Tải bản đầy đủ (.docx) (132 trang)

Các yếu tố tác động đến đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình nông thôn vùng đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.68 KB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THANH VÂN

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐA DẠNG
HOÁ THU NHẬP CỦA HỘ GIA ĐÌNH NÔNG
THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THANH VÂN

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐA DẠNG
HOÁ THU NHẬP CỦA HỘ GIA ĐÌNH NÔNG
THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN TIẾN KHAI

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Các yếu tố tác động đến đa dạng hoá
thu nhập của hộ gia đình nông thôn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long ” là
nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Tiến Khai. Các số
liệu, bảng biểu, nguồn dữ liệu trích dẫn là rõ ràng và hoàn toàn trung thực trong
phạm vi hiểu biết của tôi.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và tính trung thực của đề tài
nghiên cứu này.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2015
Học viên

LÊ THỊ THANH VÂN


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH ẢNH
DANH MỤC VIẾT TẮT
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Chương 1 - TỔNG QUAN............................................................................................ 1
1.1Vấn đề nghiên cứu.................................................................................................... 1
1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu............................................................................... 3
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................ 4
1.4 Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 4

1.5 Bố cục của đề tài...................................................................................................... 5
Chương 2 - CƠ SỞ LÝ THUYẾT................................................................................. 6
2.1 Lý thuyết khung sinh kế bền vững ( Sustainable livelihoods framework )..............6
2.2 Chiến lược sinh kế và đa dạng hoá thu nhập.......................................................... 10
2.3 Các yếu tố tác động đến đa dạng hoá thu nhập...................................................... 13
2.4 Đo lường đa dạng hoá thu nhập của hộ gia đình.................................................... 18
2.5 Một số nghiên cứu liên quan.................................................................................. 21
Chương 3 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................. 31
3.1 Tổng quan về vùng Đồng bằng sông Cửu Long..................................................... 31
3.2 Khung phân tích đánh giá tác động........................................................................ 38


3.3 Nguồn dữ liệu nghiên cứu...................................................................................... 46
3.4 Phương pháp và mô hình nghiên cứu đánh giá các nhân tố tác động đến quyết
định đa dạng hoá thu nhập của các hộ gia đình nông thôn ĐBSCL.............................47
3.5 Định nghĩa và mô tả biến trong mô hình................................................................ 49
Chương 4 – NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................ 52
4.1 Thống kê mô tả dữ liệu trong mô hình................................................................... 52
4.2 Kết quả ước lượng mô hình hồi quy Tobit............................................................. 63
Chương 5 - KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH................................................... 79
5.1 Kết luận................................................................................................................. 79
5.2 Hàm ý chính sách................................................................................................... 82
5.3 Hạn chế và hướng phát triển đề tài......................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu sử dụng đất vùng ĐBSCL
Bảng 2.2: Phân bố theo số người trong hộ và quy mô hộ trung bình vùng ĐBSCL

Bảng 4.1 Thành phần thu nhập các hộ gia đình nông thôn vùng ĐBSCL năm 2010
Bảng 4.2 Thành phần thu nhập các hộ gia đình nông thôn vùng ĐBSCL năm 2012
Bảng 4.3 Bảng thống kê số lượng thành viên trong hộ
Bảng 4.4:Bảng thống kê giới tính chủ hộ
Bảng 4.5:Bảng thống kê các loại tài sản riêng của hộ
Bảng 4.6:Bảng thống kê khả năng tiếp cận tín dụng của hộ
Bảng 4.7:Bảng thống kê các nhóm dân tộc vùng ĐBSCL
Bảng 4.8:Bảng thống kê hộ có thành viên hoạt động trong cơ quan nhà nước
Bảng 4.9:Thống kê cơ sở hạ tầng và vật chất trên địa bàn hộ
R

Bảng 4.10 Mô hình Tobit (1 ) sau khi khắc phục phương sai thay đổi năm 2010
Bảng 4.11 Mô hình Tobit (2) sau khi loại bỏ nhân tố đặc điểm khu vực năm 2010
R

Bảng 4.12 Mô hình Tobit (3 ) sau khi khắc phục phương sai thay đổi năm 2012
Bảng 4.13 Bảng tổng hợp kết quả hệ số hồi quy trong ba mô hình trên
Bảng 4.14 Bảng tổng hợp kết quả hệ số hồi quy chuẩn hoá trong ba mô hình trên


DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2.1: Sơ đồ Khung sinh kế bền vững
Hình 3.1: Khung phân tích các yếu tố tác động đến đa dạng hoá thu nhập của hộ
Hình 3.2: Phân loại các nguồn thu nhập hộ gia đình theo VHLSS 2010, 2012
Hình 4.2: Phân bố mức độ đa dạng hoá vùng ĐBSCL năm 2010
Hình 4.3: Phân bố mức độ đa dạng hoá vùng ĐBSCL năm 2012
Hình 4.4: Sự phân bố tuổi của chủ hộ
Hình 4.5: Phân bố trình độ học vấn trung bình của hộ năm 2010
Hình 4.6: Phân bố trình độ học vấn trung bình của hộ năm 2012
Hình 4.7: Phân bố diện tích đất SXKD của hộ năm 2010

Hình 4.8: Phân bố diện tích đất SXKD của hộ 2012
Hình 4.9: Thống kê số thảm hoạ xảy ra trên địa bàn hộ


