Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Tác động của ngưỡng lạm phát đến tăng trưởng ở các quốc gia phát triển và đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.65 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KINH TẾ TP. HCM 

LÂM THÚY NHI



TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỠNG LẠM
PHÁT ĐẾN TĂNG TRƯỞNG
CÁC QUỐC GIA PHÁT TRIỂN VÀ
ĐANG PHÁT TRIỂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KINH TẾ TP. HCM 

LÂM THÚY NHI



TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỠNG LẠM
PHÁT ĐẾN TĂNG TRƯỞNG
CÁC QUỐC GIA PHÁT TRIỂN VÀ
ĐANG PHÁT TRIỂN
Chuyên ngành : Tài chính ngân hàng
Mã số


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS PHAN THỊ BÍCH NGUYỆT
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả luận
văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào.
Lâm Thúy Nhi


Mục Lục
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
TÓM TẮT..................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU......................................................................................................... 2
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 4
2.1 Cơ sở lý thuyết............................................................................................................................... 4
2.1.1. Lạm phát................................................................................................................................ 4
2.1.2. Tăng trưởng kinh tế........................................................................................................... 6
2.1.3. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế............................................. 7
2.2 Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới............................................... 11
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................. 26
3.1 Mô hình kinh tế lượng:............................................................................................................ 27
3.2 Loại bỏ các ảnh hưởng cố định:......................................................................................... 28
3.3 Ước tính........................................................................................................................................ 29

3.4 Mô hình áp dụng........................................................................................................................ 30
3.5 Dữ liệu và biến........................................................................................................................... 32
3.5.1 Dữ liệu:.................................................................................................................................. 32
3.5.2 Biến......................................................................................................................................... 35
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................................. 39
4.1 Mô hình ngưỡng lạm phát và tăng trưởng ở các nước phát triển:.......................39


4.2 Mô hình ngưỡng lạm phát và tăng trưởng ở các nước đang phát triển:............43
4.3 Mô hình ngưỡng lạm phát và tăng trưởng ở 5 quốc gia ASEAN:...........................45
Liên hệ mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Asean và Việt Nam . 48

4.4 Thảo luận kết quả nghiên cứu............................................................................................ 56
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN......................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................... 61


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: So sánh chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số giá điều chỉnh (GDP).......05
Bảng 2.2: Tổng hợp quan điểm của một số lý thuyết kinh tế về mối quan hệ giữa
lạm phát – tăng trưởng................................................................................................................... 11
Bảng 3.1: Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong mô hình hồi quy với 49 quốc
gia phát triển...................................................................................................................................... 33
Bảng 3.2: Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong mô hình hồi quy với 70 quốc
gia đang phát triển........................................................................................................................... 34
Bảng 3.3: Các biến sử dụng trong mô hình hồi quy, nguồn số liệu.............................35
Bảng 4.1: Kết quả ước lượng mô hình ngưỡng cho các nước phát triển...................39
Bảng 4.2: Kết quả ước lượng mô hình ngưỡng cho các nước đang phát triển........43
Bảng 4.3: Kết quả ước lượng mô hình ngưỡng cho 5 nước Asean.............................. 46
Bảng 4.4: Thống kê dữ liệu lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn

1993 – 2013........................................................................................................................................ 52


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1: Phân bổ lạm phát với mẫu 70 quốc gia phát triển trong giai đoạn 1984 –
2013 ......................................................................................................................... 37

Hình 3.2: Phân phối semi-log của lạm phát với mẫu 70 quốc gia đang phát triển
giai đoạn 1984 – 2013 .............................................................................................
Hình 4.1: Cấu trúc khoảng tin cậy của mô hình ngưỡng (p=t) của các nước phát
triển..........................................................................................................................
Hình 4.2: Cấu trúc khoảng tin cậy của mô hình ngưỡng (p=1) của các nước phát
triển..........................................................................................................................
Hình 4.3: Cấu trúc độ tin cậy của mô hình ngưỡng (p=t) của các nước đang phát
triển..........................................................................................................................
Hình 4.4: Cấu trúc độ tin cậy của mô hình ngưỡng (p=1) của các nước đang phát
triển..........................................................................................................................
Hình 4.5: Cấu trúc độ tin cậy của mô hình ngưỡng (p=t) của các nước Asean .....
Hình 4.6: Cấu trúc độ tin cậy của mô hình ngưỡng (p=1) của các nước Asean ....
Hình 4.7: Lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn
1989 – 2013 ............................................................................................................. 52


1

TÓM TẮT
Bài nghiên cứu dựa trên mô hình ngưỡng động dữ liệu bảng của Kremer và
các cộng sự (2013) để ước tính các ngưỡng lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế
dài hạn. Dựa trên các nghiên cứu của Hansen (1999) và Caner & Hansen (2004),
mô hình ngưỡng động dữ liệu bảng cho phép việc ước lượng các tác động của

ngưỡng với dữ liệu bảng ngay cả trong trường hợp các hồi quy nội sinh. Phân tích
thực nghiệm dựa trên một bộ dữ liệu bao gồm 49 quốc gia phát triển và 70 quốc
gia đang phát triển trong giai đoạn 1984 - 2013. Kết quả của bài nghiên cứu cho
thấy ngưỡng lạm phát ở các quốc gia phát triển là 1,07% và ở các quốc gia đang
phát triển là 10,64%. Áp dụng mô hình ngưỡng động cho 5 quốc gia ASEAN thuộc
nhóm các quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam) trong giai đoạn 1994
-2013 cho thấy ngưỡng lạm phát là 5,9%.


