Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CHI NHÁNH NHNN PTNT LÁNG HẠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.17 KB, 27 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CHI NHÁNH NHNN
PTNT LÁNG HẠ
I. Đánh giá việc áp dụng các quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay tại chi
nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ.
1. Đánh giá những thành tựu đã đạt được.
Từ khi hoạt động cho đến nay, CBCNV chi nhánh Láng Hạ luôn cố gắng nâng cao chất
lượng hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là chất lượng tín dụng của chi nhánh được
đánh giá là một trong những chi nhánh hoạt động tốt nhất trong hệ thống NHNN & PTNT
Việt Nam. Điều này được thể hiện qua số liệu dư nợ năm 2006 là 2057 tỷ đồng (tăng 10%
so với kế hoạch đề ra).
Bảng 12. Tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm. (Đơn vị: triệu đồng).
Năm Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Nợ quá hạn 2.789 6.750 9.785
NQH/Tổng dư nợ 0,13% 0,36% 0,48%
( Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh các năm 2004-2006).
Số liệu cho thấy, tuy tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm có tăng nhưng so với yêu cầu của
trung ương tỷ lệ này là rất thấp (3%). Con số 0,48% của chi nhánh NHNN & PTNT Láng
Hạ là một tỷ lệ nhỏ so với 1,9% tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của toàn hệ thống NHNN
& PTNT Việt Nam năm 2006. Trong đó nợ nhóm 4 là 3.610 triệu đồng, nợ nhóm 5 là
2.865 triệu đồng chủ yếu của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cho vay tiêu dùng, đời
sống. Kết quả này cho thấy chất lượng tín dụng của chi nhánh Láng Hạ là khá tốt, tỷ lệ rủi
ro tín dụng là khá thấp. Điều này chứng tỏ hoạt động bảo đảm tiền vay của chi nhánh là có
hiệu quả trong việc hạn chế rủi ro tín dụng khi có nợ quá hạn.
Để đạt được hiệu quả trong công tác bảo đảm tiền vay, chi nhánh đã xây dựng cho
mình một quy trình thẩm định tín dụng và thẩm định tài sản phù hợp với quy định của
pháp luật và từng đối tượng khách hàng. Quá trình thẩm định là rất quan trọng nó giúp chi
nhánh thấy được điểm mạnh yếu của khách hàng, những mối quan hệ, khả năng tiềm ẩn
của khách hàng từ đó giúp chi nhánh quyết định có cho khách hàng vay hay không? nếu
cho vay thì hạn mức tín dụng là bao nhiêu? Và với hình thức vay là có bảo đảm bằng tài
sản hay không có bảo đảm. Đồng thời, chi nhánh đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ tín


dụng có trình độ chuyên môn, am hiểu về pháp luật, có trách nhiệm, có đạo đức, tận tâm
trong công việc. Do vậy, công tác bảo đảm tiền vay của chi nhánh đạt hiệu quả khá tốt kể
cả hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản và hình thức cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản.
Có được kết quả này, là do lãnh đạo chi nhánh đã có sự giám sát, chỉ đạo kịp thời,
cán bộ tín dụng của chi nhánh đã làm tốt quy trình bảo đảm tiền vay theo quy định của
pháp luật và hướng dẫn của NHNN & PTNT Việt Nam. Đồng thời, dư nợ tăng cũng phản
ánh chi nhánh luôn chú trọng mở rộng địa bàn hoạt động, tăng thị phần khách hàng truyền
thống và thu hút khách hàng mới thông qua các biện pháp như tổ chức tốt hội nghị khách
hàng, củng cố mối quan hệ với khách hàng, xử lý kịp thời những vướng mắc của khách
hàng; tổ chức phân tích và phân loại khách hàng hiệu quả…Đặc biệt trong những năm gần
đây, do có sự mềm dẻo và linh hoạt trong các hình thức bảo đảm tiền vay mà chi nhánh đã
mở rộng được cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mặt khác chi nhánh cũng có
rất nhiều thuận lợi đó là: năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước đạt 8,17%, tổng
số vốn đầu tư nước ngoài đạt con số kỷ lục 10,2 tỷ USD, Việt Nam tổ chức tốt hội nghị
APEC và là thành viên chính thức của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO, Chính
phủ có nhiều văn bản tháo gỡ những vướng mắc về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín
dụng, NHNN Việt Nam ban hành nhiều chủ trương chính sách mới cho phép các TCTD
linh động trong chính sách lãi suất, sự phát triển của công nghệ thông tin và là chi nhánh
hoạt động trên địa bàn Hà Nội- là trung tâm tiếp cận với những nền văn minh nhân loại…