DANH MỤC VIẾT TẮT
Tên viết tắt

Tên Tiếng Việt

DFID

Bộ Phát triển Quốc tế Anh

ĐBSCL

Đồng bằng Sông Cửu Long

GSI

chỉ số Gini – Simpson

HI

Chỉ số Herfindahl - Simpson

NYS

Số lượng các nguồn thu nhập

NYSPC

SLF

Số lượng các nguồn thu nhập bình quân đầu người
Khung lý thuyết sinh kế bền vững

SXKD

Sản xuất kinh doanh

UBND

Ủy ban nhân dân

VHLSS

Bộ dữ liệu điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam


TÓM TẮT LUẬN VĂN
Đề tài “ Các yếu tố tác động đến đa dạng hoá thu nhập của hộ gia đình nông
thôn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long ”, được thực hiện trong thời gian từ tháng
6 đến tháng 12 năm 2015. Với mục tiêu tối đa hoá thu nhập hay đảm bảo mức sống
ổn định, các hộ gia đình theo đuổi các chiến lược sinh kế khác nhau nhằm đạt được
sinh kế bền vững, các chiến lược sinh kế bao gồm: chuyên môn hoá, đa dạng hoá
hay di cư. Trong giai đoạn hiện nay, đa dạng hóa thu nhập được coi là chiến lược
khá phổ biến giúp cho các hộ gia đình tích luỹ thêm tài sản hay ứng phó với các rủi
ro, điều kiện bất ổn của sản xuất và thị trường mà đặc biệt là các hộ gia đình nông
thôn thuộc vùng ĐBSCL hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp chịu ảnh
hưởng lớn từ các điều kiện thời tiết, thiên tai, dịch bệnh... như các hộ gia đình khu
vực ĐBSCL. Tuy nhiên, không phải bất kỳ hộ gia đình nào cũng thực hiện được

việc đa dạng hoá thu nhập đến các lĩnh vực khác mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố.Bài nghiên cứu này sẽ tiến hành phân tích các yếu tố tác động đến quyết định đa
dạng hoá thu nhập của các hộ gia đình nông thôn khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long nhằm làm rõ các nhân tố tác động nhiều nhất đến việc đa dạng hoá thu nhập
của hộ gia đình nông thôn nơi đây, từ đó, đưa ra các khuyến nghị, chính sách phù
hợp giúp các hộ gia đình đa dạng hoá thu nhập đảm bảo sinh kế bền vững trước điều
kiện bất lợi, cú sốc của thời tiết và thị trường.
Bài nghiên cứu áp dụng khung lý thuyết sinh kế bền vững (SLF), sử dụng mô
hình hồi quy Tobit kết hợp với bộ số liệu điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam
năm 2010 và 2012 (VHLSS 2010 và VHLSS 2012) đã được chọn lọc từ các hộ gia
đình nông thôn khu vực ĐBSCL.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố tác động đến đa dạng hóa thu
nhập hộ gia đình nông thôn vùng ĐBSCL là giới tính và tuổi của chủ hộ, số lượng
thành viên trong hộ, tỷ lệ thành viên trong hộ hoạt động nông nghiệp, tỷ lệ thành
viên trong hộ hoạt động phi nông nghiệp, mối quan hệ khi hộ có thành viên tham
gia vào các đoàn thể, cơ quan tổ chức chính trị - xã hội, tiếp cận tín dụng và diện


tích đất sản xuất kinh doanh của hộ. Trong khi đó, các nhân tố được kỳ vọng là trình
độ học vấn với số năm học trung bình của tất cả lao động trong hộ, dân tộc, tài sản
riêng của hộ như xe máy, điện thoại, nhà ở, các biến về khoảng cách đến chợ, đến
thị trấn, các biến về cơ sở vật chất trên địa bàn hộ sinh sống như đường giao thông,
nhà máy, trung tâm/ trạm khuyến nông, nhà trẻ/ trường mẫu giáo và biến thảm hoạ
đã không có ý nghĩa thống kê.
Qua tìm hiểu về các nhân tố tác động đến đa dạng hoá thu nhập của các hộ
gia đình nông thôn khu vực ĐBSCL, tác giả kỳ vọng cung cấp được các đề xuất hợp
lý cho việc thúc đẩy các hộ gia đình nông thôn đa dạng hoá thu nhập nhằm đảm bảo
sinh kế, cải thiện đời sống, đóng góp một phần vào công cuộc giảm nghèo đặc biệt
là các hộ gia đình khu vực vùng sâu, vùng xa.



1

Chương 1 - TỔNG QUAN
1.1 Vấn đề nghiên cứu
Đồng bằng sông Cửu Long thuộc khu vực miền Tây Nam Bộ, nằm ở phía cực
nam của Việt Nam, là vùng sản xuất lương thực trọng điểm của cả nước, tiềm năng
phát triển đa dạng về nông nghiệp, thủy sản và du lịch.Với tổng diện tích 39.747
km², chiếm 12% diện tích cả nước, dân số khoảng 17,3 triệu người, chiếm gần 21%
dân số cả nước, trong đó dân số nông thôn chiếm 75,47%, hàng năm khu vực này
đóng góp vào khoảng 18,5% GDP của cả nước, 55,6% sản lượng lúa, trên 50% sản
lượng trái cây, 54% sản lượng thủy sản, 90% sản lượng gạo xuất khẩu và chiếm gần
60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước,vùng tăng trưởng và phát triển chủ
yếu dựa vào sản xuất lúa kết hợp với các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp
theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2013. Đóng góp một vai trò quan trọng
trong sự phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam.
Tuy nhiên, với sự tăng trưởng kinh tế ổn định bình quân giai đoạn 2001 2010 đạt 11,7%/ năm và sự đóng góp to lớn trong vĩnh vực nông nghiệp bậc nhất cả
nước thì hiện nay khu vực đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
cần được giải quyết như tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Theo báo cáo đánh giá nghèo Việt
Nam năm 2012 của World Bank, đến năm 2010 nếu tính theo chuẩn nghèo mới thì
tỷ lệ nghèo của vùng là 18,7% so với cả nước là 20,7%, đặc biệt ở các khu vực vùng
sâu vùng xa, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Theo kết quả điều tra mức sống hộ
gia đình của Tổng cục thống kê năm 2012, thu nhập bình quân đầu người của vùng
đạt 1,79 triệu đồng/tháng so với mức trung bình cả nước là 1,99 triệu đồng/năm, thu
nhập vùng thấp hơn 0,9 lần so với mức trung bình của cả nước. Có sự bất bình đẳng
xảy ra trong phân phối thu nhập với mức chênh lệch thu nhập trung bình giữa nhóm
thu nhập thấp và nhóm thu nhập cao có xu hướng tăng theo thời gian từ 6,8 lần lên
7,3 lần từ năm 2002 đến năm 2008.Qua đó cho thấy, khu vực đồng bằng sông Cửu
Long cần có biện pháp cụ thể làm giảm tỷ lệ nghèo và thu hẹp khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo nhằm đảm bảo mục tiêu giảm nghèo trong vùng và cân bằng phúc

lợi cho các hộ gia đình khu vực đồng bằng sông Cửu Long.