2

CHƢƠNG I: GIỚI THIỆU
Mục tiêu chính của các chính sách vĩ mô là tạo dựng được một nền kinh tế
phát triển mạnh và bền vững với một tỷ lệ lạm phát nhất định, nghĩa là một tỷ lệ
lạm phát cần thiết để “bôi trơn các bánh xe của nền kinh tế” (Temple, 2000).
Chính vì vậy, chính phủ cần hiểu rõ được mối quan hệ giữa lạm phát và phát
triển kinh tế để có thể thiết lập những chính sách phù hợp. Nếu lạm phát tác động
tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, các nhà làm chính sách nên hướng đến việc
giảm tỷ lệ lạm phát hoặc nếu lạm phát tăng giúp nền kinh tế phát triển tốt thì các
nhà làm chính sách nên duy trì mức lạm phát này. Vậy tỷ lệ lạm phát bao nhiêu là
phù hợp? Hay nói cách khác, tại tỷ lệ lạm phát nào thì mối quan hệ giữa lạm phát
và tăng trưởng kinh tế có sự đổi chiều.
Kể từ nghiên cứu của Fisher (1993), hàng loạt các nghiên cứu về mối quan
hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng ra đời mà ở đó các nhà nghiên cứu tìm
thấy được mối quan hệ đồng biến của lạm phát và tăng trưởng kinh tế khi tỷ lệ lạm
phát ở mức thấp và mối quan hệ nghịch biến khi tỷ lệ lạm phát ở mức cao. Các nhà
nghiên cứu đã áp dụng nhiều mô hình khác nhau cùng với những mẫu dữ liệu đa
quốc gia để tìm ra được mức ngưỡng lạm phát phù hợp hay một mức lạm phát tối
ưu mà tại thấy có thể thấy được dấu hiệu chuyển đổi từ tác động tích cực sang tiêu
cực để từ đó các nhà hoạt định chính sách sẽ có những thay đổi phù hợp nhằm đạt

được các mục đích phát triển bền vững.
Mục đích của bài nghiên cứu này nhằm ước lượng mức ngưỡng của lạm
phát mà ở đó lạm phát có thể không có ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng tích cực đến
tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng mô hình ngưỡng động dữ liệu bảng của
Kremer và cộng sự (2013) trong bài viết “Inflation and Growth: New Evidence
Form A Dynamic Panel Threshold Analysis” cho 49 quốc gia đang phát triển và 70
quốc gia phát triển trong giai đoạn 1984 – 2013. Đồng thời, bài viết áp dụng dữ


3

liệu cho 5 quốc gia đang phát triển trong khối ASEAN (trong đó có Việt Nam) để
tìm ra mức ngưỡng lạm phát chung của 5 quốc gia này.
Chương 2 của bài viết sẽ nêu lại các sơ sở lý thuyết theo những trường phái
khác nhau. Sau đó, bài viết sẽ sơ lược qua các kết quả nghiên cứu trước đây về mối
quan hệ phi tuyến của lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Chương 3 của bài viết sẽ tập trung vào phần phương pháp nghiên cứu và dữ
liệu nghiên cứu. Phần này sẽ giới thiệu về dữ liệu, các biến sử dụng trong mô hình,
bảng thống kê dữ liệu, các mô hình áp dụng, cách thức sử dụng mô hình.
Chương 4 đưa ra kết quả nghiên cứu đạt được và thảo luận kết quả, phân
tích tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia phát triển và các
quốc gia đang phát triển, từ đó liên hệ về mối quan hệ giữ lạm phát và tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam.
Chương 5 tổng kết và kết luận những kết quả đã đạt được của bài nghiên
cứu cũng như đưa ra các hạn chế còn tồn tại trong bài nghiên cứu.


4

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN

CỨU TRƢỚC ĐÂY
Chương 2 của bài viết sẽ sơ lược lại các lý thuyết cơ sở của bài nghiên cứu,
đồng thời tóm tắt các bài nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế trên thế giới cũng như tại Việt Nam được thực hiện gần đây, từ
đó đặt ra các câu hỏi nghiên cứu cho bài viết này.
2.1 Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Lạm phát
Có nhiều phát biểu khác nhau về khái niệm lạm phát. Trong kinh tế học,
lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong
một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng
tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của
một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
Theo Friedman (1970) “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng
tiền tệ”. Một số nhà kinh tế học cho rằng “lạm phát là hiện tượng tiền được cung
ứng nhiều hơn mức cần thiết hoặc là do khối lượng tiền thực tế trong lưu thông
lớn hơn khối lượng tiền cần thiết”, “lạm phát là hiện tượng bội chi lâu dài của
ngân sách nhà nước”.
Như vậy, lạm phát có thể được hiểu là sự suy giảm sức mua của tiền tệ và
được đo lường bằng sự gia tăng mức giá chung trong nền kinh tế.
Lạm phát là tỷ lệ phần trăm thay đổi liên tục của mặt bằng giá chung theo
thời gian. Để phản ánh lạm phát, chỉ số được sử dụng thường là chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) hoặc chỉ số điều chỉnh GDP (

