Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỔ PHẦN HÓA QUA THỰC TẾ CÔNG TY CỔ PHẦN DỤNG CỤ CƠ KHÍ XUẤT KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.93 KB, 18 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
CỔ PHẦN HÓA QUA THỰC TẾ CÔNG TY CỔ PHẦN DỤNG CỤ CƠ KHÍ
XUẤT KHẨU.
Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta về cơ bản có thể
chia thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn thí điểm: từ 5/1992 đến 5/1996.
- Giai đoạn mở rộng: từ 6/1996 đến 6 /1998.
- Giai đoạn đẩy nhanh cổ phần hóa: từ 7/1998 đến nay.
Mặc dù số lượng doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa trong mỗi giai
đoạn là khác nhau nhưng nhìn chung tiến độ cổ phần hóa vẫn diễn ra chậm chạp,
cho đến nay mới có hơn 500 doanh nghiệp (chiếm 9,3% tổng số doanh nghiệp Nhà
nước) chuyển thành công ty cổ phần trong khi mục tiêu đặt ra là đến năm 2003 có
1498 doanh nghiệp được cổ phần hóa. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến khó khăn và làm mất nhiều thời gian trong quá trình cổ phần hóa là vướng mắc
trong vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp.
Trên cơ sở phương án sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt, các Bộ, Tổng công ty 91, các địa phương quyết định danh
sách doanh nghiệp Nhà nước sẽ cổ phần hóa. Sau khi đã quyết định doanh nghiệp
Nhà nước cổ phần hóa, vấn đề quan trọng nhất là xác định giá trị doanh nghiệp.
Đây là công việc không dễ dàng, tốn không ít thời gian và công sức, bởi phần lớn
doanh nghiệp Nhà nước của ta đã được thành lập và hoạt động vài chục năm, quá
trình hình thành tài sản qua nhiều thời kỳ, giá cả khác nhau, thậm chí có thiết bị
máy móc đã hết thời gian khấu hao nhưng vẫn còn tiếp tục sử dụng. Cũng theo quy
định của Nhà nước: giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp xác định trên cơ sở
hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài
sản và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa.
Do vậy, để xác định tương đối chính xác giá trị thực tế của doanh nghiệp và
có thể coi đó là giá thị trường để người mua (các nhà đầu tư, kể cả người lao động
tại doanh nghiệp) và người bán (Nhà nước) chấp nhận được đòi hỏi phải mất 5 - 6
tháng là chuyện bình thường, thậm chí còn lâu hơn.
Qua quá trình nghiên cứu và thực tế xác định giá trị doanh nghiệp trong quá


trình cổ phần hóa ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu, xin đưa ra một số
giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và đẩy nhanh quá trình xác định giá trị
doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa trong thời gian tới.
A- MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH
NGHIỆP ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HÓA.
1. Giải quyết vấn đề tư tưởng.
Tư tưởng, quan điểm của người lao động trong doanh nghiệp là một trong
những vấn đề cần giải quyết trước tiên khi tiến hành cổ phần hóa. Nếu tư tưởng
được giải quyết tốt thì nó là một trong những điều kiện đẩy nhanh cổ phần hóa và
ngược lại, nếu tư tưởng vẫn vướng mắc thì sẽ là lực cản rất lớn gây châm trễ cho
toàn bộ quá trình cổ phần hóa nói chung và xác định giá trị doanh nghiệp nói riêng.
Vì vậy, Nhà nước, cơ quan chủ quản của doanh nghiệp và đặc biệt là cán bộ
lãnh đạo trong doanh nghiệp phải là người đầu tiên quán triệt và phải tăng cường
tiến hành các hoạt động tuyên truyền cho người lao động trong doanh nghiệp nhằm
tạo ra sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước.
- Một là, chủ trương cổ phần hóa không dẫn đến nguy cơ chệch hướng xã hôi
chủ nghĩa và làm suy yếu kinh tế Nhà nước.
- Hai là, cổ phần hóa không làm ảnh hưởng đến quyền lợi và vị trí của mỗi
người trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào
hoạt động của doanh nghiệp.
Có thể thực hiện tốt công tác tuyên truyền thông qua việc tổ chức các buổi
hội nghị, giải thích những thắc mắc của người lao động về cổ phần hóa; tạo điều
kiện cho người lao động có khả năng được tham gia vào các công việc trong quá
trình cổ phần hóa.
2. Thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa.
Theo quan điểm truyền thống thì kế hoạch hóa là tổng hợp các hoạt động
nhằm xác định trước các mục tiêu, nhiệm vụ, đồng thời tổ chức thực hiện để đạt
được các mục tiêu đó.
Hiện nay, kế hoạch hóa được định nghĩa: kế hoạch hoá là một quá trình bắt
đầu bằng việc thiết lập các mục tiêu và quyết định chiến lược, các chính sách và

