Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.74 KB, 31 trang )

HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền
kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn
biến trên TTCK.
Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm, khi đó các
hàng hóa thông thường, ngoại tệ và chứng khoán cùng được giao dịch trên một thị
trường chung. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động, thị trường đã không thể đáp
ứng được yêu cầu của cả ba giao dịch khác nhau. Vì vậy, thị trường chứng khoán
đã được tách riêng và hình thành cùng với thị trường hàng hóa và thị trường ngoại
hối.
Quá trình phát triển của TTCK đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã
ghi nhận hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ,
Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào “ngày thứ năm đen tối”,
29/10/1929 và “ngày thứ hai đen tối”, 19/10/1987. Song, trải qua các cuộc khủng
hoảng, cuối cùng TTCK lại được phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thế
chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. TTCK cung ứng
phần lớn nhu cầu vốn dài hạn, góp phần phát triển kinh tế.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các
loại chứng khoán. Trong đó, chứng khoán là các loại giấy tờ có giá hay bút toán
ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ
chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa
các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán,
trao đổi chứng khoán làm thay đổi chủ sở hữu chứng khoán và thực chất đây chính
là quá trình vận động của tư bản.
Như vậy, bản chất của TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và
cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí
vốn hay giá cả của vốn đầu tư.
1.1.2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán


Tùy theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK có thể được phân theo
nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường người ta xem xét theo ba cách
thức cơ bản là phân loại theo hàng hóa, phân loại theo hình thức tổ chức thị trương
và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn.
1.1.2.1. Phân loại theo hàng hóa
Theo cách thức phân loại này, người ta phân TTCK thành thị trường trái phiếu,
thị trường cổ phiếu và thị trường các chứng khoán phái sinh.
Thị trường trái phiếu (Bond Market) là thị trường mà hàng hóa được mua bán
tại đó là các trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành
các công cụ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả
gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt
động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có
trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp
đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể trung hạn hay dài hạn.
Thị trường cổ phiếu ( Stock Market ) là nơi giao dịch, mua bán trao đổi các giấy
tờ xác nhận cổ phần đóng góp của các cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty
và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Việc sở hữu cổ phiếu cho
phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối với
tài sản của công ty, khi tài sản này được đem bán. Cổ phiếu có thời gian đáo hạn
không xác định.
Thị trường các chứng khoán phái sinh (Derivative Markets) là nơi các chứng
khoán phái sinh được mua và bán. Tiêu biểu cho các công cụ này là hợp đồng kỳ
hạn, hợp đồng tương lai (Future Contracts), hợp đồng quyền chọn (Options). Thị
trường này ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà quản lý tài chính. Nó
cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu, đồng thời cũng là công cụ đầu cơ lý
tưởng cho các nhà đầu tư.
1.1.2.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn
Theo cách phân loại này có thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Primary Market ) là thị trường phát
hành các chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị

trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán
trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc phát hành
chứng khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc
chi tiêu dùng của Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm
tài trợ cho các dự án đầu tư.
Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market ) là thị trường giao
dịch mua bán, trao đổi lại các chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích
kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau.
Về bản chất, mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp là mối
quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có thị
trường thứ cấp, đồng thời thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị
trường sơ cấp. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường hoạt
động huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ có tại thị trường này, vốn mới
thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động của vốn
trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp với việc tích tụ và
tập trung vốn.
1.1.2.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường
Theo cách thức phân loại này thì có Sở giao dịch chứng khoán, thị trường phi
tập trung và thị trường thứ ba.
Sở Giao dịch (Stock Exchange) là thị trường chính thức, tại đây người mua và
người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để
tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. Vì vậy, Sở giao dịch chứng
khoán còn được gọi là thị trường tập trung, nơi giao dịch mua bán, trao đổi chứng
khoán của các công ty lớn, hoạt động có hiệu quả. Sở giao dịch chứng khoán được
quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự
điều tiết của Luật Chứng khoán và TTCK.
Thị trường phi tập trung hay thị trường giao dịch qua quầy (OTC: Over-The-
Counter Market) là thị trường của các nhà buôn, những người tạo lập thị trường.
Các nhà buôn có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các