.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức
thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi


5


tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng
tiêu dùng.
Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator), còn gọi là chỉ số giảm phát GDP
thường được ký hiệu là

, là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá

chung của tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh
GDP cho biết một đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng bao
nhiêu phần trăm so với mức giá của năm cơ sở.

phản ánh sự biến động GDP

danh nghĩa do sự biến động của giá (cơ sở để đánh giá lạm phát).
Bảng 2.1: So sách chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP (

):

Chỉ số giá tiêu dùng
(CPI)
Đo lường giá hàng hóa và dịch vụ được
mua bởi người tiêu dùng (không bao
gồm giá hàng hóa và dịch vụ được mua
bởi chính phủ, các hãng).
Tính cho tất cả hàng hóa và dịch vụ
được mua, kể cả hàng hóa nhập khẩu.
Cố định sự ảnh hưởng. Nghĩa là nó
được tính toán bởi giỏ hàng cố định.
Được gọi là chỉ số Laspeyres index.

Đo lường chi phí cho đời sống, đôi khi
cường điệu sự gia tăng trong chi phí.
(Nguồn: Bài giảng về chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số điều chỉnh GDP – Võ
Thị Thanh Thương – Đại Học Duy Tân - Gregory Mankiw, Macroeconomics)


6

Do chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được tính dựa trên rổ hàng hóa và dịch vụ với
quyền số cố định, trong khi đó chỉ số điều chỉnh GDP (

có rổ hàng hóa và

dịch vụ thay đổi theo thời gian vì vậy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có xu hướng
phóng đại lạm phát, ngược lại chỉ số điều chỉnh GDP (

có xu hướng đánh

giá thấp lạm phát.
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới khi đánh giá lạm phát đều dựa vào
chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
Một số khái niệm kinh tế khác liên quan đến lạm phát:
Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống trong
một khoảng thời gian.
Lạm phát phi mã là tình trạng tăng mức giá chung của nền kinh tế với tốc
độ hai hay ba chữ số.
Siêu lạm phát là tình trạng lạm phát cao kéo dài và nằm ngoài vòng kiểm
soát, có tác động phá hoại nền kinh tế nghiêm trọng. Thông thường, tốc độ tăng
giá chung ở mức 3 chữ số hàng năm thì gọi là siêu lạm phát. Khi có siêu lạm phát,
tiền mất giá nghiêm trọng và lượng cầu về tiền tệ giảm đi đáng kể. Siêu lạm phát

biểu hiện lạm phát cao kéo dài đi kèm với tăng trưởng kinh tế chậm và thất nghiệp
cao.
Thiểu phát trọng kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn
nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Theo Từ điển kinh tế ngân hàng Anh – Nga, thiểu
phát là hiện tượng giảm giá hàng hoá và dịch vụ hay hiện tượng tăng sức mua của
đồng tiền do lượng tiền mặt trong lưu thông sụt giảm so với lượng hàng hoá và
dịch vụ hiện hữu trên các thị trường mỗi quốc gia, đó là hiện tượng ngược lại với
lạm phát thường đi kèm với nó là thu hẹp sản xuất, giảm vốn đầu tư, giảm công ăn
việc làm.
2.1.2. Tăng trƣởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự mở rộng năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ


7

của nền kinh tế. Năng lực sản xuất của nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào số
lượng, chất lượng các nguồn lực và trình độ công nghệ sử dụng trong quá trình sản
xuất, vì vậy tăng trưởng kinh tế luôn liên quan tới quá trình mở rộng và hoàn thiện
các yếu tố tạo nên năng lực sản xuất. Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế là sự gia
tăng khối lượng hàng hóa, dịch vụ sản xuất ra và nâng cao năng lực sản xuất của
nền kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế được tính dựa trên sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP) hoặc quy mô tổng sản lượng quốc gia
tính trên đầu người (PCI – Per capita income) trong một thời gian nhất định.

2.1.3. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trƣởng kinh tế
Mặc dù có rất nhiều yếu tố tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế thì mục
tiêu ổn định giá cả vẫn là mục tiêu nổi bật nhất của chính sách kinh tế vĩ mô.
Trong nhiều thập kỷ qua, có rất nhiều nghiên cứu cả lý thuyết và thực nghiệm tập
trung vào mối tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Phần này xem xét

các nghiên cứu lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Các nghiên cứu lý thuyết về tăng trưởng kinh tế bao gồm lý thuyết cổ điển,
lý thuyết Tân cổ điển, lý thuyết Keynes, lý thuyết trọng tiền và các mô hình tăng
trưởng nội sinh.
Các nghiên cứu lý thuyết đã cho thấy một loạt kết luận về mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế và có thể chia thành bốn kỳ vọng chính sau
đây.
Đầu tiên, các lý thuyết cho rằng lạm phát không ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế.
Nhà kinh tế học Tân cổ điển Sidrauski (1967) đề cập đến sự không tương
quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu của ông là khi các