2

Đặc biệt trong những năm gần đây, đồng bằng sông Cửu Long đang đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức đe doạ đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh ảnh
hưởng đến đời sống và phúc lợi của các hộ gia đình nơi đây. Thứ nhất, tác động của
biến đổi của khí hậu, dịch bệnh sâu bọ, tình trạng xâm nhập mặn, mùa lũ gần một
nửa diện tích của vùng đồng bằng sông Cửu Long bị ngập, kéo dài từ 3 đến 4 tháng.
Hiện tượng nước biển dâng kéo theo sự xói mòn, sạt lở, làm mất đi nhà ở kèm theo
mất đất sản xuất nông nghiệp. Thêm vào đó, những diễn biến thất thường của thời
tiết làm ảnh hưởng mạnh đến hoạt động sản xuất nông nghiệp vốn là sinh kế chủ
yếu của hộ gia đình nông thôn.
Thứ hai, những rủi ro về giá trong sản xuất nông nghiệp và cạnh tranh của
hàng hóa nước ngoài đã làm ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người dân khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Thứ ba, tác động của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành công
nghiệp và dịch vụ mà quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động lại diễn ra chậm, lao
động chưa đủ trình độ để đáp ứng cùng với sự thay đổi một số chính sách vĩ mô của
chính phủ có thể gây tổn thương đến các hộ gia đình mà đặc biệt là các hộ nghèo
không kịp thích nghi.
Đây có thể là các nguyên nhân dẫn đến việc đa dạng hoá thu nhập tại các hộ
gia đình nhằm tìm kiếm thêm các cơ hội cải thiện thu nhập, bảo vệ tiêu dùng và
giảm thiểu các rủi ro trước các cú sốc về thời tiết và thị trường.Chiến lược đa dạng
hóa thu nhập giúp phân bổ lại các nguồn lực lao động trong các hộ gia đình, cũng
như việc phân tán rủi ro từ các hoạt động nông nghiệp đa dạng sang các lĩnh vực phi
nông nghiệp.
Một mặt, đa dạng hoá sinh kế có thể giúp cho các hộ gia đình đảm bảo sinh
kế, cải thiện cuộc sống. Tuy nhiên, trên thực tế không phải hộ gia đình nào, khu vực

nào cũng cải thiện được đời sống từ chiến lược này. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ
ra rằng nếu hoạt động đa dạng hoá mang tính chủ động mang lại thu nhập cao hơn
hoạt động sản xuất hiện tại của hộ và được coi là “lựa chọn” hoặc đa dạng hoá tích
cực. Ngược lại, nếu hoạt động đa dạng hoá mang lại thu nhập thấp hơn các hoạt


3

động bình thường của hộ thì được xem là sự ứng phó hay đa dạng hoá tiêu cực.
Dạng này có thể rất cần thiết cho hộ để đáp ứng các nhu cầu bức thiết trước mắt
nhưng có thể làm trầm trọng thêm trạng thái đói nghèo của hộ về lâu dài do nguồn
lực sử dụng kém hiệu quả (Ellis, 2000; Asley, 2003; Bùi Thị Tám và cộng sự, 2009).
Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu đến vấn đề đa dạng hoá thu nhập ở hộ gia đình
là phức tạp. Hiện nay, có nhiều bài nghiên cứu trong nước và nước ngoài về lĩnh
vực nghiên cứu này. Tuy nhiên, tương đối ít nghiên cứu phân tích các yếu tố tác
động đến đa dạng hoá thu nhập của hộ gia đình ở khu vực vùng, miền để cho ra các
kết quả cụ thể mang tính đặc trưng của vùng/ miền hơn là trên toàn quốc.
Vì vậy, đề tài phân tích “Các yếu tố tác động đến đa dạng hoá thu nhập
của hộ gia đình nông thôn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long” mang ý nghĩa
thực tiễn đối với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, cung cấp các thông tin cần
thiết cho cấp lãnh đạo khu vực đưa ra các chính sách hỗ trợ phù hợp nhằm thúc đẩy
việc đa dạng hóa thu nhập của các hộ gia đình nông thôn thành công đảm bảo phúc
lợi cho các hộ gia đình, góp phần vào công cuộc giảm nghèo và nâng cao đời sống
người dân nơi đây ngang tầm với mức đóng góp của vùng trong cả nước, bài nghiên
cứu sẽ tiến phân tích các yếu tố quyết định đa dạng hoá thu nhập ở hộ gia đình, góp
phần làm phong phú thêm các nghiên cứu về đa dạng hoá thu nhập của hộ gia đình
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời nghiên cứu cũng cung cấp cho các
hộ gia đình có thêm thông tin lựa chọn mô hình đa dạng hóa phù hợp giúp cải thiện
phúc lợi, nâng cao chất lượng đời sống.
1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung: Đánh giá các yếu tố tác động đến đa dạng hoá thu nhập của các hộ
gia đình nông thôn khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Mục tiêu cụ thể:
-

Phân tích các nhân tố tác động đến quyết định đa dạng hóa thu nhập ở các hộ gia
đình đồng nông thôn bằng sông Cửu Long.


4

-

Đưa ra gợi ý chính sách cho chính phủ về việc thúc đẩy đa dạng hoá thu nhập hộ gia
đình khu vực đồng bằng Sông Cửu Long.
1.2.2 Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm vào việc trả lời cho các câu hỏi sau:

-

Đa dạng hóa thu nhập của các hộ gia đình nông thôn khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long có các đặc trưng gì ?
- Các yếu tố nào tác động đến khả năng đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình

nông thôn đồng bằng sông Cửu Long ?
- Các chính sách nào phù hợp thúc đẩy đa dạng hóa thu nhập hộ gia đình khu
vực đồng bằng sông Cửu Long ?
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề đa dạng hoá thu nhập của các hộ gia đình nông

thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các yếu tố tác động đến đa dạng hoá thu
nhập của họ.
Phạm vi nghiên cứu: Các hộ gia đình nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long
bao gồm 12 tỉnh: An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang,
Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ.
Nghiên cứu dựa trên bộ dữ liệu khảo sát mức sống hộ gia đình (VHLSS) của
Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2010 và năm 2012.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu áp dụng phương pháp định lượng sử dụng mô hình hồi quy Tobit
để phân tích các yếu tố tác động đến đa dạng hoá thu nhập của hộ gia đình thông
qua lý thuyết khung sinh kế bền vững bao gồm 5 nhân tố chính: vốn con người, vốn
tài chính, vốn vật chất, vốn xã hội, vốn tự nhiên và đặc điểm khu vực, sử dụng
phương pháp đo lường đa dạng hoá thu nhập thông qua chỉ số Herfindahl nghịch
đảo. Phương pháp nghiên cứu sẽ được trình bày cụ thể trong chương 3. Bên cạnh đó
bài nghiên cứu cũng sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp thống kê mô
tả, phương pháp so sánh, tổng hợp các nghiên cứu có liên quan.