2. Những khó khăn, tồn tại cần khắc phục.
Bên cạnh những thuận lợi trên thì hoạt động bảo đảm tiền vay tại chi nhánh Láng Hạ
cũng gặp rất nhiếu khó khăn. Đó là: Sự bất ổn về giá cả dẫn đến việc thu hồi vốn khó
khăn, nhiều tổ chức tham gia huy động vốn với hình thức và lãi suất hấp dẫn khiến cho
các ngân hàng gặp khó khăn vì dư nợ lớn hơn nguồn huy động, cạnh tranh giữa các ngân
hàng ở Hà Nội về lãi suất, thị phần, lãi suất USD thấp, các doanh nghiệp vay vốn làm ăn
thua lỗ, các văn bản pháp luật điều chỉnh còn nhiều bất cập; bản thân chi nhánh trang bị
công nghệ còn hạn chế, nguồn lao động chưa tương xứng với yêu cầu của công việc….
Tại chi nhánh Láng Hạ tuy đã áp dụng đầy đủ các hình thức bảo đảm tiền vay theo quy
định của Nghị định 178/1999/NĐ-CP nhưng chưa đồng bộ. Bảo đảm tiền vay tại chi nhánh

cho vay không có bảo đảm bằng tài sản vẫn chiếm một tỷ lệ cao, chứng tỏ chi nhánh ưu
tiên cho vay những khách hàng truyền thống hơn, việc cho vay các khách hàng mới là
không nhiều. Danh mục tài sản bảo đảm của chi nhánh chưa thực sự đa dạng, mới chỉ tập
trung vào những tài sản bảo đảm thông dụng có tính thanh khoản cao, điều này gây khó
khăn cho khách hàng khi đến vay không có tài sản bảo đảm như ngân hàng yêu cầu.
Khi thực hiện bảo đảm bằng tài sản, thì khâu định giá tài sản bảo đảm có tính chất
quyết định đến giá trị khoản vay, mức độ an toàn của tài sản bảo đảm. Để xác định được
chính xác giá trị thực cúa tài sản bảo đảm tại thời điểm thực hiện hợp đồng cần phải có
những nhà chuyên môn về lĩnh vực tài sản đó. Nhưng tại chi nhánh hiện vẫn chưa được sự
giúp đỡ tích cực của cơ quan chuyên môn nào về định giá tài sản, nên mọi quyết định phụ
thuộc vào trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng. Trong khi đó cán bộ tín dụng không
thể nào nắm bắt được hết tất cả các thông tin về thị trường, những thông số kỹ thuật, tính
chất đặc trưng của từng loại tài sản, nên việc định giá trị tài sản bảo đảm gặp rất nhiều khó
khăn và thường căn cứ vào mức độ trung bình của thị trường. Để an toàn các ngân hàng
thường hạ thấp giá trị thực tế của tài sản và cho vay với biên độ giao động lớn. Do đó giá
trị của khoản vay bị giảm đi, gây ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của khách hàng, giảm
hiệu quả của bảo đảm tiền vay.
Theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP, việc yêu cầu chứng thực, chứng nhận của cơ quan
công chứng Nhà nước hoặc UBND cấp có thẩm quyền trên hợp đồng bảo đảm chỉ những
trường hợp nhất thiết mới cần như việc thế chấp, cầm cố tài sản, bảo đảm tiền vay bằng
bảo lãnh. Còn các trường hợp khác sẽ theo sự thoả thuận giữa Giám đốc chi nhánh và
khách hàng có cần công chứng, chứng thực hay không. Tuy nhiên, tại chi nhánh Láng Hạ,
hiện nay yêu cầu tất cả các hợp đồng giao dịch bảo đảm đều phải được công chứng, chứng
thực. Trong khi đó thủ tục công chứng hiện nay ở nước ta rất phức tạp, rườm rà, tốn nhiều
chi phí và thời gian, nhất là đối với những hợp đồng bảo đảm có giá trị cao.