8

biến số độc lập với việc tăng cung tiền trong dài hạn thì việc tăng lạm phát không
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Sử dụng đường tổng cung (AS) và đường tổng cầu (AD), lý thuyết Keynes
cho thấy rằng không có sự thay đổi giữa sản lượng và mức giá trong dài hạn, tuy
nhiên có một sự đánh đổi giữa sản lượng và mức giá trong ngắn hạn. Nghĩa là,
trong ngắn hạn, muốn cho tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận
một tỷ lệ lạm phát nhất định, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di chuyển cùng chiều.
Sau đó, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc đẩy tăng trưởng thì tốc độ
tăng trưởng kinh tế cũng không tăng thêm mà có xu hướng giảm đi. Tuy nhiên,
Dornbusch và các cộng sự (1996) chứng minh rằng sự thay đổi trong tổng cầu ảnh
hưởng đến cả mức giá lẫn sản lượng.
Thứ hai, các lý thuyết cho rằng có mối quan hệ tích cực giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế.
Các nhà kinh tế học Tân cổ điển nói lên tác động của lạm phát đến tăng
trưởng kinh tế thông qua đầu tư và tích lũy vốn. Tobin (1965) cho rằng lạm phát

làm gia tăng chi phí giữ tiền, là nguyên nhân làm cho con người tránh giữ tiền mà
chuyển tiền thành các tài sản sinh lợi. Điều này sẽ làm gia tăng sự tích lũy vốn
trong nền kinh tế và thúc đẩy kinh tế phát triển. Do đó, có mối tương quan cùng
chiều giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, Shi (1999) kết luận rằng sự
gia tăng cung tiền sẽ gia tăng tích lũy vốn và do đó gia tăng sản lượng.
Thứ ba, các kết quả nghiên cứu khác lại cho rằng lạm phát có tác động
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Với lý thuyết cổ điển, Adam Smith cho rằng tiết kiệm là yếu tố ban đầu
cho đầu tư, từ đó dẫn đến tăng trưởng, hơn nữa ông ngầm cho thấy mối quan hệ
nghịch giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng
nhấn mạnh lạm phát có tác động đến tiết kiệm thông qua lãi suất huy động thực.


9

Do đó thay đổi trong tiết kiệm có thể ảnh hưởng đến sản lượng đầu ra do thay đổi
trong đầu tư trong nước. Gylfason (1991) cho rằng lạm phát tăng sẽ làm giảm tiết
kiệm do lãi suất huy động thực tế thấp hơn, do đó làm cản trở tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác, Gylfason (1998) cho rằng trong khi tác động của lạm phát đến tiết
kiệm chưa được xác định, điều đó làm bóp méo năng suất thì việc ổn định giá cả
sẽ cải thiện toàn dụng vốn và do đó gia tăng việc làm.
Với lý thuyết trọng tiền thì mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và mức
giá được thể hiện thông qua tăng trưởng tiền tệ. Friedman (1956) nhấn mạnh vai
trò của tăng trưởng tiền tệ trong việc xác định lạm phát bằng lý thuyết số lượng
tiền tệ hoặc tính trung lập của tiền tệ. Ông cho rằng lạm phát là sản phẩm của việc
gia tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức độ lớn hơn tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Lập luận này cũng được thể hiện trong công thức về lý thuyết số lượng
tiền tệ:
MV=PY
Trong đó:

M: cung tiền
V: Hệ số tạo tiền
P: Giá
Y: sản lượng đầu ra (GDP thực tế)

Theo Friedman (1956), nếu giá cả hàng hóa trong nền kinh tế tăng gấp 2
lần mà thu nhập của người lao động cũng tăng gấp 2 lần, người lao động sẽ không
quan tâm đến việc tăng giá hàng hóa. Do đó, tăng trưởng kinh tế không sụt giảm
khi lạm phát gia tăng. Nếu lạm phát xảy ra theo hướng này thì lạm phát không tác
động đến tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện tính trung lập của tiền tệ.


10

Tóm lại, theo lý thuyết trọng tiền, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi
cung tiền chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng kinh tế. Nếu cung tiền tăng
nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra. Nếu giữ cung
tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát.
Với lý thuyết Tân cổ điển, Stockman (1981) cho rằng lạm phát tăng cao sẽ
làm cho tăng trưởng giảm. Ông cho rằng sự gia tăng lạm phát làm giảm sức mua
của tiền tệ, từ đó làm giảm lượng tiêu thụ hàng hóa và giảm sản lượng trong dài
hạn.
Thứ tư, các lý thuyết cho rằng mối tương quan giữa lạm phát và tăng
trưởng là phi tuyến.
Sử dụng một mô hình tăng trưởng tiền tệ, Huybens và Smith (1998, 1999)
tìm thấy mối quan hệ nghịch giữa lạm phát và các hoạt động thị trường tài chính,
lạm phát và các hoạt động kinh tế thực. Các tác giả cho rằng lạm phát cản trở tăng
trưởng kinh tế bằng cách cản trở việc tái phân bổ các nguồn lực tài chính nhưng
chỉ khi lạm phát vượt quá một giá trị tới hạn nào đó. Choi và các cộng sự (1996)
đề xuất rằng lạm phát cao gia tăng việc phân bổ định mức tín dụng hoặc việc lựa