5

1.5 Bố cục của đề tài
Đề tài nghiên cứu được chia làm 5 chương:
Chương 1.Tổng quan: Trình bày lý do nghiên cứu; Mục tiêu và câu hỏi
nghiên cứu; Đối tượng và phạm vi nghiên cứu; Phương pháp nghiên cứu; Đóng góp
của đề tài; Và kết cấu chung đề tài.
Chương 2.Cơ sở lý thuyết: Trình bày các khái niệm; Các lý thuyết liên quan;
Tổng quan một số nghiên cứu trước trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài;
Trình bày tổng quan về tình hình kinh tế xã hội tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Chương 3.Phương pháp nghiên cứu: Trình bày phương pháp và mô hình
đánh giá tác động; Giới thiệu dữ liệu và mô tả các biến số trong mô hình.

Chương 4.Nội dung và kết quả nghiên cứu: Thống kê mô tả các biến số đưa
vào mô hình; Trình bày các đặc trưng đa dạng hoá thu nhập của các hộ gia đình
nông thôn khu vực ĐBSCL thông qua số liệu thống kê mô tả từ bộ dữ liệu; Trình
bày kết quả nghiên cứu sau khi chạy mô hình hồi quy, phân tích tác động của các
nhân tố đến quyết định đa dạng hoá thu nhập của hộ gia đình nông thôn khu vực
ĐBSCL; Giải thích các kết quả xuất hiện trong mô hình.
Chương 5.Kết luận và gợi ý chính sách: Đưa ra các kết luận tổng quát và các
chính sách giúp các hộ gia đình đa dạng hoá thu nhập đảm bảo sinh kế bền vững
trước điều kiện bất lợi, cú sốc của thời tiết và thị trường hay gia tăng thu nhập; Nêu
ra các hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu trong tương lai.


6

Chương 2 - CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1 Lý thuyết khung sinh kế bền vững (Sustainable livelihoods framework)
Nghiên cứu này căn cứ trên các khái niệm về Khung sinh kế bền vững được
Amartya Sen (1981) xây dựng trong nghiên cứu về các quyền và mối quan hệ với
nạn đói nghèo. Sau đó, khái niệm "Khung sinh kế bền vững" đã trở nên ngày càng
quan trọng trong các cuộc tranh luận về phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo
(Scoones, 1998). Thuật ngữ này liên quan đến một loạt các vấn đề và định nghĩa của
nó đã được đề xuất và sửa đổi nhiều lần kể từ năm 1992 khi lần đầu tiên được giới
thiệu bởi Ủy ban Brundtland về Môi trường và Phát triển. Trong số các định nghĩa,
định nghĩa của Conway (1987) về sinh kế bền vững như sau:
“ Sinh kế bao gồm năng lực, tài sản (dự trữ, nguồn lực, yêu cầu và tiếp cận)
và các hoạt động cần có để bảo đảm phương tiện sinh sống: sinh kế chỉ bền vững
khi nó có thể đương đầu và phục hồi sau các cú sốc, duy trì hoặc cải thiện năng lực
và tài sản, và cung cấp các cơ hội sinh kế bền vững cho các thế hệ kế tiếp; và đóng
góp lợi ích ròng cho các sinh kế khác ở cấp độ địa phương hoặc toàn cầu, trong
ngắn hạn và dài hạn.”

Theo lý thuyết khung sinh kế bền vững, có năm nhân tố được đặt làm trọng tâm
có mối quan hệ ảnh hưởng lớn đến việc tạo ra sinh kế hộ gia đình bao gồm bao gồm
vốn tự nhiên, vốn vật chất, vốn con người, vốn xã hội và vốn tài chính. Tuy nhiên, mức
độ mà hộ có thể tiếp cận vào các tài sản bị ảnh hưởng mạnh bởi bối cảnh của hộ theo
các xu hướng (ví dụ như kinh tế, chính trị) hoặc những cú sốc (ví dụ như các thảm họa
tự nhiên). Hơn nữa, các môi trường xã hội, thể chế và chính trị khác đều có tác dụng
nhất định vào cách một người sử dụng tài sản của mình để đạt được mục tiêu của họ,
được gọi là chiến lược sinh kế. Đa dạng hóa sinh kế là một trong ba chiến lược sinh kế
cho phép hộ gia đình tăng thu nhập, giảm thiểu sự biến động thu nhập, cải thiện sinh kế
của họ do đó phúc lợi của họ tăng lên. Trong bối cảnh dễ bị tổn thương và sự hạn chế
đối với việc tiếp cận với các loại hình tài sản sinh kế nhất định, con người phải tìm cách
tăng trưởng và kết hợp những tài sản mà họ có một cách sáng tạo để đảm bảo sự sống,
tồn tại và phát triển. Một trong những

7


chiến lược sinh kế quan trọng hiện nay chính là đa dạng hóa. Một số bài nghiên cứu
trước đã sử dụng khung lý thuyết sinh kế bền vững để đánh giá các yếu tố tác động
đến đa dạng hoá thu nhập như Alobo Sarah (2012). Khung lý thuyết sinh kế bền
vững (SLF) được trình bày cụ thể qua sơ đồ sau.