Mục đích của việc bảo đảm tiền vay là nhằm thu hồi khoản cho vay của các ngân hàng
một cách an toàn và hiệu quả. Tuy vậy, việc xử lý, phát mại tài sản bảo đảm theo các quy
định của pháp luật rất phức tạp và tốn kém, làm cho mức thu từ tài sản bảo đảm không đủ
để bù đắp tổn thất của chi nhánh như dự kiến ban đầu. Hiện nay, việc xử ý tài sản bảo đảm
để thu hồi nợ theo quy định tại Thông tư 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC

phải thông qua ba khâu là Toà án kinh tế, phòng thi hành án, trung tâm dịch vụ đấu giá,
thời gian để xử lý này rất lâu và rườm rà, làm giảm giá trị tài sản bảo đảm.
 Nguyên nhân của những tồn tại trên.
- Về phía chi nhánh Láng Hạ: Các cán bộ tín dụng của chi nhánh hầu hết còn rất trẻ, mặc
dù có kiến thức nhưng kinh nghiệm công tác còn rất ít, do đó khả năng thẩm định tài sản bảo
đảm, thu thập thông tin khách hàng còn hạn chế. Ngoài ra, cơ sở vật chất để bảo quản tài sản
cũng như bộ phận quản lý tài sản bảo đảm vẫn còn thiếu, chưa khoa học. Cán bộ giám sát tài
sản bảo đảm thế chấp còn thiếu và ít kinh nghiệp, hệ thống kho lưu trữ, bảo quản tài sản cầm
cố chưa được sắp xếp hợp lý, cũng như chưa được quan tâm thích đáng. Ngoài ra do đặc
điểm chính sách tín dụng của hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả bảo đảm tiền vay của chi nhánh. Đó là việc tập trung cho vay các doanh nghiệp Nhà nước
và chủ yếu là cho vay không có bảo đảm bằng tài sản nên các hình thức khác bị hạn chế,
không phát huy được tính chất của nghiệp vụ.
- Sự bất cập, thiếu đồng bộ của các văn bản pháp luật, thiếu thông tư hướng dẫn: Từ khi có
Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay cho đến nay, đã có rất nhiều các văn bản có
liên quan được ban hành để hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ này, nhưng chất lượng các văn
bản này chưa hoàn chỉnh, đồng bộ. Việc sửa đổi, bổ sung chồng chéo, mâu thuẫn với các văn
bản trước, gây khó khăn không chỉ đối với ngân hàng mà cả với khách hàng vay vốn. Theo
các quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay hồ sơ vay vốn, thủ tục bảo đảm tiền vay còn
rườm rà tốn kém thời gian và chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng. Nội dung chủ yếu của
hợp đồng cầm cố thế chấp chưa linh hoạt, nhiều khi gây khó khăn cho các chủ thể. Việc công
chứng, chứng thực hợp đồng cầm cố, thế chấp quá phức tạp. Hiệu lực giao dịch bảo đảm còn
nhiều vấn đề khúc mắt. Việc xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất còn nhiều phức tạp.
Điều kiện tài sản bảo đảm tiền vay chưa rõ ràng, việc định giá tài sản bảo đảm khung giá Nhà
nước quá lạc hậu, không thích ứng với sự biến động của thị trường. Quy định pháp luật về xử
lý tài sản bảo đảm tiền vay quá cứng nhắc, rườm rà… Tất cả chứng tỏ môi trường pháp lý
chưa hoàn thiện và phù hợp đã làm cho hoạt động bảo đảm tiền vay chưa phát huy được hiệu
quả như mong muốn.