chọn bất lợi trong thị trường tài chính, do đó, lạm phát cao làm giảm tỷ suất sinh
lợi thực. Khi lạm phát gia tăng, các tác nhân kinh tế sẽ tái phân bổ tiền tệ về vốn
con người hoặc vốn vật chất và thay đổi tăng trưởng sản lượng.
Các quan điểm lý thuyết trên đưa ra mối quan hệ khác nhau giữa lạm phát
và tăng trưởng kinh tế nhưng quan điểm chung là quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế không phải là mối quan hệ một chiều mà là sự tác động qua lại. Tác
động này được truyền dẫn chủ yếu thông qua kênh tiết kiệm và đầu tư.
Tóm tại, tùy từng quan điểm kinh tế tại từng giai đoạn khác nhau mà có
những lý thuyết khác nhau về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.


11

Những lý thuyết này vừa đối nghịch nhau, vừa bổ sung cho nhau. Theo đó, bài viết
tóm tắt sơ bộ quan điểm của các lý thuyết tại Bảng 2.2.
Bảng 2.2: Tổng hợp quan điểm của một số lý thuyết kinh tế về mối quan hệ
lạm phát- tăng trƣởng

Lý thuyết cổ điển
Lý thuyết tân cổ điển
Lý thuyết Keynes
Lý thuyết tân Keynes
Lý thuyết trọng tiền
2.2 Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới
Mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế đã thu hút rất
nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu trong những năm gần đây. Tuy nhiên, các nghiên
cứu này lại cung cấp những kết quả khác nhau, chủ yếu phụ thuộc vào phương
pháp nghiên cứu đã sử dụng và đặc trưng của từng quốc gia. Các kết quả tập trung
chủ yếu vào bốn kỳ vọng sau lạm phát không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế,
lạm phát tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, lạm phát tác động tích cực đến

tang trưởng kinh tế hoặc lạm phát và tang trưởng kinh tế có mối quan hệ phi tuyến,
Một trong những bài nghiên cứu đầu tiên về khả năng của mối quan hệ phi
tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng là “The role of macroeconimic factors in
growth” của Fisher (1993). Sử dụng dữ liệu bảng 93 quốc gia bao gồm cả quốc gia
phát triển và đang phát triển với phương pháp hồi quy chéo theo nhóm và hồi quy
hỗn hợp, tác giả sử dụng hồi quy spline bằng cách sử dụng điểm gãy là 15% và
40%, chia lạm phát thành ba giai đoạn (≤ 15%, từ 15% đến 40% và ≥ 40%). Tác


12

giả không những chỉ ra được mối quan hệ phi tuyến giữa làm phát và tăng trưởng
kinh tế mà còn cho thấy mối quan hệ tiêu cực mạnh mẽ khi lạm phát vượt trên mức
40%. Tuy nhiên, việc lựa chọn các điểm gãy để đại diện cho mức ngưỡng lạm phát
là một hạn chế của bài nghiên cứu này. Tương tự bài nghiên cứu của Bruno (1995)
đã cho thấy tăng trưởng kinh tế chỉ giảm đi khi lạm phát ở mức từ 20 – 25% và tốc
độ tăng trưởng sẽ gia tăng khi lạm phát giảm xuống mức 15 – 20%.
Bài nghiên cứu “Non Linear Effects of Inflation on Economic Growth” của
Sarel (1996) đã tìm ra bằng chứng về điểm gãy của cấu trúc lạm phát và tăng
trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu bảng của 87 quốc gia trong giai đoạn
1970 – 1990. Tác giả đã tìm thấy được điểm gãy mà ở đó ngưỡng lạm phát ước
tính ở mức 8%, nghĩa là nếu lạm phát ở dưới mức này sẽ không có tác động nhiều
đến tăng trưởng, nhưng nếu vượt ngưỡng 8% thì lạm phát sẽ có tác động tiêu cực
mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế.
Bruno và Easterly (1998) thông quan bài nghiên cứu “Inflation Crises and
Long-run Growth” cũng đã tìm thấy được bằng chứng về sự tương quan của lạm
phát và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn bằng cách sử dụng dữ liệu bảng và dữ
liệu chéo kết hợp của chỉ số lạm phát dựa trên CPI của 26 quốc gia đã trải qua cuộc
khủng hoảng lạm phát trong khoảng thời gian từ năm 1961 – 1992. Kết quả nghiên
cứu đã chứng minh rằng cuộc khủng hoảng lạm phát cao dẫn đến sự sụt giảm mạnh

tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với mức ngưỡng lạm phát 40%, các tác giả không tìm
thấy sự tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế khi lạm phát ở dưới mức
này, nhưng lại thấy có sự tương quan nghịch chiều mạnh mẽ khi lạm phát ở trên
mức 40%.
Song song đó, Ghosh và Phillips (1998) với bài viết “Warning: Inflation
May Be Harmful to Your Growth” đã sử dụng mảng dữ liệu về tăng trưởng GDP
bình quân đầu người hàng năm theo giá so sánh và số liệu về lạm phát theo CPI
bình quân của 145 nước thành viên của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) trong khoảng