Các kết quả sinh
kế

Vốn sinh kế
Cơ cấu và quá trình chuyển
đổi

Bối cảnh

(gây bất lợi)
• Những cú sốc
• Xu hướng

Con người
Tự nhiên

Xã hội

• Thời vụ
Vật chất

Tài chính

Ảnh
hưởng
& Can
thiệp

Cơ cấu

Quá trình

Chính quyền

Luật

Đơn vị tư

Chính sách


nhân
Tổ chức

Các chiến
lược sinh kế
• Thâm canh
• Đa dạng hóa
• Di cư

Văn hóa
Thể chế

dân sự

• Tăng thêm thu
nhập
• Tăng tính ổn
định
• Giảm tính tổn
thương
• Tăng cường an
ninh lương thực
• Công bằng xã
hội được cải thiện
• Sử
dụng

Nguồn: Bộ Phát triển Quốc tế Anh (DFID, 1999)
Hình 2.1: Sơ đồ Khung sinh kế bền vững

2.1.1 Vốn sinh kế
Vốn sinh kế hay còn gọi là tài sản sinh kế bao gồm những nguồn lực và
khả năng con người có được có thể sử dụng để duy trì hay phát triển sinh kế của
họ. Tài sản sinh kế được chia làm năm loại vốn chính là vốn con người, vốn xã
hội, vốn vật chất, vốn tài chính và vốn tự nhiên như trong hình 2.1.
Vốn con người đại diện cho các kỹ năng, tri thức, khả năng làm việc và
sức khỏe tốt, tất cả cộng lại tạo điều kiện giúp con người theo đuổi các chiến lược
sinh kế khác nhau và đạt được các mục tiêu sinh kế. Ở cấp độ hộ gia đình, vốn
con người là nhân tố về số lượng và chất lượng lao động của hộ; nhân tố này
khác nhau tùy thuộc vào kích cỡ của hộ, trình độ giáo dục và kỹ năng nghề
nghiệp, khả năng quản lý, tình trạng sức khỏe…


8

Vốn tự nhiên là tất cả những nguyên vật liệu tự nhiên để tạo dựng sinh kế.
Có rất nhiều nguồn lực tạo thành vốn tự nhiên bao gồm cả các nguồn lực đất đai.
Vốn tài chính chỉ về các nguồn lực tài chính mà con người sử dụng để đạt
được các mục tiêu sinh kế của mình. Các nguồn đó bao gồm nguồn dự trữ hiện tại,
dòng tiền theo định kỳ và khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng từ bên ngoài
như từ người thân hay từ các tổ chức tín dụng.
Vốn vật chất bao gồm cơ sở hạ tầng cơ bản và hàng hóa vật chất nhằm hỗ trợ
việc thực hiện các hoạt động sinh kế. Nguồn vốn vật chất thể hiện ở cả cấp cơ sở
cộng đồng hay cấp hộ gia đình. Ở cấp hộ gia đình, vốn vật chất là trang thiết bị sản
xuất như máy móc, dụng cụ sản xuất, nhà xưởng hay các tài sản nhằm phục vụ nhu
cầu cuộc sống hàng ngày như nhà cửa và thiết bị sinh hoạt gia đình. Ở cấp cộng
đồng, vốn vật chất là cơ sở hạ tầng nhằm hỗ trợ cho sinh kế của cộng đồng hay cá
nhân gồm hệ thống điện, đường, trường, hệ thống cấp nước và vệ sinh môi trường,
hệ thống tưới tiêu và hệ thống chợ nhằm hỗ trợ cho hoạt động sinh kế của hộ phát
huy hiệu quả.

Vốn xã hội là các nguồn lực xã hội mà con người sử dụng để theo đuổi các
mục tiêu sinh kế của mình, bao gồm các mối quan hệ, mạng lưới, thành viên nhóm,
niềm tin, sự phụ thuộc lẫn nhau và trao đổi cung cấp các thông tin phi chính thống
quan trọng.
2.1.2 Sự chuyển đổi cơ cấu và quy trình
Sự chuyển đổi cơ cấu và quy trình là yếu tố về thể chế, tổ chức, chính sách
và luật pháp xác định hay ảnh hưởng khả năng tiếp cận đến các nguồn vốn, điều
kiện trao đổi của các nguồn vốn và thu nhập từ các chiến lược sinh kế khác nhau.
Những yếu tố trên có tác động thúc đẩy hay hạn chế đến các chiến lược sinh kế.
2.1.3 Chiến lược sinh kế
Chiến lược sinh kế là các khả năng phối hợp các hoạt động, các sự lựa chọn
để tối ưu hóa việc sử dụng các tài sản sinh kế hiện có của nông hộ nhằm đạt được
các mục tiêu của nông hộ như các hoạt động sản xuất, hoạt động đầu tư và hoạt


9

động tái sản xuất. Chiến lược sinh kế phụ thuộc trực tiếp vào tình trạng tài sản, các
chính sách, các tổ chức và quy trình cũng như bối cảnh tổn thương.
Scoones (1998) trong chương trình nghiên cứu về khung sinh kế bền vững
cho rằng dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau, nhiều kiểu chiến lược và hoạt động sinh
kế được xác định như thâm canh, đa dạng hóa và di cư.
Thâm canh là việc tăng gia sản xuất nhiều sản lượng hơn trên một đơn vị
canh tác. Đa dạng hóa là việc xây dựng một danh mục các hoạt động đầu tư để tạo
thu nhập nhằm ứng phó với rủi ro gây biến động thu nhập. Di cư là việc di chuyển
để tìm kế sinh nhai ở nơi khác.
2.1.4 Kết quả sinh kế
Kết quả sinh kế đó là mục tiêu hay kết quả của chiến lược sinh kế như thu
nhập cao hơn, tăng hạnh phúc, giảm thiểu rủi ro, an ninh lương thực được cải thiện,
sử dụng bền vững và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.