nhà buôn khác cũng như những nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả
của họ. Ở thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra
tại các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy
tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn nhiều lần
so với Sở giao dịch chứng khoán. Quản trị thị trường này là Hiệp hội các nhà kinh
doanh chứng khoán quốc gia. Hiệp hội này ban hành quy chế thị trường, kết nạp và
khai trừ các thành viên, giám sát việc thi hành quy chế thành viên của Hiệp hội.
Thị trường thứ ba là thị trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn
để giao dịch trên thị trường tập trung và OTC.
1.1.3. Vai trò của Thị trường chứng khoán
Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò
của TTCK trong phát triển kinh tế:
Thứ nhất, TTCK thực hiện việc tích tụ, tập trung và phân phối, chuyển thời
hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Qua TTCK, Chính phủ và các doanh nghiệp phát hành các chứng khoán để
huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và chi tiêu. Thông qua
TTCK nguồn vốn tiết kiệm được chuyển thành vốn đầu tư. Yếu tố thông tin và yếu
tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu
quả. Trên TTCK, tất cả các thông tin được cập nhật và chuyển tải tới tất cả các nhà
đầu tư, nhờ đó, họ có thể phân tích và định giá cho các doanh nghiệp. Chỉ có
những công ty có hiệu quả bền vững mới có thể nhận được vốn với chi phí rẻ trên
thị trường. Điều này khuyến khích tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị
trường, tạo áp lực buộc các doanh nghiệp này phải làm ăn có hiệu quả cao và minh
bạch. Hơn nữa, sự tồn tại của TTCK cũng là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu
tư nước ngoài. Đây chính là các yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực trong một quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế.
TTCK cũng tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không
tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài
chính tiền tệ của Chính phủ.
Thứ hai, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua

việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải tỏa
sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát
triển kinh tế. Việc giải tỏa quyền lực tập trung tạo điều kiện cạnh tranh công bằng
hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp mở rộng quy mô, môi trường kinh doanh trở nên phức
tạp hơn, yêu cầu về năng lực quản trị, điều hành công ty cũng tăng theo. TTCK tạo
điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám
sát cao của TTCK đã làm giảm tác động của các tiêu cực trong quản lý, tạo điều
kiện kết hợp hài hòa giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm
công.
Thứ tư, TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về chu kỳ kinh doanh trong
tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh
cho phép Chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư và việc phân
bổ nguồn lực của họ. TTCK cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Thứ năm, hiệu quả quốc tế hóa của TTCK. Việc mở cửa TTCK làm tăng tính
lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể
huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng
thời tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của
các công ty trong nước.
Ngoài những tác động tích cực trên đây, TTCK cũng có những tác động tiêu
cực nhất định. TTCK hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song ở các thị
trường mới nổi, các thông tin được chuyển tải tới nhà đầu tư không đầy đủ và
không giống nhau. Việc quyết định giá cả mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư
không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin. Như vậy, giá cả chứng khoán
không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối
một cách hiệu quả các nguồn lực.
Một số tiêu cực khác của TTCK như hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột
quyền lực làm thiệt hại quyền lợi của các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội gián,

