú v phỏ hu nhng quan h c l mt hnh vi chớnh tr. Nhng
CNXH khụng th c thc hin m khụng cú cỏch mng. Ch ngha xó hi
cn n hnh vi chớnh tr ny bi l nú cn tiờu dit v phỏ hu cỏi c.
C.Mỏc ch ra rng: Giai cp cụng nhõn bit rng nú phi tri qua nhiu giai
on khỏc nhau ca cuc u tranh giai cp. Nú bit rng vic thay th nhng
iu kin ca lao ng t do v liờn hp, ch cú th l mt s nghip tin trin
trong thi gian (ú vic ci to kinh t) sau mt quỏ trỡnh phỏt trin lõu
di. Thớch ng vi thi k y l mt thi k quỏ chớnh tr, v nh nc
3


ca thi k y khụng th l cỏi gỡ khỏc hn l nn chuyờn chớnh cỏch mng
ca giai cp vụ sn. Trong tỏc phm ny, C.Mỏc ch rừ thi k quỏ cú
mt s im ỏng lu ý sau: xó hi thi k quỏ l xó hi va thoỏt thai t
xó hi t bn ch ngha, do ú, mi mt ca nú u mang du n sõu sc ca
xó hi TBCN; thi k quỏ l thi k ci bin cỏch mng mt cỏch sõu sc
t xó hi TBCN sang xó hi XHCN; Cụng c thc hin s ci bin ú l
nh nc, ú l nh nc chuyờn chớnh cỏch mng ca giai cp vụ sn; thi
k quỏ l thi k sinh lõu di v au n
C.Mác và Ph.Ăngghen là những ngời đầu tiên đã nêu lên
khả năng những nớc còn đang ở trong giai đoạn phát triển tiền
t bản chủ nghĩa có thể chuyển thẳng lên hình thái chế độ
cộng sản chủ nghĩa và khả năng phát triển rút ngắn của các
nớc này bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa. Còn về nội dung thời
kỳ quá độ đó nh thế nào và nó có nhiệm vụ cụ thể gì thì
hai ông cha đề cập tới.
1.2 Quan im ca Lờ nin v quỏ i lờn CNXH

K tha v phỏt trin nhng t tng ca C.Mỏc nghen, V.I.Lờ-nin
khng nh: Quỏ lờn CNXH l mt tt yu lch s. thi k quỏ lờn
CNXH l tt yu i vi mi nc i lờn CNXH. B phn quan trng trong
hc thuyt ca V.I.Lờnin v xõy dng ch ngha xó hi l lý lun v thi k
quỏ lờn CNXH Theo V.I.Lờnin, s cn thit khỏch quan phi cú thi k
quỏ lờn CNXH do c im ra i, phỏt trin ca phng thc sn xut
cng sn ch ngha v cỏch mng vụ sn quy nh.
Quan h sn xut phong kin v quan h sn xut TBCN u da trờn c
s ch t hu v t liu sn xut. Do vy, quan h sn xut TBCN cú th ra
i t trong lũng xó hi phong kin. S phỏt trin ca phng thc TBCN
n mt trỡnh nht nh, s lm sõu sc thờm mõu thun ca xó hi phong
kin, cỏch mng t sn s n ra. Nhim v ca cỏch mng t sn ch yu ch
l gii quyt v mt chớnh quyn nh nc, lm cho kin trỳc thng tng
thớch ng vi c s h tng thớch ng ca nú.
T s phõn tớch trờn, V.I. Lờ-nin ó ch ra bn c im c bn ca thi
k quỏ l:

4


Thứ nhất, đó là thời kỳ, xét về mọi mặt của đời sống xã hội, đều do
nhiều thành phần không thuần nhất tạo nên. Đó là thời kỳ có sự đan xen, thâm
nhập lẫn nhau giữa CNTB và CNXH.
Thứ hai, đó là thời kỳ, sự phát triển của cái cũ, của những trật tự cũ đôi
khi lấn át những mầm mống của cái mới, những trật tự mới.
Thứ ba, đó là thời kỳ, xét về mọi phương diện, đều có sự phát triển của
tính tự phát tiểu tư sản, là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hòa
giữa tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản và tính vô chính phủ, vô kỷ
luật của các tầng lớp tiểu tư sản. Theo V.I. Lê-nin, đây là một trong những đặc
điểm nổi bật của giai đoạn quá độ.

Thứ tư, đó là thời kỳ lâu dài, có rất nhiều khó khăn, phức tạp, phải trải
qua nhiều lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những hướng đi đúng
đắn; tuy nhiên, trong quá trình thử nghiệm ấy có thể phải trả giá cho những
sai lầm nghiêm trọng .
Đồng thời, khi phân chia quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa
cộng sản thành 3 giai đoạn: giai đoạn “những cơn đau đẻ kéo dài”; giai đoạn đầu
của xã hội cộng sản chủ nghĩa; và giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa,
V.I.Lê-nin chỉ rõ: “Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa” chính là xã hội
XHCN còn thời kỳ “những cơn đau đẻ kéo dài” chính là thời kỳ quá độ từ
CNTB lên CNXH (Trong tác phẩm Cương lĩnh quân sự của cách mạng vô
sản được viết vào năm 1916, lần đầu tiên V.I. Lê-nin dùng khái niệm: thời kỳ
quá độ từ xã hội tư sản sang xã hội xã hội chủ nghĩa). Như vậy, thời kỳ quá độ là
một giai đoạn độc lập, có vị trí riêng biệt nằm giữa CNTB và CNXH. Điều này
cũng có nghĩa thời kỳ quá độ chưa phải là CNXH và cũng không nằm ở giai
đoạn đầu của CNCS. Xác định đúng và làm rõ vị trí của thời kỳ quá độ sẽ có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng bởi nó giúp ta xác định được đặc điểm, nội
dung và nhiệm vụ cũng như mục đích của thời kỳ này.
Độ dài của thời kỳ quá độ thường được quy định bởi xuất phát điểm với
những tiền đề về kinh tế, văn hóa, xã hội khi bước vào thời kỳ quá độ của mỗi
quốc gia cụ thể. V.I. Lê-nin cho rằng, cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu
dài từ CNTB lên CNXH. Ông khẳng định: “… tất yếu phải có một thời kỳ quá
độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ nghĩa (xã hội đó càng ít phát triển,
thì thời kỳ đó càng dài)… tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa” (8). Như vậy,
theo V.I. Lê-nin, bản thân những nước có điểm xuất phát khi bước vào thời kỳ
5