2.1.5 Bối cảnh bị tổn thương
Bối cảnh bị tổn thương là những thay đổi, những xu hướng, tính mùa vụ.
Những nhân tố này con người hầu như không thể điều khiển được trong ngắn hạn.
Vì vậy trong phân tích sinh kế ngoài việc đề cập việc hộ sử dụng các tài sản như thế
nào để đạt mục tiêu còn phải đề cập được bối cảnh mà hộ phải đối mặt và khả năng
hộ có thể chóng chọi đối với những thay đổi trên hay phục hồi dưới những tác động
trên.
Các nhân tố tài sản sinh kế và chiến lược sinh kế là nhân tố bên trong, phụ
thuộc nội tại của con người. Các nhân tố bên ngoài gồm bối cảnh bị tổn thương và
cơ cấu kinh tế, cơ chế và chính sách. Kết quả sinh kế sẽ có tác động ngược lại vào
tài sản sinh kế.
Phương pháp tiếp cận sinh kế nhằm đạt được một sự hiểu biết chính xác và thực
tế những điểm mạnh của hộ (các nguồn lực vốn) và khả năng của hộ để chuyển đổi
những điểm mạnh này thành các kết quả sinh kế tích cực. Trong bối cảnh dễ bị tổn
thương và sự hạn chế đối với việc tiếp cận với các loại hình tài sản sinh kế nhất định,
hộ phải tìm cách tăng trưởng và kết hợp những tài sản mà họ có một cách sáng


10

tạo để đảm bảo sự sống, tồn tại và phát triển. Một trong những chiến lược sinh kế
quan trọng hiện nay chính là đa dạng hóa.
2.2 Chiến lược sinh kế và đa dạng hoá thu nhập
Sinh kế bao gồm các tài sản (tự nhiên, vật chất, nhân lực, tài chính và vốn xã
hội), các hoạt động và khả năng tiếp cận đến các yếu tố này (được các thể chế và
các quan hệ xã hội hỗ trợ) mà tất cả cùng với nhau quyết định cuộc sống mà một cá
nhân hoặc một hộ đạt được (Ellis, 2000).
Chiến lược sinh kế là sự tập hợp của các hoạt động nhằm tạo ra các phương
tiện, các nguồn thu nhập cho sự tồn tại và phát triển của các nông hộ (Ellis, 2000).
Giải thích cụ thể hơn, chiến lược sinh kế là các khả năng phối hợp các hoạt động,

các sự lựa chọn để tối ưu hóa việc sử dụng các tài sản sinh kế hiện có của nông hộ
nhằm đạt được các mục tiêu của nông hộ như các hoạt động sản xuất, hoạt động đầu
tư và hoạt động tái sản xuất. Chiến lược sinh kế là một phần quan trọng trong sinh
kế của nông hộ, nó có mối quan hệ phụ thuộc vào các tài sản sinh kế của nông hộ.
Các chiến lược sinh kế phổ biến bao gồm: thâm canh, đa dạng hoá hay di cư. Tuy
vậy, chiến lược đa dạng hóa sinh kế vẫn được xem là phổ biến nhất.
Theo Minot và cộng sự (2006), đa dạng hóa được định nghĩa như là một quá
trình mà trong đó nông hộ lựa chọn và xác định một tập hợp các hoạt động và tài sản
sinh kế có tính đa dạng để tồn tại và cải thiện mức sống của họ. Đa dạng hóa đòi hỏi sự
đa dạng trong nội bộ ngành nông nghiệp (một hệ thống các loại cây trồng, vật nuôi, và
các hoạt động kinh tế khác có tính chất dựa vào tài nguyên thiên nhiên) và sự đa dạng
các ngành kinh tế phi nông nghiệp của nông hộ. Đa dạng hóa là một xu hướng có tính
phổ biến trong nông nghiệp xuất phát từ yêu cầu của việc sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực sản xuất và giảm thiểu rủi ro gây ra bởi các cú sốc từ môi trường sản xuất và
thị trường nông nghiệp. Các xu hướng chính trong chiến lược đa dạng hóa bao gồm: đa
dạng hóa theo hướng chuyển đổi sản xuất lương thực tự cung tự cấp sang sản xuất hàng
hóa, đáp ứng nhu cầu thị trường; đa dạng hóa các ngành kinh tế trong nông nghiệp kết
hợp với các ngành nghề, dịch vụ phi nông nghiệp; và


11

đa dạng hóa theo hướng chuyển đổi từ các sản phẩm có giá trị thấp sang các sản
phẩm, dịch vụ có giá trị cao.
Theo Scoones (1998), đa dạng hóa là việc tham gia các hoạt động đầu tư đa
dạng để tích lũy và tái đầu tư, nhằm mục đích đối phó với các cú sốc tạm thời hoặc
thích ứng lâu dài hơn với các hoạt động sinh kế. Đa dạng hóa là việc xây dựng một
danh mục đầu tư tạo thu nhập để xử lý các cú sốc hoặc căng thẳng.
Đa dạng hóa sinh kế được định nghĩa như là một quá trình mà nhờ đó hộ gia
đình xây dựng một danh mục đa dạng các hoạt động, tài sản để tồn tại và để cải

thiện mức sống của họ và quản lý rủi ro. Tạo thu nhập là một trong những thành
phần chiến lược của đời sống (Ellis, 2000).
Đa dạng hoá thu nhập được xem như một chiến lược sinh kế. Theo Alderman
và Paxson (1992) thì “ đa dạng hóa thu nhập đã được đưa ra như một trong những
chiến lược hộ gia đình sử dụng để giảm thiểu biến đổi thu nhập hộ gia đình và để
đảm bảo mức thu nhập tối thiểu”.
Hơn nữa, đa dạng hóa thu nhập sang lĩnh vực phi nông nghiệp tạo thành một
phương tiện quan trọng để đối phó với rủi ro và thu nhập trơn tru và tiêu dùng ở khu
vực nông thôn mà đặc biệt là nơi mà thị trường tài chính chưa hiệu quả như thị
trường bảo hiểm và tín dụng còn hạn chế. Tong Kimsun và Phay Sokcheng (2013),
Morduch (1995) chỉ ra rằng nếu thị trường tín dụng và bảo hiểm không đầy đủ và
mạng lưới chính thức mất an toàn, các hộ gia đình sẽ chọn để đa dạng hóa nguồn
thu nhập của mình để tiêu dùng trơn tru. Các hộ gia đình có thể lựa chọn đa dạng
hóa thu nhập để quản lý rủi ro từ những cú sốc (Reardon và cộng sự, 1992) ngoài
việc phải dùng đến thường thức cơ chế bảo hiểm, ví dụ bán vật nuôi và tài sản.Vì
sinh kế nông nghiệp thường phải tuân theo quy luật hoàn toàn không chắc chắn.
Trong bối cảnh đó, đa dạng hóa với mục đích nhằm giảm thấp các rủi ro giữa các
hoạt động khác nhau của hộ để tiêu dùng trơn tru (Bryceson, 1999; Dercon năm
1998 và 2002; Francis và Hoddinott, 1993).
Đa dạng hoá thu nhập được định nghĩa như một quá trình mà trong đó hộ
nông thôn tạo ra được nhiều nguồn thu nhập (Minott và cộng sự, 2006). Theo báo