thao túng thị trường...
Như vậy, vai trò của TTCK được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Song vai trò tích cực hay tiêu cực của TTCK có thực sự được phát huy hay hạn chế
phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trường và sự quản lý của Nhà nước.
1.1.4. Các chủ thể tham gia trên Thị trường chứng khoán
1.1.4.1. Chính phủ
Chính phủ tham gia vào TTCK với hai tư cách:
Thứ nhất, Chính phủ là người tổ chức, quản lý và giám sát thị trường thông qua
đại diện là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, cơ quan quản lý Nhà nước về chứng
khoán và TTCK. Vai trò của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là tổ chức, hướng dẫn
và quản lý TTCK, đồng thời soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và
TTCK để trình các cấp có thẩm quyền xem xét quyết định, cũng như tổ chức và
hướng dẫn thực hiện các văn bản đó.
Ngoài Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước, các cơ quan quản lý Nhà Nước khác
như NHNN, Bộ Tài chính, Các bộ chủ quản cũng có vai trò quan trọng trong hoạt
động quản lý đối với các thành viên tham gia thị trường. Sự phối hợp giữa các cơ
quan quản lý Nhà Nước trong hoạt động quản lý thị trường, quản lý các thành viên
có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn cho hoạt
động của thị trường.
Thứ hai, Chính Phủ tham gia thị trường như là một nhà phát hành và kinh
doanh chứng khoán. Chính Phủ có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn
như Trái phiếu Chính Phủ, Tín phiếu Kho Bạc nhằm mục đích tài trợ cho các dự án
đầu tư hoặc chi tiêu dùng. Những chứng khoán này là loại hàng hoá chủ đạo của
TTCK. Thông qua nghiệp vụ thị trường mở NHNN có thể tham gia thị trường để
thực thi chính sách tiền tệ. Chính Phủ cũng có thể tham gia thị trường cổ phiếu khi
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước hoặc muốn tham gia quản lý, nắm quyền
kiểm soát các doanh nghiệp.
Có thể nói, vai trò của Chính Phủ đối với sự vận hành TTCK một cách ổn định
và hiệu quả là rất quan trọng, đặc biệt là đối với những thị trường mới nổi như Thị
trường chứng khoán ở Việt Nam.

1.1.4.2. Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp là chủ thể quan trọng với vai trò của tổ chức phát hành
chứng khoán và nhà đầu tư.
Các doanh nghiệp thực hiện việc cung cấp các loại hàng hóa cho TTCK bằng
cách phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu, qua đó, doanh nghiệp huy động vốn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
So với trái phiếu của chính phủ thì chứng khoán của doanh nghiệp có độ rủi ro
cao hơn nhưng đổi lại nó có thể mang lại cho nhà đầu tư mức sinh lợi cao hơn, vì
vậy đối với các nhà đầu tư đây là những công cụ hấp dẫn.
Trong các loại hình doanh nghiệp, công ty cổ phần là hình thức doanh nghiệp
chủ yếu có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu để huy động vốn trên TTCK.
Công ty có thể tự mình phát hành chứng khoán hoặc phát hành thông qua đại lý
hoặc bảo lãnh phát hành.
Với vai trò là nhà đầu tư trên thị trường, các doanh nghiệp tham gia mua bán
chứng khoán trên TTCK để với hai mục đích: thực hiện nghiệp vụ đầu tư và nghiệp
vụ ngân quỹ. Khi thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ, doanh nghiệp chủ yếu mua bán
các chứng khoán có độ thanh khoản cao để đáp ứng các nhu cầu thanh toán nhanh,
ngược lại, khi thực hiện nghiệp vụ đầu tư chứng khoán, doanh nghiệp thường lựa
chọn một danh mục đầu tư theo nguyên tắc đa dạng hóa tài sản và giảm thiểu rủi
ro. Ngoài ra, các doanh nghiệp mua bán chứng khoán còn nhằm mục đích thâu tóm
và sáp nhập doanh nghiệp.
Phát triển các hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán của doanh
nghiệp sẽ làm đa dạng hóa các công cụ đầu tư cho TTCK đồng thời tạo điều kiện
cho các NHTM thực hiện các nghiệp vụ như đại lý, bảo lãnh phát hành, tư vấn,
môi giới, quản lý danh mục đầu tư.
1.1.4.3. Cá nhân và hộ gia đình
Các cá nhân và các hộ gia đình tham gia trên TTCK với tư cách là các nhà đầu
tư cá thể, họ đầu tư chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Các nhà đầu tư cá thể
có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các nhà đầu tư có tổ
chức, các trung gian tài chính. Hoạt động kinh doanh chứng khoán của các nhà đầu