13

thời gian 1960 – 1996 với 3606 quan sát kết hợp với phân tích hồi quy đa biến theo
các nhóm và phương pháp cây nhị phân đệ quy. Các tác giả đã tìm thấy mức
ngưỡng lạm phát khá thấp khoảng 2% - 3%, khi tỷ lệ lạm phát vượt mức này sẽ có
tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế và ở dưới mức này lạm phát sẽ có tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Bài nghiên cứu cũng tìm thấy được mối
quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế có dạng lồi, do đó, sự suy giảm trong
tăng trưởng khi lạm phát tăng từ 10% đến 20% là lớn hơn nhiều so với sự gia tăng
lạm phát từ 40% đến 50%.
Với bài nghiên cứu “From Inflation to Growth-Eight Years of Transition”
của Christoffersen và Doyle (1998), các tác giả đã sử dụng số liệu về GDP theo giá
so sánh, dân số, cơ cấu hàng xuất khẩu, chỉ số cải cách chuyển đổi cho 22 nền kinh
tế chuyển đổi trong bối cảnh đổi mới nền kinh tế và mở rộng thị trường xuất khẩu
từ năm 1990 đến 1997 nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữ lạm phát và tăng trưởng
kinh tế cũng như ảnh hưởng của thiểu phát đối với tăng trưởng kinh tế. Các tác giả
tìm ra được mức ngưỡng lạm phát là 13% và không tìm thấy bất kỳ bằng chứng
nào cho thấy có sự tăng trưởng kinh tế khi lạm phát cao hơn mức ngưỡng này. Do
đó, các tác giả đề xuất rằng các quốc gia có tỷ lệ lạm phát rất thấp so với ngưỡng
này phải đặt mục tiêu kìm giữ mức lạm phát thấp này.

Tiếp theo đó, Khan và Senhadji (2001) với bài nghiên cứu “Threshold
Effects in the Relationship Between Inflation and Growth” đã ước tính ngưỡng lạm
phát một cách riêng biệt cho các nước đang phát triển và các nước công nghiệp hoá
bằng cách sử dụng dữ liệu bảng của 140 quốc gia trong giai đoạn 1960 – 1998. Các
tác giả sử dụng mô hình bình phương tối thiểu phi tuyến để tìm ra mức ngưỡng
lạm phát ở các nước đang phát triển là 11 – 12% và ở các nước công nghiệp hoá
khoảng 1 – 3%. Với kết quả này, nếu mức lạm phát nằm dưới mức ngưỡng sẽ
không có ảnh hưởng gì đến tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu lạm phát vượt mức
ngưỡng này sẽ có tác động tiêu cực đến tốc độ phát triển kinh tế. Tuy


14

nhiên, tác giả cũng nêu rõ là kết quả này phụ thuộc nhiều vào phương pháp ước
tính chẳng hạn như việc có sự loại trừ những số liệu quan sát lạm phát cao hoặc lặp
đi lặp lại nhiều lần.
Tương tự, bài nghiên cứu “Inflation-Growth Profiles Across Countries:
Evidence from Developing and Developed Countries” của Moshiri và Sepehri
(2004) sử dụng dữ liệu của bốn nhóm quốc gia ở các giai đoạn phát triển khác nhau
và tìm ra được khả năng tồn tại nhiều ngưỡng lạm phát (chứ không phải chỉ có một
mức ngưỡng) cho các quốc gia ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Các tác giả
tìm thấy mức ngưỡng lạm phát 15% cho các quốc gia có mức thu nhập dưới mức
trung bình, ngưỡng 11% cho các nước có mức thu nhập trung bình và ngưỡng lạm
phát 5% có các quốc gia có mức thu nhập trên trung bình. Các tác giả không tìm
thấy được mối tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế của các quốc qia
thuộc nhóm Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organisation for Economic
Cooperation and Development - OECD).
Bài nghiên cứu “Inflationary Threshold Effects in the Relationship Between
Financial Development and Economic Growth: Evidence from Taiwan and Japan”
của Lee và Wong (2005) đã sử dụng mô hình ngưỡng và mô hình TAR của Tong

(1978) và Hansen (1996) với các dữ liệu quý thiết lập từ giai đoạn 1965 – 2002 đối
với Đài Loan và giai đoạn 1970 – 2001 đối với Nhật Bản để tìm sự tồn tại của mức
ngưỡng lạm phát tại hai quốc gia này. Các tác giả tìm thấy khi lạm phát tại Đài
Loan vượt quá ngưỡng 7,3% thì lạm phát có tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế. Đối với Nhật Bản, các tác giả tìm thấy hai mức ngưỡng lạm phát là 2,5%
và 9,7%, các tác giả cho rằng lạm phát dưới mức ngưỡng 9,7% sẽ có tác động tích
cực đến tăng trưởng kinh tế.
Drucker và các cộng sự (2005) với bài nghiên cứu “Threshold Effects in the
Relationship Between Inflation and Growth: A New Panel-data Approach” đã áp
dụng mô hình hồi quy ngưỡng nội sinh mới của Hansen (1999) trên dữ liệu của