12

cáo của Ngân hàng thế giới năm 2015 về vấn đề đa dạng hoá thu nhập tại Việt Nam
thì thông thường đa dạng hoá ở cấp hộ để tăng cường và mở rộng các nguồn thu
nhập nông nghiệp và phi nông nghiệp. Là việc chuyển từ sản xuất các hàng hoá dư
thừa sang những hàng hoá khác có lãi. Nó có thể bao gồm cả đa dạng hoá theo trục
ngang sang các chủng loại hàng hoá mới hoặc theo trục dọc sang các hoạt động phi

nông nghiệp như tiếp thị, bảo quản và chế biến. Ở giai đoạn ban đầu, đa dạng hoá
xảy ra với các loại cây trồng mới, với sự chuyển đổi ra khỏi sản xuất độc canh. Ở
giai đoạn sau, hộ gia đình có thể có nhiều dạng kinh doanh sản xuất và buôn bán các
sản phẩm ở nhiều thời điểm khác nhau trong năm. Ở giai đoạn cao nhất, hộ gia đình
thậm chí có thể vượt ra khỏi ngành nông nghiệp để vươn sang các hoạt động phi
nông nghiệp (World Bank, 2005).
Thu nhập phi nông là thu nhập có được từ các hoạt động phi nông nghiệp
như (1) tiền công, tiền lương từ các công việc phi nông nghiệp ở nông thôn; (2) các
hoạt động phi nông nghiệp tự làm; (3) thu nhập từ cho thuê đất đai hoặc tài sản; (4)
tiền gởi từ các nơi khác trong nước về gia đình; (5) các nguồn tiền khác từ vùng đô
thị chuyển về vùng nông thôn và (6) tiền gởi từ nước ngoài về gia đình
Đa dạng hoá thu nhập được chia làm hai loại: đa dạng hoá chủ động và đa
dạng hoá bị động. Một mặt, các hộ gia đình nghèo ở nông thôn đa dạng hóa thu
nhập chủ yếu để đảm bảo sự sống còn, vì họ thiếu tài sản nông nghiệp đủ để duy trì
sinh hoạt (Reardon và Taylor, 1996; Haggblade và cộng sự, 2005; Lay and Schuler,
2008). Mặt khác, các hộ gia đình nông thôn giàu với nguồn lực tài sản cao hơn sẽ đa
dạng hóa sinh kế để tối đa hóa lợi nhuận cho tài sản của họ. Hai dạng đa dạng hóa
sinh kế trên minh họa liên kết mạnh mẽ đối với kết quả phúc lợi. Cuối cùng, các hộ
gia đình đảm bảo mình chống lại sự thiếu hụt sau thu hoạch thông qua tham gia vào
các hoạt động canh tác cây trồng bên ngoài (Reardon và cộng sự, 1992).
Từ quan điểm trên cho thấy, đa dạng hóa thu nhập được xem như một chiến
lược sinh kế hiệu quả giúp cho các hộ gia đình quản lý rủi ro thông qua việc xây
dựng một danh mục các hoạt động đầu tư đa dạng tạo được nhiều nguồn thu nhập
nhằm giảm thiểu tác động bất lợi từ thời tiết, thị trường và chính sách vĩ mô của


13

chính phủ, đảm bảo tiêu dùng trơn tru cho hộ. Mức độ đa dạng hóa thu nhập chính
là mức độ đa dạng của các thành phần thu nhập. Các hộ gia đình nông thôn ở giai

đoạn đầu có thể đa dạng hoá thu nhập trong khu vực nông nghiệp như đa dạng loại
cây trồng, kết hợp mô hình sản xuất vườn-ao- chuồng…sang đa dạng hoá trong khu
vực phi nông nghiệp như buôn bán, tiếp thị, kinh doanh sản xuất. Nghiên cứu về đa
dạng hoá thu nhập có ý nghĩa quan trọng giúp đưa ra các nhân tố tác động tích cực
đến việc đa dạng hoá của hộ gia đình khu vực ĐBSCL. Các gợi ý chính sách từ đây
đưa ra có thể sẽ hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực cho cấp lãnh đạo khu vực.
2.3 Các yếu tố tác động đến đa dạng hoá thu nhập
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra một số lý do tại sao các hộ gia đình cố gắng đa
dạng hóa nguồn thu nhập của họ. Những lý do được phân loại là nhân tố kéo và
nhân tố đẩy (Barrett, Reardon và Webb, 2001; Davis và Bezemer, 2003; Ellis,
2000). Trong đó, các nhân tố kéo là những điều kiện thuận lợi để các hộ gia đình đạt
được sự tích lũy giàu có nhờ vào lợi thế cạnh tranh của các công nghệ cao, kỹ năng
và nguồn lực. Nhân tố đẩy là các hoàn cảnh khó khăn mà hộ gia đình phải đối mặt
như điều kiện thời tiết, thay đổi chính sách và sự thất bại của thị trường tín dụng
hoặc bảo hiểm. Trong đó, đa dạng hóa có xu hướng phổ biến trong nông nghiệp xuất
phát từ yêu cầu của việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sản xuất và giảm thiểu
rủi ro gây ra bởi các cú sốc từ môi trường sản xuất và thị trường nông nghiệp
(Barrett, Reardon và Webb, 2001). Có hai động cơ để hộ gia đình thực hiện chiến
lược đa dạng hóa: (1) thực hiện đa dạng hóa cho mục tiêu tích lũy, được hỗ trợ từ
những thuận lợi về môi trường kinh tế, xã hội chủ yếu là do "nhân tố kéo"; (2) thực
hiện đa dạng hóa để quản lý rủi ro, đối phó với các cú sốc, thoát khỏi tình trạng trì
trệ hoặc suy giảm của nền nông nghiệp, thúc đẩy bởi "nhân tố đẩy " (Barrett và cộng
sự, 2005; Barrett, Reardon và Webb, 2001; Abolo Sarah, 2012; Idowu và cộng sự,
2011).
Sự thất bại trong các thị trường lao động, tín dụng, bảo hiểm là nguyên nhân
chính của hành vi đa dạng hóa (Barrett, Reardon và Webb, 2001). Ví dụ, sự thất bại
của thị trường tín dụng đầu vào có thể làm cho các hộ gia đình đa dạng hóa nguồn