quá độ là từ CNTB đã cần phải có thời kỳ quá độ là khá lâu dài thì đối với
những nước có điểm xuất phát thấp hơn CNTB - tiền TBCN, thì chắc chắn
càng cần phải có một thời kỳ quá độ còn lâu dài hơn gấp nhiều lần. Bởi lẽ, về

mặt khách quan một cách tự nhiên, một mặt, CNXH ra đời trên cơ sở của sự
phát triển đến đỉnh cao của CNTB; mặt khác, CNXH cũng ra đời từ xuất phát
điểm thấp hơn CNTB khi những tiền đề trên và thời cơ chín muồi. Đó chính
là những khả năng, những con đường hiện thực ra đời một cách tất yếu của xã
hội mới - xã hội XHCN.
Chưa trải qua giai đoạn phát triển TBCN cũng có nghĩa là chưa có đầy
đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở xã hội và con người để tiến lên CNXH một
cách nhanh chóng và vững chắc. Tuy nhiên, đối với những nước chưa trải qua
quá trình phát triển CNTB thì, muốn xây dựng thành công CNXH, nhất thiết
phải thực hiện thời kỳ quá độ một cách lâu dài với những bước đi thích hợp
và với một khối lượng công việc to lớn bao gồm trong đó không chỉ những
nội dụng cơ bản của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, mà hơn thế, còn
phải đồng thời đạt được cả những thành tựu căn bản mà CNTB đã phải mất
hàng trăm năm mới có được. Như vậy, đối với các nước như thế, chắc chắn
thời kỳ quá độ không chỉ vô cùng khó khăn, phức tạp mà còn là một giai đoạn
phát triển rất lâu dài.
Trong di sản của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng về
thời kỳ quá độ có rất nhiều nội dung phong phú và đa dạng, trong đó, cũng có
những nội dung mà các ông đề xuất khi đó, đến nay không còn phù hợp,
nhưng nhìn chung, về cơ bản, tư tưởng của các ông về thời kỳ quá độ cũng
như đặc điểm, nội dung và nhiệm vụ của nó hầu như vẫn giữ nguyên giá trị và
vẫn phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại. Có thể nêu một số nội dung
chủ yếu sau:
Một là, về xã hội. Trong thời kỳ quá độ, mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội là sự đan xen lẫn nhau giữa các nhân tố TBCN và XHCN, giữa cái mới và
cái cũ, trong khi cái cũ vẫn còn rất mạnh mẽ thì cái mới còn ở dạng mầm
mống, yếu ớt, phát triển chậm chạp.
Hai là, về chính trị. Đây là thời kỳ đầy khó khăn, phức tạp, trải qua
nhiều bước trung gian, nhiều cuộc thể nghiệm, và đặc biệt là luôn vấp phải sự
phản kháng nhằm phá hoại, lật đổ chế độ mới, phục hồi, giành lại chính quyền

6


của giai cấp tư sản, vì vậy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt và quyết liệt thì giai
cấp công nhân có thể bị thất bại và mất chính quyền công nông.
Ba là, về tâm lý - ý thức. Đó là tâm lý phục thù, khôi phục lại chính quyền
cũ của giai cấp tư sản; tâm lý vô chính phủ, tập quán tản mạn, tự do, hoang
mang, dao động của một số tầng lớp của xã hội cũ; lối sống thiếu văn hóa,
không tuân thủ pháp luật, tệ tham ô, hối lộ, quan liêu; thói kiêu ngạo cộng sản,
tâm lý thỏa mãn, hưởng thụ, lười biếng của một bộ phận trong xã hội... Thực
trạng này thường tạo nên một xã hội hỗn tạp và rối loạn về tâm lý và ý thức.
Bốn là, về kinh tế. Đó là sự cùng tồn tại đan xen, hợp tác và cạnh tranh
quyết liệt với nhau của các thành phần, yếu tố kinh tế, quan hệ kinh tế cả tư
bản, tiền tư bản và XHCN. Đặc biệt, việc xóa bỏ quan hệ sản xuất TBCN,
thiết lập quan hệ sản xuất XHCN nhất thiết phải trải qua quá trình lâu dài, dần
dần, có lộ trình với những bước đi thích hợp và thường xuyên được điều
chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn phát triển.
Năm là, về chế độ chính trị. Phải xây dựng và thực hiện chế độ tập trung
dân chủ. Đổi mới XHCN đó là sự thống nhất giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở
nhằm phù hợp và đáp ứng kịp thời những nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng
của thời kỳ quá độ.
Sáu là, về văn hóa, khoa học, kỹ thuật. Đối với việc xây dựng nền văn
hóa và khoa học, kỹ thuật mới XHCN trong thời kỳ quá độ cần phải trên cơ sở
kế thừa, tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa và khoa học, kỹ thuật với tư cách là
những thành tựu mà nhân loại đã sáng tạo và tích lũy được qua hàng nghìn
năm, nhất là những thành tựu của thời kỳ phát triển TBCN.
1.3 Quan điểm của Đảng ta về quá độ lên CNXH
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và những thành tựu về lý
luận cũng như thực tiễn có được trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH ở