các kế hoạch chi tiết để đạt mục tiêu.
Cho dù định nghĩa theo quan điểm nào thì bản chất của kế hoạch vẫn là trạng
thía ý tưởng, sự suy nghĩ để vạch ra những mục tiêu và cách thức để đạt được
những mục tiêu đó.
Qua các phân tích ở trên có thể thấy tầm quan trọng của công tác kế hoạch
trong doanh nghiệp. Tuy nhiên ở nước ta, một số doanh nghiệp chưa thực sự coi
trọng công tác kế hoạch, có thể nhận thấy điều này trong quá trình xác định giá trị
doanh nghiệp thời gian qua.
Mặc dù quá trình cổ phần hóa nói chung và xác định giá trị doanh nghiệp nói
riêng là một công việc phức tạp, thực hiện trong thời gian dài nhưng hầu như các
doanh nghiệp chỉ lập kế hoạch thực hiện mang tính sơ bộ. Chính do chỉ đề ra kế
hoạch sơ bộ nên trong quá trình thực hiện gặp phải nhiều vướng mắc không đáng
có, dẫn đến thời gian công việc kéo dài.
Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp cần xây dựng một bản kế
hoạch chi tiết các công việc cần thực hiện ngay từ khi nhận được quyết định cổ
phần hóa (ở đây chỉ xin đề cập đến lập kế hoạch chi tiết cho quá trình xác định giá
trị doanh nghiệp). Bản kế hoạch chi tiết này sẽ giúp lập ra một lịch trình hoạt động
mang tính khoa học, giúp cho các công việc diễn ra nhịp nhàng, không chồng chéo,
từ đó rút ngắn được đáng kể thời gian thực hiện do đã lường trước được hầu hết
các khả năng có thể xảy cũng như các biện pháp giải quyết vấn đề một cách hữu
hiệu.
Bản kế hoạch có thể được lập theo hướng sau:
Bước công việc Thời gian
thực hiện
(từ...đến...)
Công việc Biện pháp
thực hiện
Đối tượng
thực hiện
Ghi chú

1. Kiểm kê tài
sản trên sổ sách
kế toán
... 1.
2.
...
... ...
2. Kiểm kê tài
sản thực tế
3. Xác định chất
lượng còn lại
của tài sản
4. Xác định giá
thị trường
5. Kết quả
6. Tổng hợp
Điểm mục “tổng hợp” có thể xây dựng một bản riêng để dễ dàng theo dõi kết
quả thực hiện chung mà không nhất thiết phải nằm trong bản kế hoạch này. Ngoài
ra, sau mỗi công việc hay bước công việc phải tiến hành kiểm điểm, đánh giá, rút
kinh nghiệm để thực hiện các bước tiếp theo cho thật tốt.
Sau khi xây dựng bản kế hoạch, có thể cụ thể hoá lịch trình làm việc theo sơ
đồ GANTT, ví dụ như sau:
Thời gian 1 2 3 ... Đối tượng
thực hiện
Công việc
1.
2.
3.
...
...