15

138 quốc gia trong giai đoạn 1950 – 2000 để ước lượng ngưỡng lạm phát. Kết quả

cho thấy tồn tại hai mức ngưỡng lạm phát tại các nước phát triển là 2,57% và
12,61% và duy nhất một ngưỡng lạm phát đối với mẫu đầy đủ 138 quốc gia là
19,16%.
Li (2006) với bài nghiên cứu “Inflation anh Economic Growth: Threshold
Effects Transmission Mechanisms” kiểm nghiệm mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng phương trình tăng trưởng chi tiêu Y = C + I
+ G + NX và phương trình tăng trưởng kế toán, trên dữ liệu của 90 quốc gia đang
phát triển từ năm 1961 đến năm 2004. Kết quả, bài nghiên cứu tìm thấy mối quan
hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng, nhưng hình thức mối quan hệ phi tuyến
này thì khác nhau đối với các nhóm quốc gia khác nhau. Theo đó, các nước đang
phát triển có 2 mức ngưỡng lạm phát là 14% và 38%. Cơ chế phi tuyến mà hai
mức ngưỡng này hoạt động như sau: Khi tỷ lệ lạm phát ở dưới mức ngưỡng đầu
tiên (14%), tác động của lạm phát đến tăng trưởng không đáng kể và thậm chí là
tích cực. Khi tỷ lệ lạm phát nằm giữa hai mức ngưỡng, lạm phát sẽ tác động mạnh

mẽ và tiêu cực đến tăng trưởng. Khi lạm phát quá cao - vượt qua mức ngưỡng thứ
2, tác động biên của lạm phát lên tăng trưởng giảm dần nhưng vẫn mang ý nghĩa
tiêu cực. Đối với các nước phát triển, chỉ có một ngưỡng lạm phát được phát hiện,
ước tính khoảng 24%.
Ngoài ra, bài nghiên cứu “Inflation and Economic Growth: A Cross –
Country of Non – Linear Analysis” của Pollin và Zhu (2006) đã tìm thấy mối quan
hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế cho hơn 80 quốc gia có mức thu
nhập trung bình và trung bình thấp trong giai đoạn 1961 – 2000. Các tác giả tìm
thấy mức ngưỡng lạm phát nằm trong khoảng 16 – 18%, vượt mức ngưỡng này,
lạm phát sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, và dưới mức ngưỡng này
sẽ có tác động tích cực.


16

Schiavo và Vaona (2007) với bài nghiên cứu “Nonparametric and
Semiparametric Evidence on the Long-run Effects of Inflation on Growth” bằng
cách sử dụng biến công cụ không tham số và bán tham số để kiểm định mối quan
hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, đồng thời tìm ra mức ngưỡng
lạm phát. Các tác giả sử dụng bảng dữ liệu của 167 quốc gia (bao gồm cả các quốc
gia phát triển và đang phát triển) trong giai đoạn từ 1960 – 1999 và tìm ra mức
ngưỡng lạm phát là 12% cho các nước phát triển. Do sự biến động cao của tốc độ
tăng trưởng tại các nước đang phát triển, bài nghiên cứu không thể tìm ra được
mức ngưỡng lạm phát.
Bài nghiên cứu ““Phillips Curve” in Selected Asean Countries: New
Evidence from Panel Data Analysis” của Furuoka và cộng sự (2009) tìm hiểu về
ngưỡng lạm phát tại Malaysia, bằng cách sử dụng mô hình tự hồi quy ngưỡng nội
sinh (TAR) của Hansen (1999). Tác giả sử dụng dữ liệu trong giai đoạn 1970 –
2005 mà tìm thấy mức ngưỡng lạm phát là 3,89%, nếu lạm phát vượt mức này lạm
phát sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, nếu dưới mức này thì lạm

phát sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bài nghiên cứu “Inflation and economic growth: The non-linear
relationship. Evidence from CIS countries” của Sergii (2009) nghiên cứu mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát cho các quốc gia thuộc “Cộng đồng các
Quốc gia Độc lập” (CIS) cho giai đoạn 2001-2008 bằng cách sử dụng phương pháp
bình phương bé nhất phi tuyến (non-linear least square). Kết quả nghiên cứu của
tác giả cho thấy ngưỡng lạm phát ước tính ở các quốc gia CIS là 8%. Nghĩa là khi
lạm phát lớn hơn 8%, lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng.
Bài nghiên cứu “Estimating The Inflation - Growth Nexus - A Smooth
Transition Model” của Espinoza và cộng sự (2010) sử dụng mô hình hồi quy
chuyển tiếp trơn (STR) để tìm kiếm một ngưỡng mà ở đó khi lạm phát lớn hơn sẽ
có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Tác giả đã sử dụng dữ liệu của 165 quốc gia