nước ta mấy chục năm qua, nhất là trong 25 năm đổi mới, tại Đại hội XI,
Đảng ta đã chỉ rõ đi lên CNXH ở nước ta “… là một quá trình cách mạng sâu
sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen”. Như thế, thời kỳ quá độ ở nước ta là một quá trình
cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Có thể
7


hiểu cái cũ ở đây không chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã hội
ta mới thoát ra, những di hại của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp mà xã
hội ta đã trải qua mấy chục năm qua, mà hơn thế, cái cũ ở đây còn là những
yếu tố TBCN đang và sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Những
nhân tố này có thể là mới so với thực trạng xã hội ta (chẳng hạn như sở hữu tư
nhân, kinh tế thị trường...) nhưng lại là cũ so với những nhân tố XHCN mà
chúng ta đang xây dựng. Đặc biệt cần hiểu, sự biến đổi về chất mà Đảng ta đề
cập ở đây là sự biến đổi mang tính bản chất, căn bản, toàn diện khác với sự
biến đổi về lượng, biến đổi của từng bộ phận, mang tính cục bộ. Điều này có
nghĩa là trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính bản
chất, căn bản và toàn diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và, quá
trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen. Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta
cũng chưa trải qua giai đoạn phát triển TBCN, vì vậy, thời kỳ quá độ phải
diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử.
Có thể khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất nhiều
khó khăn. Đó là do, đất nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh nên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội đều bị tàn phá, chưa kinh qua thời kỳ phát triển
TBCN nên hầu như chưa có những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của
CNXH, hệ thống CNXH thế giới tan rã và phong trào cộng sản và công nhân

quốc tế đang tạm thời thoái trào. Bên cạnh đó, “các thế lực thù địch tiếp tục
chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội”. Trong bối cảnh đó, Đảng ta
vẫn khẳng định “Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân
tộc ta là một dân tộc anh hùng, nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có
truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được
những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”.
Trong bối cảnh những thuận lợi và khó khăn hiện nay, Đảng ta chỉ rõ,
mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là, chúng ta xây dựng
được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về
8


chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước
XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ, đến giữa
thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
XHCN. Đây quả là những nhiệm vụ nặng nề bởi,
trước hết, “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã
hội” nghĩa là nền kinh tế của chúng ta phải liên tục phát triển để đến khi kết
thúc TKQĐ chúng ta đạt được nền kinh tế phát triển cao đủ cơ sở hiện thực để
đưa xã hội ta bước vào thời kỳ phát triển xã hội XHCN;
thứ hai, phải xây dựng được kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù hợp với hạ tầng cơ sở phát triển cao như thế. Đây quả là
vấn đề không đơn giản như các nhà kinh điển đã chỉ ra. Bởi vì, thời kỳ quá độ
là thời kỳ diễn ra những cuộc biến đổi hết sức sâu sắc và căn bản, nó diễn ra
cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa các yếu tố TBCN và

XHCN. Nghĩa là, ở đó chúng ta vừa phải đấu tranh quyết liệt để giữ chính
quyền, bảo vệ chế độ, vừa phải xây dựng những “cơ sở để nước ta trở thành
một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Nhận thức đúng những thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện
được mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta
phải quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền
dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt, tại Đại hội XI, vấn đề mô hình phát triển xã hội - mô hình xã
hội XHCN Việt Nam đã được Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể, vừa hết
sức sâu sắc, toàn diện. Đó là, “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
9


hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Đây là mô

hình CNXH đặc thù Việt Nam mang tính định hướng trong suốt thời kỳ quá
độ. Mang tính định hướng là do, thời kỳ quá độ là một giai đoạn phát triển có
tính độc lập và là giai đoạn chuyển đổi từ CNTB lên CNXH. Vì vậy, xã hội
trong thời kỳ quá độ chưa phải là xã hội XHCN hoàn bị, nó đòi hỏi tiếp tục
được bổ sung và phát triển.
Khác với những nước tư bản phát triển, khi tiến lên CNXH, họ trực tiếp
thực hiện bước quá độ từ CNTB, Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ chưa
trải qua sự phát triển của CNTB, dĩ nhiên, chúng ta có đủ cơ sở thực tiễn
khách quan và chủ quan như Đảng ta đã chỉ rõ để thực hiện thành công bước
quá độ lên CNXH.
Những đặc trưng của mô hình xã hội XHCN Việt Nam vừa mang tính
chất định hướng lâu dài, vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể cần đạt
tới trong từng bước đi, từng giai đoạn, từng thời kỳ của cả thời kỳ quá độ.
Điều này mang ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng không chỉ đối với
thực tiễn mà cả lý luận. Về mặt thực tiễn, mô hình xã hội XHCN không phải
là một hệ chuẩn cố định, cứng nhắc, bất biến mà là một hệ thống giá trị phổ
quát, sinh động, luôn vận động và biến đổi cùng với sự vận động và biến đổi
của thực tiễn lịch sử. Về mặt lý luận, nhận thức là một quá trình. Nhận thức
về CNXH với tư cách là nhận thức về một thực thể đang hình thành, vận động
và phát triển càng là một quá trình phức tạp với nhiều bất ngờ, mới mẻ. Do
đó, nhận thức về mô hình xã hội XHCN càng phải tuân thủ các phương pháp
nhận thức biện chứng duy vật. Quan điểm của Đảng ta về mô hình xã hội
XHCN Việt Nam chính là thành tựu to lớn về tư duy lý luận của Đảng ta qua
mấy chục năm lãnh đạo nhân dân ta xây dựng CNXH, nhất là 25 năm đổi
mới. Nhưng có thể khẳng định rằng, đó là mô hình tổng quát, trong thời kỳ
quá độ, nhiều đặc trưng mới, cụ thể và phù hợp với thực tiễn chắc chắn sẽ
được Đảng ta tiếp tục bổ sung và hoàn thiện./.
10