...
...
Cần luôn luôn đảm bảo tính tập thể trong xây dựng kế hoạch này tức là kế
hoạch phải được xây dựng trên cơ sở ý kiến của tập thể mới đảm bảo tính đúng đắn
và tính khả thi cao.
Nói chung, để lập được kế hoạch chi tiết đòi hỏi đầu tư thời gian, chi phí
nhưng chắc chắn lợi ích mà nó mang lại là rất lớn nếu so với chi phí xây dựng kế
hoạch hoặc chi phí phát sinh khi không có kế hoạch.
3. Giải quyết vấn đề xác định giá trị còn lại và giá thị trường của tài sản.
Đây chính là những vấn đề gây cản trở chủ yếu cho quá trình định giá doanh
nghiệp.
Có thể thấy, việc xác định giá trị còn lại của doanh nghiệp là rất khó khăn,
chính vì vậy, thường xảy ra tình trạng cán bộ doanh nghiệp đánh giá cao nhưng cơ
quan thẩm định lại đánh giá thấp, gây tranh chấp về quyền lợi giữa hai bên. Có thể
giải thích nguyên nhân của tình trạng này là:
Thứ nhất, việc đánh giá này hoàn toàn dựa trên chủ quan của người đánh giá.
Có thể thấy, phầnlớn cán bộ thẩm định không thể đánh giá đúng giá trị còn lại
của tài sản trên cơ sở thực tế mà chủ yếu đánh giá trên dựa vào sổ sách, tài liệu.
Trong khi đó, cán bộ đánh giá của doanh nghiệp là người thường xuyên tiếp xúc,
sử dụng máy móc nên có thể đánh giá khá chính xác nhưng lại thường có tư tưởng
cục bộ, nên kết quả đánh giá dễ cao hơn thực tế. Từ đó làm nảy sinh mâu thuẫn
giữa các bên.
Mâu thuẫn này rất khó giải quyết bởi mỗi bên đều giữ quan điểm của mình
trong khi không thiếu máy móc, thiết bị, phòng thí nghiệm để đánh giá chính xác
chất lượng cònlại của tài sản.
Thứ hai, tiêu thức và phương pháp đánh giá không có sự thống nhất giữa các
bên.
Giá trị tài sản hay giá trị còn lại là một chỉ tiêu tổng hợp, có thể xác định qua
nhiều tiêu thức khác nhau. Ví dụ, một máy dập có thể đánh giá qua động cơ, phụ
tùng máy, thiết bị thay thế, chất lượng phôi sau khi dập, năng lượng tiêu hao, hao

mòn vô hình, giá trị ban đầu...Vì thế, khác nhau trong sử dụng phương pháp đánh
giá cũng tạo nên sự sai lệch trong kết quả đánh giá.
Thứ đến là phương pháp đánh giá. Một trong những phương pháp thường
được sử dụng là phương pháp cho điểm. Theo cách này, tất cả các tiêu thức có thể
so sánh được liệt kê để cho điểm căn cứ theo tầm quan trọng cuả tiêu thức. Đây là
cách làm khoa học và tương đối chính xác nhưng không phải doanh nghiệp cũng
sử dụng trong đánh giá chất lượng còn lại của tài sản. Đơn cử như Công ty cổ phần
Dụng cụ cơ khí xuất khẩu sử dụng phương pháp chuyên gia và đưa ra kết quả trên
cơ sở tổng hợp ý kiến của tập thể. Chính vì vậy lại dẫn dến sự không thống nhất
giữa hội đồng thẩm định và ban kiểm kê của doanh nghiệp.
Thứ ba, chưa có tổ chức tư vấn chuyên ngành về vấn đề xác định giá trị còn
lại.
Việc xác định giá trị còn lại của một số tài sản thuộc doanh nghiệp đôi khi
nằm ngoài khả năng chuyên môn của cán bộ kiểm kê. Đối với Công ty cổ phần
Dụng cụ cơ khí xuất khẩu là việc xác định giá trị còn lại của nhà xưởng, công trình
xây dựng cơ bản, trong khi không có một cơ quan chuyên tư vấn về lĩnh vực này
cho nên cũng gây khó khăn cả cho hội đồng thẩm định.
Ngoài ra, do sổ sách kế toán không thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của
Nhà nước: ghi sai, ghi thiếu, chậm hạch toán...cũng khiến cho việc xác định giá trị
doanh nghiệp bị chậm trễ.
Để giải quyết những vấn đề này, các doanh nghiệp cần:
- Thực hiện đúng Pháp lệch kế toán và các quy định về kế toán của Nhà nước.
- Đối với các vấn đề không nắm rõ cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia
hoặc các tổ chức chuyên ngành để nhận được sự giúp đỡ cần thiết.
Ngoài ra, nên chăng Nhà nước cần có các quy định cụ thể, thống nhất về các
phương pháp, tiêu thức đánh giá tài sản để tránh xảy ra mâu thuẫn, gây tốn kém,
lãng phí.
Để xác định giá thị trường của tài sản, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều
bước khác nhau từ nghiên cứu giá cả thị trường của các tài sản tương đương đến
tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn...Tuy nhiên, để xác định được tương