- Về phía khách hàng: Khi khách hàng tìm đến với ngân hàng vay vốn là họ đang rất cần sự
đầu tư cho dự án của mình. Tuy nhiên họ cũng phải xem xét trước khi lựa chọn nhà đầu tư

sao cho chi phí bỏ ra là thấp nhất, có được nguồn vốn nhanh và hiệu quả nhất, đồng thời phù
hợp với điều kiện của khách hàng tại thời điểm vay. Nếu các quy định của ngân hàng quá
khắt khe về tài sản bảo đảm hay các thủ tục khác, thì họ có thể chuyển sang các hình thức vay
khác. Khi đó việc sử dụng bảo đảm tiền vay sẽ không đem lại hiệu quả mà còn cản trở ngân
hàng tiếp xúc được với những khách hàng mới. Bên cạnh đó, có khi muốn vay vốn của ngân
hàng, mà tài sản bảo đảm không đủ giá trị hoặc điều kiện tham gia làm tài sản bảo đảm,
khách hàng vẫn cố tình lừa đảo ngân hàng để được vay vốn như mong muốn. Nhiều khi
khách hàng lại cung cấp những thông tin sai sự thật về khả năng tài chính cũng như tình trạng
của tài sản bảo đảm để lừa gạt ngân hàng, làm giảm hiệu quả của bảo đảm tiền vay.
- Ngoài ra, môi trường kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của bảo đảm
tiền vay. Bởi vì bất kỳ một sự thay đổi nào của nền kinh tế, môi trường chính trị, chính sách
kinh tế vĩ mô đều có ảnh hưởng không chỉ đến hoạt động của khách hàng mà còn ảnh hưởng
tới cả ngân hàng, đặc biệt là giá trị của tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải có
dự báo tốt khi thực hiện hợp đồng bảo đảm.
3. Các giải pháp hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay tại chi nhánh NHNN &
PTNT Láng Hạ
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu đã đạt được qua 10 năm xây dựng và trưởng
thành cả mặt tích cực và những tồn tại cần khắc phục, ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công
nhân viên trong chi nhánh Láng Hạ đã đúc rút kinh nghiệm và xây dựng cho chi nhánh
chiến lược kinh doanh cho năm 2007 và những năm tiếp theo để có thể tiếp tục duy trì và
nâng cao thành tích hoạt động hơn nữa. Cụ thể là:
 Mục tiêu phấn đấu chung năm 2007:
Nguồn vốn: 6300 tỷ đồng (tăng 16%) trong đó tiền gửi dân cư chiếm 50% tương đương
3150 tỷ đồng.
Dư nợ 2800 tỷ đồng trong đó tỷ lệ nợ trung dài hạn chiếm 45%, dư nợ cho vay khối
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay tiêu dùng, cầm cố đời sống chiếm 40% tổng dư
nợ.
Tỷ lệ nợ xấu (bao gồm nợ qua hạn, nợ khó có khả năng thu hồi) dưới 3%.
Tỷ lệ thu dịch vụ chiếm 15% tổng thu nhập ròng.
Tài chính: đảm bảo có đủ về tài chính để chi lương cho cán bộ công nhân viên theo quy

định và làm các nghĩa vụ đối với Nhà nước đầy đủ.
 Mục tiêu về bảo đảm tiền vay giai đoạn 2007-2010:
Tăng dần tỷ lệ cho vay có bảo đảm bằng tài sản lên trên 50%.
Mở rộng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đủ điều kiện để
được vay vốn bằng tài sản bảo đảm nhằm nâng dần tỷ lệ này lên.
Trong các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản, tăng dần tỷ trọng cho vay có bảo
đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố.
Để thực hiện được mục tiêu trên chi nhánh Láng Hạ đã xây dựng đề án chiến lược kinh
doanh phù hợp với xu thế phát triển của NHNN & PTNT Việt Nam giai đoạn 2007-2010
trên cơ sở đề án cơ cấu đáp ứng yêu cầu hội nhập của hệ thống ngân hàng, bao gồm các
giải pháp:
3.1. Các giải pháp chung:
* Công tác nguồn vốn: muốn làm tốt công tác phát triển sản phẩm chi nhánh cần phải
tạo ra sự hấp dẫn đối với khách hàng trong quá trình cung cấp sản phẩm tín dụng của mình.