Chương 2
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM,
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước thời kỳ đổi mới tác động tới nhận
thức mới về CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam
Bối cảnh quốc tế.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, trên thế giới đã diễn ra
những biến đổi to lớn, sâu sắc. Những biến đổi ấy đã trực tiếp hoặc gián tiếp
tác động đến nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam.
Một là, Kinh tế tri thức và toàn cầu hoá. Trong thời kỳ này, cuộc cách
mạng khoa học – công nghệ có những bước tiến nhảy vọt, tác động rất lớn
đến đời sống xã hội thế giới, tạo ra nền kinh tế tri thức – một bước tiến mới
trong lịch sử nhân loại. Kinh tế tri thức đã tác động rất lớn đến nhận thức về
CNXH và xây dựng CNXH ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Toàn cầu hoá được bắt đầu từ cách mạng công nghiệp, nhưng thể hiện
đầy đủ các đặc trưng của nó từ cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại.
Toàn cầu hoá cũng là hệ quả tất yếu của sự phát triển chủ nghĩa tư bản. Nhìn
chung, nó đem lại những lợi ích cho tất cả các nước trên thế giới nói chung và
các nước XHCN nói riêng, đó là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; tạo
điều kiện thuận lợi để các nước tiếp cận với các nguồn vốn quốc tế, công nghệ
tiên tiến hiện đại. Tuy nhiên, mặt trái của toàn cầu hoá cũng không ít. Chẳng
hạn, nó tạo ra sự bất bình đẳng trong phân chia có lợi ích mà toàn cầu hoá
mang lại; nó có thể làm xói mòn các giá trị dân tộc, thách thức với chủ quyền
các quốc gia, thúc đẩy chủ nghĩa thực đân phát triển nhanh hơn dưới hình
thức mới. Đặc biệt là, toàn cầu hoá tác động đến CNXH trên cả hai phương
diện: tích cực và tiêu cực. Tức là bên cạnh những thành quả, những lợi ích mà
11



toàn cầu hoá mạng lại, thì cũng đang tạo ra những khó khăn thách thức mới
cho các nước XHCN, đó là nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế; tụt hậu
trong cuộc cạnh tranh quốc tế; nguy cơ về chủ quyền lãnh thổ quốc gia…
Trước bối cảnh của toàn cầu hoá, các nước XHCN phải đối phó với những tác
động tiêu cực của toàn cầu hoá với độc lập dân tộc và CNXH.
Hai là, diễn biến hoà bình. Các thế lực thù địch ở phương tây đã và đang
tiếp tục âm mưu chống phá các nước XHCN bằng chiến lược “diễn biến hoà
bình”. Chủ nghĩa đế quốc đã hậu thuẫn cho các thế lực bên trong hòng từng
bước làm cho các nước XHCN xa rời quỹ đạo CNXH. Các thế lực thù địch
không từ một thủ đoạn nào để can thiệp vào nội bộ của các nước XHCN, trong
đó có Việt Nam nhằm chuyển hoá chế độ, dẫn đến xoá bỏ CNXH ở nước ta.
Ba là, CNXH hiện thực trên thế giới: Hệ thống XHCN thế giới ra đời
sau chiến tranh thế giới thứ II đã có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên toàn
cầu. Nhưng đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, CNXH ở Đông Âu và
Liên Xô đã sụp đổ và tan rã. Điều đó đã có tác động mạnh mẽ đến nhận thức
của Đảng ta về mô hình CNXH, về con đường, biện pháp xây dựng CNXH ở
nước ta. Đông đảo cán bộ và nhân dân lo lắng, thậm chí có người hoang
mang, dao động về tiền đồ của CNXH.
Song, trên thực tế, cũng cần thấy rằng, Trung Quốc thực hiện cải cách
mở cửa, đổi mới nhận thức về CNXH đã đạt được những thành tựu to lớn trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với Trung Quốc, Cu Ba, mặc dù
bị chủ nghĩa đế quốc bao vây, cấm vận, nhưng Cu Ba vẫn giữ vững chế độ
XHCN – là một hình mẫu về sự phát triển xã hội, phát triển con người ở khu
vực Mỳ la tinh. Thực tiễn phong trào cách mạng thế giới đã làm nảy sinh
nhiều mô hình, loại hình, nhiều lý luận, nhận thức khác nhau về CNXH và
xây dựng CNXH. Tất cả những nhân tố này tác động không nhỏ đến nhận
thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nma về CNXH và con đường đi lên CNXH
ở nước ta hiện nay.
Bối cảnh trong nước.
Cách mạng nước ta đã bước sang một thời kỳ mới đòi hỏi phải có những

nhận thức mới về XHCN và xây dựng XHCN. Sau năm 1975, đất nước ta
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ - đó là tiền đề quan trọng để nước ta bước vào
12


thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Thực hiện cuộc sống của nhân dân, yêu cầu phát
triển đất nước đã đưa đến những nhận thức mới, đổi mới từng phần trước năm
1986, là nền tảng để Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện về sau.
Xây dựng CNXH trong điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam là một công
việc mới mẻ, phức tạp, khó khăn, lâu dài, phải làm từng bước, phải có quyết
tâm cao trong ý chí và hành động của Đảng. Trước hết Đảng phải đổi mới tư
duy về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Những khuyết điểm, sai lầm trong chỉ đạo thực hiện đường lối, trong
việc đề ra và thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước dẫn tới
khủng hoảng kinh tế xã hội đòi hỏi phải khắc phục kịp thời.
Trước đổi mới do thực hiện cơ chế kế hoạch hoá, quan liêu, bao cấp
trong lãnh đạo phát triển kinh tế nên đã dẫn đến nền kinh tế đất nước chậm
phát triển và rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng vào giai đoạn 1980
– 1985 với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta công khai thừa nhận: 10
năm (từ 1975 – 1985), Đảng ta phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu,
bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế
do chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ, tư tưởng chủ quan, nóng vội
muốn bỏ qua những bước cần thiết… lại chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
đã lỗi thời . Những sai lầm, khuyết điểm ấy bắt nguồn từ trong tư tưởng, tổ
chức, công tác cán bộ Đảng. Trước tình hình đó, đòi hỏi Đảng phải có nhận
thức mới về CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam cho phù hợp.
Những thành tựu bước đầu rất quan trọng về kinh tế xã hội, an ninh –
quốc phòng trong những năm đầu thực tiễn quan trọng trong tư duy lý luận của
Đảng về CNXH. Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã từng bước phá thế bao vây
cấm vận, áp dụng nhiều biện pháp bước đi phù hợp với tinh thần xác lập quan hệ

hữu nghị với nhiều quốc gia trên thế giới. Do vậy, chúng ta không những củng
cố được mối quan hệ ngoại giao truyền thống với các nước XHCN mà còn mở
rộng quan hệ quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thành công
của công cuộc đổi mới toàn diện đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, làm thay đổi diện mạo Việt Nam
trên trường quốc tế. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay
đổi toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện
13


đại hoá được đẩy mạnh; hệ thống chính trị được củng cố và tăng cường; nền
quốc phòng – an ninh được giữ vững.
Cùng với những thành tựu kể trên, chúng ta cũng thẳng thắn nhận thấy
còn tồn tại nhiều khuyết điểm, hạn chế. Chẳng hạn, vấn đề quan hệ giữa tăng
trưởng nhanh và bền vững; giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng
xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá; giữa tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị;
giữa độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế vv… Ngay bản thân kinh tế có sự
phát triển vượt bậc nhưng cũng chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu;
sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu; nhiều vấn đề văn hoá xã hội bức xúc
chưa được giải quyết kịp thời, triệt để. Nạn quan liêu tham nhũng, suy đồi về
đạo đức, tư tưởng chính trị của một số bộ phận đảng viên, nhất là những
người có chức có quyền vẫn nghiêm trọng. Tất cả những thành tựu cũng như
thách thức đó đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Đảng ta cần phải đổi
mới tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
2. Thực trạng việc nhận thức mới của Đảng ta về CNXH
2.1. Bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, nền tảng lý
luận của chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng. Việc bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một bộ phận

không thể tách rời với chủ nghĩa Mác – Lê nin đã tạo nên nền tảng tư tưởng
vững chắc cho CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt nam. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) khẳng định “Đảng
Cộng sản Việt Nam lấy lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động”... các Đại hội
VIII, IX, X, XI tiếp tục khẳng định nội dung đó.
Sự đổi mới trước hết biểu hiện ở chỗ: Từ khi Đảng ra đời (1930) cho
đến khi nêu cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
Đảng ta trước sau như một, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, thì từ đây có thêm nhân tố mới
(thành phần mới) là tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một phát hiện lớn trong
nhận thức của Đảng và nhân dân ta về CNXH và con đường đi lên CNXH.
14


Điều đó cần được xem như một trong những nét đặc sắc trong nhận thức mới
về CNXH ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Trong quá trình tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn
khẳng định phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội VIII (1996), Đảng khẳng định:’chủ nghĩa
Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động là bước phát triển trong nhận thức và tư duy của Đảng ta. Ở những
bước ngoặt của cách mạng, những diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng kịp
thời có những định hướng tư tưởng đúng đắn, uốn nắn những lệch lạc, chống
những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong toàn
Đảng và trong nhân dân. Đây là bước phát triển mới trong nhận thức về nền
tảng tư tưởng, bởi lẽ, trước đây Đảng ta chỉ yêu cầu vận dụng và phát triển
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam,
đồng thời qua quá triònh đổi mới, Đảng ta đã bổ sung một loạt vấn đề cụ thể
của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Chẳng hạn, mục tiêu cua CNXH đã xác định rõ

nét hơn cùng với những đặc trưng mà nhân dân ta đã thực hiện. Những vấn đề
về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến
đậm đã bản sắc dân tộc; vấn đề phát triển kinh tế thị trường đinh hướng
XHCN; vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế; vấn đề đa dạng hoá các loại hình sở
hữu... là những vấn đề mới về lý luận mà Đảng ta đã bổ sung và phát triển.
Bên cạnh đó, Đảng ta cũng khắc phục một số nhận thức chưa đầy đủ, chưa
thực sự khoa học như: Tuyệt đối hoá chế độ công hữu; coi sở hữu tư nhân là
đối lập với CNXH; tuyệt đối hoá quan hệ sản xuất trong mối quan hệ với lực
lượng sản xuất; tuyệt đối hoá chế độ phân phối bình quan; đối lập loại trừ
giữa CNXH với CNTB; đối lập giữa kinh tế kế hoạch với kinh tế hàng hoá;
đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước TBCN.
2.2. Nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua CNTB trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
Cương lĩnh năm 1991 đã khẳng định: “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ
qua chế độ Tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng
sản xuất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại
còn nặng nề. Những tàn dư của thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực
15


thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ XHCN và nền độc lập của
nhân dân ta”.
Như vậy, chúng ta mới xác định quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN, nhưng chưa rõ thế nào là bỏ qua chế độ TBCN. Do vậy đã xuất hiện
nhiều cách lý giải khác nhau về bỏ qua chế độ TBCN. Nhìn chung các cách lý
giải đều khẳng định bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua chế độ chính trị TBCN,
còn kế thừa những thành tựu khinh tế, kỹ thuật, cơ sở vật chất của CNTB để
phục vụ cho CNXH.
Trải qua 15 năm thực hiện đổi mới, tổng kết quá trình xây dựng CNXH,
tại Đại hội Đảng IX đã chỉ rõ: “con đường đi lên của đất nước ta là sự phát

triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN,
đặc biệt về khoa học, công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”.
Như vậy, theo quan điểm của Đảng ta, nói bỏ qua chế ddooj TBCN là
bỏ qua chế độ áp bức bất công, bóc lột TBCN; bỏ qua những thói hư tật xấu,
những thiết chế, thể chế không phù hợp với chế độ XHCN mà ta đang xây
dựng, chứ không phải là bỏ qua tất cả những thành tựu, những giá trị văn
minh mà CNTB đã đạt được. Tất nhiên trong quá trình tiếp thu có chọn lọc
trên cơ sở quan điểm phát triển.
2.3 Nhận thức rõ hơn về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của
thời kỳ quá độ lên CNXH, xác định rõ mục tiêu tổng quát và mục tiêu
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.
Cương lĩnh năm 1991 xác định quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình
lâu dài, trải qua nhiều chặng đường trông gai. Điều này cho thấy nhận thức
mới, đúng đắn hơn của Đảng ta về thời kỳ quá độ. Trên cơ sở đó, Cương lĩnh
xác định: “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây
dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng
tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một
nước XHCN phồn vinh”.

16


Trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, căn cứ vào thực tiễn nước ta,
Đảng đã đặt ra mục tiêu của từng thời kỳ. Đại hội VII (1991) đẫ đề ra mục
tiêu tổng quát 5 năm (1991-1996) là “vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và
bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”.

Thực hiện được mục tiêu này là trực tiếp thực hiện mục tiêu của chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đại hội VIII (1996) đánh giá những thành tựu đã
đạt được trong 5 năm (1991-1996) đồng thời đề ra nhiệm vụ cho chặng đường
đầu của thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.Đại hội lần
thứ IX (2001) đặ ra mục tiêu của giai đoạn (2001-2010) là “đưa đất nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển”.
Càng đi vào thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên
CNXH là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo
ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: như
trên đã nói, nước ta quá độ lên CNXH ở một điểm xuất phát thấp nên không
thể chủ quan, nóng vội về thời kỳ quá độ. Đại hội IX đã xác định “xây dựng
CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh
vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua thời kỳ với
nhiều chặng đường, nhiều tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”. Đây là
nhận thức mới hết sức quan trọng – trong thời kỳ quá độ sẽ tồn tại nhiều hình
thức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ. Đây là tư tưởng hết sức khoa học và
đúng đắn. Đại hội X đã đề ra quyết tâm “ sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển; tạo nền tảng để đeens năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại” Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua từng
xác định: “mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công việc đổi mới;
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh; phát huy dân chủ và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh bền vững; nâng cao
ddời sống vật chất tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị xã hộ;
tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướn hiện đại”.
17



3. Biện pháp khắc phục những khó khăn của con đường lên CNXH
ở Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đánh dấu mốc quan trọng trong
việc nhận thức về CNXH. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (1991), Đảng ta đã nêu ra sáu đặc trựng: Do nhân dân lao
động làm chủ. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu và tư liệu sản xuất chủ yếu.; Có nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước
bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.; Có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên toàn thế giới. Từ sáu đặc trưng
trên cho thấy quan điểm mới của Đảng được thể hiện ở các nội dung:
Thứ nhất, xác định vai trò làm chủ của XHCN của nhân dân lao động
(Đại hội X điều chỉnh rất đúng là: do nhân dân làm chủ)
Thứ hai, lực lượng sản xuất phát triển cao là điều kiện tiền đề để tăng
năng xuất lao động, tạo cơ sở vật chất cho CNXH, nâng cao đời sống của
nhân dân. Chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là bản chất kinh tế
của CNXH, là cơ sở cho nhân dân làm chủ về kinh tế.
Thứ ba, khi xác định xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, Đảng ta đặt con người vào trung tâm phát triển. Nói tới văn hoá là nói tới
con người, do vậy, phát huy vai trò của văn hoá trong phát triển chính là phát
huy những năng lực, bản chất của con người. Đó là cơ sở cho việc hoạch định
chiến lược phát triển bền vững của đất nước.
Thứ tư, Đảng coi trọng xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, vì chỉ có
đoàn kết mới tạo nên nguồn sức mạnh to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
Đến Đại hội XI (2011), Đảng ta có nhận thức sâu sắc hơn về CNXH, đặc
trưng của CNXH ở nước ta được nêu ra với tám đặc trưng: “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế

phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bvản sắc dân tộc; con người có cuộc
18


sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; có nhà nước pháp quyền của dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới. Có thể nói, so với cương lĩnh 1991, nhận thức về bản chất, đặc trưng
của CNXH ở Đại hội XI có những điểm mới. Mục đích của CNXH đã rõ nét,
cụ thể hơn, xác định hơn. Các đặc trưng khác, câu chữ có những thay đổi nhất
định cho chính xác và phù hợp hơn, nhưng bản chất của các đặc trưng thì vẫn
giữ nguyên. Đồng thời có bổ sung những đặc trưng mới, đó là: nhà nước pháo
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc trưng quan trọng về bản chất XHCN mà
Đảng ta và nhân dân ta đang xây dựng. Đảng ta đưa hệ mục tiêu chung “dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” làm đặc trưng thứ
nhất trong tám đặc trưng.
* về đấu tranh giai cấp và liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. Trong Cương lĩnh 1991: “đặc điểm nổi bật tỷong giai đoạn hiện nay
là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước
vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Ở đây, Đảng ta tiếp
tục xác định cuộc đấu trnah giai cấp của các nước trên thế giới nói chung, Việt
Nma nói riêng vẫn diễn ra hết sức gay go, phức tạp. Điều này cũng có nghĩa
cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách
quan. Tuy nhiên, nhận thức của Đảng ta về đấu tranh giai cấp có nhiều điểm
mới; đó là tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân; phân biệt rõ tín ngưỡng
tôn giáo với việc lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm phá hoại
công cuộc xây dựng CNXH, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Thực hiện liên minh giai cấp cũng là một nội dung ( một mặt) của đấu
tranh giai cấp trên tinh thần ấy, Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X, XI luôn đề
cao tinh thần đại đòan kết dân tộc. Từ Đại hội IX, đã đề cậ nội dung mới của
cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay: “thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN khắc phục tình trạng
nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất
công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu
19


cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống pha của
các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc; xây dựng nước ta thành một nước
XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”. Như vậy, nội dung của cuộc đấu
tranh giai cấp không chỉ bao hàm nội dung chính trị mà cả kinh tế, văn hoá –
xã hội... mục tiêu của cuộc đấu trnah giai cấp hiện nay là xây dựng một xã hội
phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, quan niệm này khắc phục được khuynh
hướng tả khuynh, phiến diện cũng như khuynh hướng hứu khuynh trong nhận
thức về đấu tranh giai cấp.
* về kinh tế trong thời kỳ quá đọ lên CNXH. Nhận thức đúng hơn về mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: Trong Cương lĩnh 1991
Đảng ta nhấn mạnh đến việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, thấy rõ vai
trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, trong đó có
chế đọ cơ hữu, đó là sự trở về đúng với nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa
Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng giải phóng lực lượng sản xuất
trở thành tư tưởng căn bản, chủ đạo của đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, mở
đường cho hàng loạt những chính sách và giải pháp mang tính đột phá.
Đại hội IX đã xác định ba hình thức sở hữu cơ bản tồn tại trong nền kinh
tế, bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể. Đó là một
nhận thức mới về quan hệ sở hữu trong nền kinh tế của nước ta.
Vè quan hệ quản lý: Bước vào đổi mới, chúng ta đã xoá bỏ cơ chế kế

hoạch hoá tập chung chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN.
Về quan hệ phân phối: Từ chỗ coi nhà nước là chủ thể quyết định phân
phối tới chỗ xác định rõ vị trí phân phối lần đầu và cả phân phối lại. Thực
hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác
nhau vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối theo phúc lợi xã hội. Các
hình thức phân phối đa dạng là biện pháp điều chỉnh các quan hệ lợi ích trong
xã hội. Nhận thức đầy đủ hơn về các thành phần kinh tế và chế độ sở hữu.
Thời kỳ trước đổi mới Việt Nam chỉ có thành phần kinh tế XHCN (kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể), do đó cũng chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập
20


thể), sở hữu tư nhân không được thừa nhận. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta
đã có nhận thức mới về thành phần kinh tế và chế độ sở hữu. Ngay từ Đại hội
VI (1986), Đảng ta xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành
phần. Tiếp đó, các Đại hội VII, VIII. IX, X, XI vần nhất quán thừa nhận trong
thời kỳ quá độ sẽ tồn tại nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Đây là một điểm mới trong quan
điểm của Đảng ta về các thành phần kinh tế.
* Về chính trị và hệ thống chính trị XHCN. Trong những năm đổi mới,
sự đổi mới nhận thức về chính trị của Đảng tập chung vào đổi mới hệ thống
chính trị. Tại Hội nghị Trung ương VI, khoá VI, khái niệm (hệ thống chính
trị ) đã được Đảng ta chính thức sử dụng, thay cho khái niệm “hệ thống
chuyên chính vô sản” trước đó để phù hợp hơn với xu thế phát triển của đất
nước và thời đại, tránh sự hiểu lầm do vô tình hay hữu ý của một số người,
cho rằng “chuyên chính la bạo lực và chỉ là bạo lực”. Từ đó, khái niệm hệ
thống chính trị được sử dụng rộng rãi ở nước ta với cơ cấu, tổ chức và các

thành viên được xác định; đồng thời làm rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ
chức và xác lập cơ chế vận hành thông suốt của cả hệ thống dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng hiệu lực quản lý của
nhà nước được tăng cường. Chúng ta đang tiến hành cải cách hành chính
đồng thời xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Nhận thức dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới đất nước. Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta. Trong
những năm đổi mới, Đảng ta đã đề ra phương châm: “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”, nhằm phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, thực
hiện đại đoàn kết dân tộc, tạo luồng sinh khí mới cho công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước.
Từ Đại hội VI đến Đại hội XI, trong các nghị quyết của Đại hội và của
Hội gnhị Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã tiếp tục quan tâm, mở
rộng đan chủ, thực hiện dân chủ hoá, làm cho các giá trị dân chủ ngày càng đi
vào đời sống xã hội, tạo động lực, nguồn lực để thực hiện CNH-HĐH đất
nước, từng bước thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
21