14


thu nhập của họ để trả cho các đầu vào nông nghiệp như hạt giống, phân bón, lao
động, vốn nông nghiệp và sức kéo động vật (Savadogo và cộng sự, 1995; Abolo
Sarah, 2012). Một số nông hộ cũng có thể làm nông nghiệp địa phương và đầu tư
phi nông nghiệp bằng cách bán sức lao động trên thị trường lao động như thông qua
di cư và sau đó sử dụng các khoản tiền gửi để thành lập doanh nghiệp phi nông
nghiệp và đầu tư vào giáo dục (Reardon, 1997). Đa dạng hoá thu nhập có thể được
sử dụng như chiến lược sinh kế để giảm nguy cơ hơn là mở rộng hoặc tích luỹ thu
nhập trong các nước đang phát triển (Barrett, Reardon và Webb, 2001). Điều này có
nghĩa là, đa dạng hoá thu nhập thường bị ảnh hưởng bởi nhân tố đẩy hơn nhân tố
kéo trong các đất nước đang phát triển.
Những yếu tố dẫn các hộ gia đình để đa dạng hóa nguồn thu nhập của họ vào
các hoạt động phi nông nghiệp cho thu nhập trơn bằng cách theo đuổi "chiến lược
quản lý rủi ro" hay "chiến lược đối phó rủi ro" (Reardon và cộng sự, 2007). Các
biến năng lực của hộ gia đình cũng được chú trọng trong việc thúc đẩy đa dạng hoá
thu nhập được xác định là tài sản vốn. Theo phương pháp này, mức độ tham gia
trong chiến lược đa dạng hóa bị ảnh hưởng bởi một số biến năng lực và khuyến
khích các hộ gia đình thực hiện các hoạt động đa dạng hoá.
Theo Ellis (1998), trên thực tế những nguyên nhân và kết quả của sự đa dạng
hóa là khác nhau bởi các yếu tố vị trí, tài sản, thu nhập, cơ hội và các mối quan hệ xã
hội. Các yếu tố như giới tính, địa vị xã hội, mạng lưới, các hiệp hội cũng có ý nghĩa rất
quan trọng đến đa dạng hoá thu nhập của hộ. Ví dụ như, phụ nữ nghèo thất học, thiếu
các mối quan hệ xã hội, có thể không được tiếp cận cơ hội tốt hơn nam giới như học
vấn với mạng lưới xã hội mạnh mẽ trong cộng đồng (Barrett, Reardon và Webb, 2001).
Dân số tăng nhanh và áp lực nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn chế như đất đai cũng đã
được xác định là nguyên nhân chính cho sự gia tăng các hoạt động phi nông nghiệp
(Lay et al, 2008; Ellis, 2005). Lay et al. (2008) thấy rằng quy mô nông nghiệp giảm và
sự giảm độ màu mỡ của đất ở các hộ gia đình nghèo có tác động đến đa dạng hoá trong
các hoạt động phi nông nghiệp để đảm bảo sự sống. Ngoài ra, các yếu tố khác như công
nghệ tiên tiến và sự mở rộng của trình độ



15

học vấn (Reardon, 1997) có tác động đến sự đa dạng hoá thu nhập của hộ gia đình.
Trình độ học vấn là một trong những các yếu tố quyết định quan trọng nhất của thu
nhập phi nông nghiệp, đòi hỏi lao động có kỹ năng với mức lương cao. Kỹ năng và
trình độ giáo dục tạo rào cản gia nhập vào các công việc làm công ăn lương mang
lại thu nhập cao trong vùng nông thôn Châu Phi (Barrett, Reardon và Webb, 2001).
Như với lý thuyết sinh kế bền vững, khả năng của các hộ gia đình để đa dạng
hóa thu nhập cao phụ thuộc vào việc họ tiếp cận với các loại vốn khác nhau. Nó giải
thích tại sao các hộ gia đình không có cơ hội như nhau để tham gia vào các hoạt
động phi nông nghiệp, và do đó ít đa dạng thu nhập (Abdulai và CroleRees, 2001).
Các tài sản đó cho phép các hộ gia đình tham gia vào nông nghiệp cũng như các
hoạt động phi nông nghiệp, thường được phân loại như là con người, vật chất, tài
chính, tự nhiên và vốn xã hội.
Vốn được nhắc đến trong Reardon và cộng sự (2007) và lý thuyết sinh kế
bền vững đề cập đến không chỉ tài sản riêng của gia đình mà còn tiếp cận với tài sản
công cộng. Tại hộ gia đình và cá nhân, các đặc điểm nhân khẩu học có thể ảnh
hưởng đến các quyết định và khả năng thực hiện đa dạng hóa thu nhập. Vốn con
người bao gồm cả hai mặt số lượng và chất lượng lao động trong hộ. Chất lượng lao
động bao gồm các yếu tố giáo dục, kinh nghiệm, sức khoẻ (Ellis, 2000) và số lượng
lao động trong hộ (Reardon et al., 2007) có tác động đến việc thực hiện đa dạng hoá
thu nhập của hộ gia đình thông qua việc đáp ứng các yêu cầu tối thiểu cho bất kỳ
quá trình sản xuất kinh doanh nào. Theo các nghiên cứu trước, thông thường các hộ
gia đình nông thôn có số lượng lao động nhiều hơn xu hướng xác suất tham gia vào
các hoạt động phi nông nghiệp nhiều hơn (Ellis, 1998; Reardon, 1997). Trình độ
giáo dục thấp hạn chế khả năng các cá nhân và hộ gia đình tiếp cận với các lựa chọn
mang lại nguồn thu nhập cao trong lĩnh vực phi nông nghiệp (Abdulai và
Delgado,1999).

Vốn tự nhiên trong đó bao gồm việc sở hữu đất đai của hộ gia đình nông
thôn có thể đóng một vai trò quan trọng trong đa dạng hóa thu nhập. Kích thước sở


×