CHƯƠNG 1: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ
TẠI NHNo PTNT VIỆT NAM
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẺ CỦA NHNo&PTNT VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Những thuận lợi và khó khăn của Agribank trong kinh doanh thẻ Ngân hàng.
Để có chiến lược phát triển phù hợp và hiệu quả cho hoạt động kinh doanh thẻ của
NHNo&PTNT Việt Nam, việc đánh giá đúng vị thế của Ngân hàng, những ưu thế cũng
như hạn chế trong triển khai dịch vụ dịch vụ thanh toán hiện đại này là điều rất cần thiết.
Đặc biệt là đối với Agribank, một ngân hàng với thế mạnh chủ yếu là tín dụng nông
nghiệp, nông thôn.
1.1. Điểm mạnh:
Thứ nhất, Agribank có thương hiệu và uy tín đã và đang được khẳng định tại Việt
Nam. Với tư cách là ngân hàng thương mại đứng đầu về vốn điều lệ và là một trong bốn
NHTM quốc doanh lớn nhất ở Việt Nam, NHNo&PTNT Việt Nam hiện đang giữ một vai
trò quan trọng trong ngành ngân hàng.
Thứ hai, Agribank có mạng lưới phân phối rộng khắp. NHNo&PTNT Việt Nam có
mạng lưới chi nhánh rộng nhất phủ khắp toàn quốc với hơn 1800 chi nhánh, điểm giao
dịch với gần 30.000 cán bộ công nhân viên. Đây là ưu thế của Ngân hàng trong việc đẩy
mạnh công tác tiếp thị và tung sản phẩm thẻ ra thị trường.
Thứ ba, Agribank có mạng lưới khách hàng lớn. Hiện NHNo&PTNT Việt Nam là
Ngân hàng có mạng lưới khách hàng lớn nhất và có xu hướng tiếp tục được mở rộng và
phát triển, bao gồm 7.500 doanh nghiệp, 9 triệu hộ kinh doanh, 50 triệu khách hàng khác
và 1,7 triệu tài khoản khách hàng. Theo ước tính NHNo&PTNT Việt Nam hiện chiếm
khoảng 20% thị phần ngân hàng bán lẻ tại các tỉnh( thành phố lớn). Điều này sẽ giúp Ngân
hàng tiết giảm chi phí trong việc tìm và thu hút khách hàng mới cho hoạt động kinh doanh
thẻ.
Thứ tư, Agribank có mạng lưới ngân hàng đại lý rộng lớn. NHNo&PTNT Việt Nam
đã thiết lập một mạng lưới ngân hàng đại lý quốc tế gồm 950 ngân hàng tại 113 nước trên
thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc
tế phát triển.
Thứ năm, ban lãnh đạo Agribank gồm những người có năng lực và kinh nghiệm.
Cùng với ban lãnh đạo vững mạnh, biết nhìn xa trông rộng, quan tâm đến nghiệp vụ thẻ,
mục tiêu lâu dài của NHNo&PTNT Việt Nam là tiếp tục giữ vững vị thế NHTM hàng đầu
ở Việt Nam và phấn đấu đến năm 2010 trở thành tập đoàn tài chính ngân hàng hiện đại, có
uy tín trong khu vực và trên thế giới.
Thứ sáu, Agribank chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng. NHNo&PTNT
Việt Nam tiếp tục chú trọng đầu tư ứng dụng công nghệ tin học nhằm thực hiện mục tiêu
trở thành một NHTM hện đại, với hàng loạt các dự án về công nghệ tin học đã và đang
được triển khai. Năm 2002, NHNo&PTNT Việt Nam đã triển khai một loạt các chương
trình ứng dụng IT như: hệ thống thông tin quản lý, hệ thống giao dịch trực tuyến, hệ thống
chuyển tiền điện tử, hệ thống truyền tin Fastnet, hệ thống quản lý nhân sự, nâng cấp kết nối
giao dịch hai chiều và kết nối mạng online với Kho bạc Nhà nước, triển khai thí điểm hệ
thống ngân hàng bán lẻ ở một số chi nhánh, triển khai hiện đại hoá hệ thống thanh toán và
kế toán khách hàng, dự án kho dữ liệu tập trung…
Thứ bảy, Agribank là Ngân hàng đầu mối và chủ đạo trong việc thành lập Công ty Cổ
phần Chuyển mạch tài chính quốc gia (BankNet). NHNo&PTNT Việt Nam giữ vai trò chủ
đạo trong tổ chức và hoạt động của BankNet- Công ty chịu trách nhiệm cung cấp các dịch
vụ chuyển mạch tài chính, các giải pháp về thẻ Ngân hàng và hệ thống thanh toán điện tử
liên ngân hàng.