* Về quan hệ giữa CNXH với CNTB hiện đại và chủ động hội nhập quốc
tế. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng ta đã nhận rõ phải mở cửa và hội
nhập với thế giới trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau Đảng ta khẳng định, phải quan hệ rộng rãi với các
nước không phân biệt chế độ chính tị, lý tưởng, thậm chí là cả với các nước
trước đây là kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta. Với chủ trương đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế, từ Đại hội VII (1994) đến nay, chúng ta đã thiết
lập được mối quan hệ hợp tác với gần 200 nước trên thế giới. Từ đó, chúng ta
phá được thế bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị của các thế lực
thù địch đối với Việt Nam. Sự chuyển bién tư duy quan trọng trong lĩnh vực

quốc tế và đối ngoại là quan điểm “thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ quốc tế” lấy việc bảo đảm lợi ích quốc gia là nguyên tắc tối cao trong
hội nhập. Trên cơ sở đó đã từng bước hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển. Đổi mới nhận thức theo tinh thần
“thêm bạn bớt thù”. Chúng ta đã nhiều lần tuyên bố “Việt Nam muốn là bạn”;
“là đối tác tin cậy” của các nước trong cộng đồng quốc tế; “là thành viên tích
cực và có tách nhiệm của các tổ chức quốc tế”, tích cực tham gia giải quyết
các vấn đề toàn cầu, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Hội nhập
kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho nước ta phát triển nhanh, mạnh, bền vững,
nhưng cũng đặt ra những thách thức cần phải vượt qua... Cương

lĩnh

năm

1991 đã nêu lên những phương hướng cơ bản về quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta gồm:
Một là, xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động
xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng
hiện đại hoá gắn liền với việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện lànhiệm
vụ trọng tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH,
không ngừng nâng cao năng xuất lao động và cải thiện đời sống nhân dân.

22



Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sợ quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của
nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá làm
cho thế giới quan Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong
đời sống tinh thần của xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá
tốt đệp của các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại,
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người với trình đọ tri thức, đạo đức, thế lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống
tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với truyền thống tôt đẹp của dân tộc và
những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên CNXH.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu
nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, đoàn kết với các nước XHCN, với tất cả lực lượng đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên nhiệm vụ hàng đầu là nhiệm vụ xây
dựng đất nước, nhân dân ta luôn nêu cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo
về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tổ quốc và các thành quả
cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về tư tưởng chính trị và
tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.
Đại hội Đảng lần thứ X và XI, đặc biệt là trong Cươưng lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã cụ
thể hoá hơn về những định hướng XHCN ở nước ta. Tóm lại, những phương
23


hướng trên là một hệ thống có tính toàn diện từ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, con người từ xây dựng Đảng đến xây dựng nhà nước nhằm thực hiện
những lợi ích của nhân dân; là định hướng để xây dựng chế độ XHCN ở nước
ta.
Công cuộc đổi mới từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã có nhiều sự
điều chỉnh từ nhận thức mục tiêu đến quá trình thực hiện công nghiệp hoá nền
kinh tế nước ta. Tại Đại hội VI, Đảng ta xác định cần phát triển một số ngành
công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hoá
XHCN. Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) của Đảng đã quyết định
đẩy tới một bước nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước; gắn công nghiệp hoá với
hiện đại hoá.
Đại hội lần thứ VIII (1996) Đảng ta nhận định, nước ta đã bước sang
thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trong đường lối CNH,
HĐH đất nước, tại Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương lần thứ IX,
Đảng ta xác định nước ta là một nước nông nghiệp nông dân chiếm đa số
trong dân cư, năng xuất lao động thấp, muốn xây dựng thành công CNXH thì
phải thực hiện CNH-HĐH, trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Đến Đại hội X, Đangt ta phát triển thêm một bước nhận thức về CNH, HĐH
đó là đẩy mạnh CNH, HĐH gắn liền với kinhtế tri thức.
Nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan
trọng qua 25 năm đổi mới đất nước, nhất là sau 20 năm thực hiện cương lĩnh
1991. Nhận thức này trước hết xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiêps thu có
chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Cương lĩnh 1991 khẳng định: “phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành

theo cơ chế thị trượng có sự quản lý của nhà nước. Đại hội VIII (1996), Đảng
ta đưa ra quan niệm rất mới, rất quan trọng về mối quan hệ giữa kinh tế hàng
hoá với CNXH: “sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH, mà là thành tựu
phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công
cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Đến Đại hội IX
(2001) khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” mới được chính

24


thức nêu trong văn kiện của Đảng, xem đó là mô hình kinh tế tổng quát trong
suốt thời kỳ quá độ lên \CNXH ở Việt Nam.
Tóm lại, sự nhận thức của Đảng ta về phát triển nền kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên CNXH với những điểm mới như phân tích trren thể hiện tính
linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước.
Về vai trò của văn hoá, xây dựng nền văn hoá XHCN vai trò của nhân
tố con người. Cương lĩnh 1991 đã khẳng định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triẻn kinh tế - xã hội. Tư tưởng này tiếp tục được khẳng
định qua các kỳ đại hội VIII, IX, X, XI. Đó là: Văn hoá là nền tảng tinh thần
của xã hội. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để làm
cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội. Sự phát triển
đất nước phải lấy văn hoá làm cơ sở, hướng tới những giá trị cao quý, giá trị
bản chất con người để xây dựng một xã hội tiến bộ, nhân văn, phù hợp với
chế độ ta.
Đảng ta khẳng định, trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, con người
vốn là hạt nhân cốt lõi. Bở lẽ, con người với trí tuệ và tiềm năng đặc biệt có
khả năng lựa chọn và tiếp thu một cách có chọn lọc những giá trị văn hoá
nhân loại để phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước.
Về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội. Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta về kết hợp hài hoà giữa

tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội được khẳng định trong hầu
hết các văn kiện Đại hội. Mọi chính sách xã hội được thực hiện theo nguyên
tắc công bằng sẽ là yếu tố quan trọng của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đại
hội X đã đưa ra tư tưởng chỉ đạo có tính chất định hướng chiến lược là: “thực
hiện tốt chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với
nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho sự phát
triển kinh tế - xã hội”.
Đảng ta nhấn mạnh, công bằng xã hội trước hết là thực hiện công bằng
trong quan hệ phân phối. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đồng thời tích cực
xoá đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về thu nhập và mức
sống giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Giải quyết tốt vấn đề an sinh xã
hội và thúc đẩy hoà nhập xã hội của nhóm yếu thế, nhất là nhóm có nguy cơ
25


×