tư cá thể tạo ra tính sôi động của thị trường, đồng thời tạo điều kiện để các trung
gian tài chính phát triển các dịch vụ hỗ trợ thị trường.
1.1.4.4. Trung gian tài chính
Các trung gian tài chính là một chủ thể quan trọng của TTCK. Tùy theo luật
pháp của mỗi nước, các trung gian tài chính tham gia trên TTCK không chỉ để huy
động vốn thông qua phát hành chứng khoán hay kinh doanh chứng khoán như một
doanh nghiệp thông thường mà còn có thể là thành viên hỗ trợ cho hoạt động của
thị trường qua các nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng
khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán ...
Trong các trung gian tài chính, NHTM là tổ chức quan trọng nhất, tham gia
thường xuyên và đa dạng trên TTCK. Sự tham gia của các NHTM đóng vai trò rất
quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển và tăng tính hiệu quả của thị trường. Điều
này được lý giải bởi sự giảm thiểu chi phí giao dịch và giảm thiểu rủi ro.
NHTM có thể giảm chi phí giao dịch từ việc tiết kiệm do quy mô. Với lợi thế
chuyên môn hoá, các NHTM có thể giảm chi phí cho việc thu thập và xử lý thông
tin, từ đó, chi phí thông tin trên một đơn vị giao dịch sẽ nhỏ hơn so với chi phí loại
này của cá nhân một nhà đầu tư. Các NHTM cũng có thể tiết kiệm được các khoản
chi phí do tận dụng khai thác triệt để cơ sở vật chất, nhân lực trong việc cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ cho các nhà đầu tư.
Các NHTM có thể giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hoá đầu tư và kiểm soát
thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch, rủi ro đạo đức - điều mà một nhà
đầu tư cá thể khó có thể thực hiện được.
1.1.4.5. Các tổ chức khác liên quan đến thị trường
Ngoài các chủ thể trên, còn có các tổ chức quan trọng khác liên quan đến tổ
chức và hoạt động của TTCK, như:
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành TTCK thông qua bộ máy tổ chức
và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán trên cơ sở
phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ ban chứng khoán.
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty chứng
khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành

lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà đầu tư trên thị
trường.
Các tổ chức hỗ trợ là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích
mở rộng và tăng trưởng của TTCK thông qua hoạt động như cho vay tiền để mua
cổ phiếu, cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức
hỗ trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước
không cho phép thành lập các loại hình tổ chức này.
Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh
giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực tài
chính của các tổ chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết của tổ chức
phát hành đối với đợt phát hành cụ thể. Các nhà đầu tư có thể dựa vào hệ số tín
nhiệm về tổ chức phát hành do các công ty tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra
quyết định đầu tư của mình.
Như vậy, trên TTCK có rất nhiều các chủ thể tham gia với những mục đích và
vai trò khác nhau trong đó NHTM là tổ chức có vai trò rất quan trọng. Mô hình
hoạt động của NHTM trên TTCK và các hoạt động của tổ chức này trên TTCK sẽ
được trình bày trong phần dưới đây.
1.2. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
1.2.1. NHTM và các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK
1.2.1.1. Tổng quan về NHTM
NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động, kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ và làm các dịch vụ ngân hàng, là một trong các tổ chức tài chính trung
gian quan trọng nhất trong nền kinh tế.
NHTM thực hiện các hoạt động chủ yếu như:
Hoạt động huy động vốn
Đây chính là hoạt động tạo vốn cho NHTM và đóng vai trò quan trọng, ảnh
hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu là một bộ phận
quan trọng trong nguồn vốn của NHTM. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình
thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ

ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt
động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ
cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các
tổ chức và của dân cư. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có
nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện
nhiều hình thức huy động khác nhau như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn
của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền
gửi của các ngân hàng khác.
Bên cạnh đó, NHTM cũng có thể tiến hành vay NHTW, các tổ chức tín dụng
khác hoặc có thể phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, trái phiếu.
Cùng với quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế thị trường
các NHTM có thể có những nguồn vốn khác không mang tính thường xuyên từ
những hoạt động cung cấp dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, đầu tư, cấp phát,
giải ngân...
Hoạt động cho vay, đầu tư
Với số vốn huy động được, các ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay đối với
Chính Phủ, các doanh nghiệp, cá nhân. Cho vay là tài sản lớn nhất ở phần lớn các
NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Các sản phẩm cho vay có
thể được phân chia theo các tiêu thức khác nhau như là thời gian, đối tượng vay
vốn và tính chất sử dụng. Đây là hoạt động sinh lợi lớn nhất cho ngân hàng song
cũng gây ra rủi ro lớn nhất cho ngân hàng nếu như khách hàng không hoàn trả
đúng hạn hay không có khả năng hoàn trả.

×