Thứ tám, Agribank có khả năng huy động vốn lớn. NHNo&PTNT Việt Nam là Ngân
hàng có khả năng huy động vốn lớn với mức tăng trưởng bình quân 33%/ năm. Điều này
cho phép ngân hàng dễ dàng thực hiện các mục tiêu về phát hành thẻ tín dụng.
Thứ chín, Agribank có hệ thống cơ sở dữ liệu vầ thông tin khách hàng. NHNo&PTNT
Việt Nam đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu khách hàng, cho phép truy
cập trực tuyến các thông tin về khách hàng.
1.2. Điểm yếu:
Thứ nhất, với tên gọi là NHNo&PTNT Việt Nam, Ngân hàng ít nhiều chịu bất lợi
trong hoạt động kinh doanh thẻ. Kinh doanh thẻ, đặc biệt là thẻ tín dụng chủ yếu nhằm vào
các đối tượng trung và thượng lưu về thu nhập cá nhân, hoặc đối tượng là cán bộ lãnh đạo
trong các công ty, doanh nghiệp lớn.Trong khi hình ảnh của NHNo&PTNT Việt Nam lại
đóng vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nhưng có thể chưa đóng
vai trò lớn trong lĩnh vực kinh doanh thẻ.
Thứ hai, NHNo&PTNT Việt Nam chưa quen thuộc với nghiệp vụ thẻ, đồng thời chưa
có định hướng về kinh doanh thẻ. Nghiệp vụ thẻ về cơ bản còn khá xa lạ với Ban lãnh đạo
Agribank, cần có sự nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm về tất cả các sản phẩm thẻ mà NHNo
dự kiến triển khai trong tương lai. Cũng do còn khá mới mẻ về lĩnh vực này nên Ban lãnh
đạo gần như chưa xây dựng ý tưởng và định hướng đối với hoạt động của Trung tâm Thẻ
cũng như phát triển nghiệp vụ thẻ nói chung.
Thứ ba, Agribank chưa có chi nhánh ở nước ngoài. Trong khi các đối thủ cạnh tranh
khác đã thâm nhập thị trường quốc tế, NHNo vẫn chưa có chi nhánh hay văn phòng đại
diện ở nước ngoài. Điều này cho thấy, tới đây việc phát hành thẻ của NHNo chủ yếu tập
trung tại Việt Nam. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được vì thị trường thẻ tín dụng
hiện còn mới mẻ và có tiềm năng lớn, tuy vậy về lâu dài, khi thị trường này đi vào bão hoà
thì NHNo tất sẽ gặp khó khăn hơn.
Thứ tư, còn có sự không đồng đều về trình độ của đội ngũ cán bộ giữa các cấp chi
nhánh. Hiện số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chỉ tập trung tại Trụ sở chính và
các chi nhánh tỉnh, thành phố. Điều này cho thấy chất lượng của đội ngũ cán bộ giữa các
cấp chi nhánh là không đồng đều mặc dù NHNo vẫn thực hiện chính sách đào tạo. Đội ngũ
cán bộ thẻ hiện nay vừa mỏng, lại vừa thiếu kiến thức và kinh nghiệm, chưa được đào tạo
bài bản.
Thứ năm, dịch vụ thẻ Agribank còn hạn chế về sản phẩm dịch vụ. Hiện nay
NHNo&PTNT Việt Nam mới chỉ phát hành thẻ ghi nợ nội địa và thẻ tín dụng nội địa, chưa
đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của khách hàng.
Thứ sáu, cơ cấu thu nhập của NHNo&PTNT Việt Nam chủ yếu vẫn dựa vào thu từ
hoạt động tín dụng. Trong năm 2005, thu từ dịch vụ của Agribank chỉ chiếm khoảng 7%.