đối chính xác thì vẫn rất khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau:
- Nhiều loại tài sản chuyên dùng không có trên thị trường, giá thị trường chỉ
có thể tính theo phương pháp điều chỉnh giá trị sổ sách theo tỷ lệ lạm phát trung
bình và độ hao mòn ước tính nên giá trị xác định được không có tính chính xác
cao.
- Một số máy móc đã quá cũ, thậm chí hết khấu hao nhưng vẫn được sử dụng
thì chưa có phương pháp giải quyết hữu hiệu.
Nói chung, để xác định giá thị trường của tài sản một cách chính xác thì ngoài
sự cố gắng của các doanh nghiệp cần có sự giúp đỡ của Nhà nước thông qua các
quy định cụ thể.
4. Vấn đề tổ chức thực hiện tại doanh nghiệp.
Theo quy định tại Thông tư 104/1998/TT-BTC thì những thành viên trong hội
đồng kiểm kê tại doanh nghiệp gồm có giám đốc, kế toán trưởng, trưởng phòng kỹ
thuật, tức là, đều là các thành viên kiêm nhiệm. Vì vậy khó tránh khỏi sự sao nhãng
trong công việc chuyên môn hay công việc kiêm nhiệm (ở đây là nhiệm vụ xác
định giá trị doanh nghiệp).
Tuy nhiên, kiêm nhiệm là điều không thể tránh khỏi. Vấn đề là các thành viên
này cần phải trang bị cho mình những kiến thức về công việc được giaovà phải có
tinh thần trách nhiệm cao đối với mỗi mọi công việc của nình. Ngoài ra, người lao
động trong doanh nghiệp cũng cần chủ động nghiên cứu, tham gia tích cực vào
những công việc có thể để giảm bớt gánh nặng cho ban kiểm kê, đồng thời để bày
tỏ quan điểm, nhận xét, đưa ra những ý kiến đề xuất giúp ban kiểm kê hoàn thành
công việc một cách tốt nhất.
B- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC.
I- MỘT SỐ NHẬN XÉT.
Trong suốt quá trình thực hiện cổ phần hóa, Đảng và Nhà nước đã ban hành
rất nhiều các văn bản pháp quy về vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp.
Giai đoạn đầu - giai đoạn thí điểm cổ phần hóa (5/1992 - 5/1996), giá trị
doanh nghiệp được xác định theo phương pháp định giá tài sản có điều chỉnh
(Thông tư số 36/TC-CN).

Giai đoạn mở rộng cổ phần hóa (6/1996 - 6/1998), giá trị doanh nghiệp xác
định trên cơ sở kết hợp giữa giá trị tài sản thuần và phương pháp so sánh trực tiếp
(Thông tư số 50/TC/TCDN).
Giai đoạn đẩy nhanh cổ phần hóa (từ 7/1998 đến nay), Thông tư 104/TT-BTC
quy định phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp là tổng hợp giữa phương pháp
giá trị tài sản có và khả năng sinh lời.
Qua quá trình thực hiện cổ phần hóa thời gian qua, có thể rút ra một số nhận
xét sau về các quy định hiện hành:
1. Ưu điểm.
1.1. Phân loại hợp lý các loại tài sản để định giá doanh nghiệp.

×