17

trong giai đoạn 1960 – 2007. Kết quả của bài nghiên cứu chỉ ra mức ngưỡng lạm
phát là 10% cho các quốc gia mới nổi và 1% cho các nước tiên tiến, trên mức
ngưỡng này, lạm phát sẽ nhanh chóng trở nên có hại cho tăng trưởng, điều này cho
thấy sự cần thiết của một chính sách để đối phó lạm phát tại hoặc ở trên ngưỡng đó
kịp thời.
Trong bài nghiên cứu “On the impact of inflation on output growth: Does
the level of inflation matter?” của Villavicencio và Mignon (2011), các mô hình
PSTR của González et al. (2005) và Fok et al. (2005) được áp dụng cho mẫu dữ
liệu bao gồm 44 quốc gia trong giai đoạn 1961-2004. Kết quả của bài viết cung cấp
bằng chứng rõ ràng rằng lạm phát tác động phi tuyến đến tăng trưởng kinh tế. Cụ
thể hơn, có tồn tại một ngưỡng mà khi lạm phát trên ngưỡng này, nó tác động tiêu
cực đến tăng trưởng. Giá trị ngưỡng lạm phát này đối với các nước tiên tiến rất
khác so với các nước đang phát triển, ước tính là 2,7% đối với các nền kinh tế công
nghiệp hóa và 17,5% cho nền kinh tế mới nổi. Hơn nữa, đối với tỷ lệ đối với các

nền kinh tế phát triển, trong khi ở mức lạm phát dưới 17,5%, liên kết giữa chúng là
không đáng kể đối với các nước đang phát triển. Sự khác biệt trong các giá trị
ngưỡng giữa những nhóm quốc gia thu được từ phương pháp PSTR minh họa một
mức chịu đựng lạm phát cao hơn đối với các nước mới nổi, có thể được giải thích
bởi các yếu tố khác nhau, chẳng hạn như tác động Balassa-Samuelson, việc sử
dụng các hệ thống chỉ số, chính sách tỷ giá hối đoái và mức lạm phát cao của các
nước đó. Những kết quả này là mạnh mẽ đối với phương pháp chặn do kết quả
tương tự đã thu được bằng cách sử dụng các ước tính GMM trên phương trình tăng
trưởng bao gồm các hệ số tương tác bậc hai. Căn cứ vào việc tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ
thay đổi của cung tiền tương quan chặt chẽ với nhau, thực tế rằng lạm phát ảnh
hưởng phi tuyến đến tăng trưởng kinh tế có thể có ý nghĩa quan trọng về chính
sách tiền tệ. Thật vậy, tốc độ tăng trưởng cung tiền là công cụ chính của ngân hàng
trung ương cho chính sách tiền tệ, sự tồn tại của một mối quan hệ phi tuyến giữa
lạm phát và tăng trưởng sản lượng cho thấy rằng chính sách tiền tệ có thể có hiệu


18

ứng khác nhau đối với GDP phụ thuộc vào mức lạm phát. Kết quả là, điều này gợi
lên nghi vấn về tính trung lập lâu dài của tiền tệ.
Trong bài nghiên cứu của Bick (2010), tác giả mở rộng mô hình ngưỡng của
Hansen (1999) thông qua các hệ số chặn (regime intercepts) và áp dụng mô hình
này trên mảng số liệu của 40 nước đang phát triển giai đoạn 1960-2004 và sử dụng
số liệu trung bình 5 năm. Kết quả cho thấy giả thuyết giá trị ngưỡng không tồn tại
bị bác bỏ ở mức ý nghĩa 5%. Việc tính các hệ số chặn chế độ làm giảm ước tính
ngưỡng từ 19% xuống 12% và giới hạn dưới từ 11,8% đến 5,3%, với khoảng tin
cậy 95%. Điểm nổi bật nhất là nếu không có hệ số chặn chế độ, tỷ lệ lạm phát dưới
ngưỡng 19% có tác động tích cực đáng kể (0,407) lên tăng trưởng với mức ý nghĩa
10%, trong khi các tác động tiêu cực (-0,232) cho tỷ lệ lạm phát trên 19% không có
ý nghĩa thống kê. Ngược lại, nếu có hệ số chặn chế độ, độ lớn các tác động tăng

gấp đôi (0,785 -0,531) và thiết lập tại mức ý nghĩa ít nhất 5%. Chính các hệ số
chặn chế độ δ1 có ý nghĩa tại mức 5%. Như vậy, việc lựa chọn các mô hình chính
xác, tức là kiểm soát chênh lệch hệ số chặn chế độ, có những ngụ ý quan trọng.
Đầu tiên, ước tính điểm và giới hạn dưới của khoảng tin cậy mà lạm phát gây hại
đến tăng trưởng đều thấp hơn đáng kể. Thứ hai, độ lớn của tác động bất lợi của tỷ
lệ lạm phát trên ngưỡng tăng gấp đôi. Thứ ba, giữ lạm phát dưới ngưỡng rõ ràng là
có lợi hơn.
Một vài điểm đáng lưu ý có thể được rút ra từ các nghiên cứu trước đây như
sau:
-

Hầu hết các nghiên cứu đều đồng thuận với kết quả lạm phát và tăng trưởng
kinh tế có mối quan hệ phi tuyến và tồn tại một mức ngưỡng lạm phát mà ở
đó nếu lạm phát ở dưới mức ngưỡng này có thể không tác động hoặc tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, ngược lại, nếu lạm phát ở trên mức
này thì sẽ tác động tiêu cực đến tốc độ phát triển của nền kinh tế. Mức


×