Mục tiêu của các năm tiếp theo là trên 15%. Tuy vậy để đạt được mục tiêu này đòi hỏi
NHNo phải nỗ lực rất lớn.
Thứ bảy, Agribank chưa có hoạt động marketing chuyên sâu về sản phẩm cụ thể.
Ngoài sự thành công vượt trội thông qua việc tài trợ cho các hoạt động thể thao lớn như
SEAGame 22, Paragame2 và đặc biệt là các giải Agribank Cup thì công tác tiếp thị và
quảng bá sản phẩm của NHNo&PTNT Việt Nam nói chung còn nhiều hạn chế. Đến nay,
NHNo&PTNT Việt Nam chưa có hoạt động marketing chuyên sâu nào về sản phẩm thẻ,
công tác quảng cáo vẫn chủ yếu dựa vào các ấn phẩm thông thường như báo cáo thường
niên, tờ rơi, lịch…mà chưa có các chương trình, chiến dịch quảng cáo sâu rộng, thiết thực,
tập trung vào các nhóm sản phẩm cụ thể như sản phẩm thẻ
Thứ tám, công tác xử lý rủi ro còn yếu kém. NHNo&PTNT Việt Nam chưa có quy
trình cụ thể về đánh giá và xử lý rủi ro, cũng như chưa có phần mềm về thu thập và xử lý
thông tin nhằm quản lý đồng bộ các rủi ro tín dụng phát sinh.
Trên đây là những yếu tố hình thành nên môi trường cho việc phát triển dịch vụ thẻ
của NHNo&PTNT Việt Nam. Nhiệm vụ của Agribank là phải biết biến những điểm mạnh
thành động lực và hạn chế tối đa những cản trở trong quá trình khẳng định vị thế của mình
trên thị trường thẻ.
2. Định hướng phát triển
Với mục tiêu giai đoạn 2006-2010 được xác định là: Giữ và củng cố vị thế chủ đạo
và chủ lực trong cung cấp tín dụng cho Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn, mở rộng hoạt động một cách vững chắc, an toàn, bền vững về tài chính: Áp dụng
công nghệ thông tin hiện đại, cung cấp các dịch vụ và tiện ích thuận lợi, thông thoáng đến
mọi loại hình dân cư, doanh nghiệp. Là một sản phẩm điển hình của dịch vụ bán lẻ dựa
trên công nghệ hiện đại, dịch vụ thẻ được coi là một trong những hướng đi chiến lược để đi
tới những mục tiêu trên. Vì vậy, trong thời gian tới, định hướng phát triển hoạt động kinh
doanh thẻ của NHNo&PTNT Việt Nam là:
Thứ nhất, cung cấp đầy đủ sản phẩm, dịch vụ thẻ nội địa và quốc tế có chất lượng
cao. Hiện nay sản phẩm thẻ của NHNo còn ít, tính năng chưa phong phú. Hơn nữa, sản
phẩm thẻ quốc tế đang được nhiều ngân hàng triển khai mạnh mẽ thì NHNo vẫn chưa phát
hành. Do vậy, ngoài việc củng cố những sản phẩm hiện có, NHNo cần nghiên cứu phát
triển nhiều loại sản phẩm thẻ khác nhau nhằm tăng sức cạnh tranh cũng như đáp ứng được
nhu cầu phong phú của xã hội.
Bên cạnh sự đa dạng của sản phẩm thẻ, chất lượng thẻ cũng là một vấn đề cần đựơc
chú trọng. Sự phát triển của thị trường thẻ đồng thời cũng kéo theo sự gia tăng của tội
phạm thẻ cả về số lượng và mức độ tinh vi. Vì vậy, sản phẩm thẻ của NHNo phải đảm bảo
tiện lợi trong sử dụng nhưng cũng phải có độ an toàn và bảo mật cao, đem lại sự an tâm và
tin cậy cho khách hàng sử dụng.
Thứ hai: xây dựng mạng lưới ATM/POS rộng khắp. Quy mô mạng lưới chấp nhận
thẻ càng lớn, sự tiện dụng và hiệu quả của sử dụng thẻ đối với khách hàng càng lón
Thứ ba: tăng cường liên minh, liên kết với các đối tác, đồng thời nâng cao lợi ích của
tất cả các bên liên quan đến hoạt động kinh doanh thẻ: NHPH, NHTT, chủ thẻ, ĐVCNT.
Trước mắt là nhanh chóng đưa hệ thống BankNet vào hoạt động hiệu quả, tránh lãng phí
về nguồn vốn cũng như đảm bảo nhu cầu thanh toán rộng rãi của khách hàng Agribank.
Mục tiêu phấn đấu chung của NHNo&PTNT Việt Nam là xây dựng thương hiệu
Agribank vững mạnh, thành một trong ba NHTM hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực thẻ.
II. GIẢI PHÁP
1. Chính sách về công nghệ
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, hiện đại hoá
công nghệ ngân hàng là vấn đề tất yếu, trở thành bí quyết quan trọng nâng cao khả năng
cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Trên thực tế, các NHTM Việt Nam đều đã đề ra những
chiến lược hiện đại hoá công nghệ cho ngân hàng mình. NHNo&PTNT Việt Nam cũng
không nằm ngoài hướng đi tất yếu đó.
Trong tiến trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đến năm 2010, NHNo đã triển
khai xong chương trình IPCAS giai đoạn 1, đang triển khai IPCAS giai đoạn 2. Đây là
chương trình phần mềm tin học mới, triển khai cho các chi nhánh thuộc dự án Hiện đại hoá
hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng do NHTG tài trợ. Như vậy trên toàn hệ thống
NHNo đang thực có 2 mô hình thanh toán thẻ là cân đối IPCAS dùng cho các chi nhánh đã
thực hiện chương trình IPCAS và cân đối 9000 dùng cho các chi nhánh chưa triển khai
IPCAS. Chương trình IPCAS mới chỉ đựoc triển khai giai đoạn 1 với 20 chi nhánh, NHNo
đang triển khai tiếp giai đoạn 2. Chính vì thế, số lượng chi nhánh IPCAS vẫn chưa thể tăng
thêm trong thời gian tới, trong khi các chi nhánh trong cân đối 9000 đã bắt đầu xuất hiện
hiện tượng quá tải về mã tiền gửi cũng như số máy ATM theo thiết kế (96/99). Vì vậy
trước mắt, NHNo cần khẩn trương triển khai thêm các cân đối mới để đáp ứng nhu cầu
giao dịch thanh toán của ngân hàng và khách hàng. Đồng thời tiếp tục triển khai giai đoạn
2 của IPCAS, tạo sự thuận lợi cho các chi nhánh trong tác nghiệp cũng như sự thống nhất
hoạt động trong toàn hệ thống. Song song với đó là việc đầu tư nâng cấp hệ thống máy
chủ, khắc phục sự hạn chế về khả năng xử lý như hiện nay.
Hiện nay hệ thống ATM/POS còn rất mỏng, hoạt động chưa ổn định gây rất nhiều bất
lợi cho khách hàng giao dịch. Trung tâm Thẻ NHNo cần phải có sự phối hợp đồng bộ với
Trung tâm Công nghệ thông tin để giải quyết triệt để các sự cố ATM và đầu tư thêm ATM
mới. Đối với thiết bị POS, cần có sự tập trung mua sắm tại Trung ương thay vì giao cho
các chi nhánh như hiện nay. Điều này sẽ chuẩn hoá được các thiết bị trong toàn hệ thống.
Liên kết Banknet thành lập từ năm 2004 hoạt động theo mô hình công ty, các bên góp
vốn thành lập công ty cỏ phần chuyển mạch tài chính quốc gia. Tuy nhiên, đến nay hệ
thống này vẫn chưa đi vào hoạt động. Điều này vừa gây lãng phí vốn, vừa hạn chế công tác
triển khai kinh doanh thẻ của các NHTM thành viên. Vì vậy cần nhanh chóng thực hiện các
quá trình thử nghiệm, trang bị công nghệ kết nối để liên kết này sớm được đưa vào thực
hiện.
Sự tiến bộ của công nghệ ngân hàng là nhân tố quyết định để thanh toán thẻ phát
triển, những song song với đó còn là thách thức của các Ngân hàng khi phải đối mặt các
hành vi ngày càng tinh vi của tội phạm thẻ. Vì vậy, việc hiện đại hoá công nghệ thẻ phải
bao hàm cả ciệc phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho thẻ. Muốn vậy, NHNo cần mạnh dạn