Chi nhánh có thể tổ chức dịch vụ “cung cấp tại nhà”, dịch vụ tư vấn cho khách hàng điều
này giúp khách hàng tiết kiệm được thời gian và chi phí, đồng thời ngân hàng tuy có tốn
thêm chi phí nhưng về lâu dài nó mở rộng quy mô tín dụng của chi nhánh và tăng hiệu quả
hoạt động do thu hút được nhiều khách hàng hơn.
* Công tác tín dụng: mở rộng tín dụng trên cơ sở đảm bảo phù hợp với tốc độ tăng
trưởng nguồn vốn, đảm bảo chất lượng và an toàn hoạt động, cơ cấu vốn hợp lý theo chỉ
đạo của NHNN & PTNT Việt Nam trong từng thời kỳ. Từng bước chuyển đổi cơ cấu đầu
tư, tăng dần tỷ trọng cho vay các DNNQD, tổ chức dân cư; giảm tỷ trọng DNNN. Tăng
trưởng tín dụng phải gắn liền với kiểm tra kiểm soát chặt chẽ đảm bảo có hiệu quả.
* Công tác thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ: Tiếp tục phát triển hoạt động
thanh toán quốc tế, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ đồng thời phát triển nghiệp vụ
thanh toán biên giới thông qua mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng sát khu vực biên
giới như Trung Quốc, Lào, Campuchia...
* Về nghiệp vụ kế toán ngân quỹ: không ngừng cải tiến phong cách giao dịch với khách
hàng, làm tốt công tác tiếp thị tư vấn khách hàng thực hiện đẩy mạnh nối mạng thanh toán
với các đơn vị lớn nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong ngày của các tổ chức kinh tế xã

hội giúp tăng trưởng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của chi nhánh.
* Về công tác tổ chức cán bộ và đào tạo: hoàn thiện cơ cấu tổ chức, chức năng cụ thể
của từng phòng ban, từng đơn vị trực thuộc để nâng cao khả năng tác nghiệp, tránh trồng
chéo, phiền phức cho khách hàng khi đến mở quan hệ. Đẩy mạnh công tác đào tạo và đào
tạo lại đội ngũ cán bộ chi nhánh...
Ngoài ra, chi nhánh cần phải thực hiện tốt công tác kiểm tra kiểm soát, công tác tiếp
thị thông tin tuyên truyền, đẩy mạnh tiến độ ứng dụng công nghệ trong các nghiệp vụ ngân
hàng, xây dựng phong cách giao dịch hiện đại văn minh đối với giao dịch viên để tạo lòng
tin và ấn tượng tốt với khách hàng.
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay tại chi nhánh NHNN &
PTNT Láng Hạ:
3.2.1. Đối với cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Để nâng cao hiệu quả của bảo đảm tiền vay có rất nhiều các giải pháp, trong phần này
trình bày những giải pháp tập trung chủ yếu vào việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng
của tài sản bảo đảm tại chi nhánh Láng Hạ:
- Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng định giá tài sản bảo đảm. Bởi vì việc định giá tài
sản bảo đảm là cơ sở để ngân hàng xác định mức cho vay tối đa và tính toán khả năng thu
nợ vay trong trường hợp buộc phải xử lý tài sản bảo đảm. Chúng ta đã biết một trong
những hạn chế của chi nhánh là việc định giá tài sản bảo đảm chủ yếu dựa vào sự đánh giá
chủ quan của các cán bộ tín dụng, nên tính chính xác còn hạn chế, nếu gặp rủi ro thì giá trị
thanh lý của tài sản bảo đảm có thể không đủ thu hồi nợ gốc và lãi. Do vậy, chi nhánh cần
chú trọng nhiều đến việc định giá tài sản bảo đảm bằng việc: xây dựng một số tiêu thức
định giá tài sản bảo đảm dựa trên những thông tin xác thực có căn cứ khoa học, lập ra hội
đồng định giá tài sản bảo đảm để có quyết định chính xác hơn, công tác thu thập thông tin
về tài sản bảo đảm phải nhanh và chính xác, phải dự tính được mức độ rủi ro để xác định
giá trị của tài sản bảo đảm.
- Thứ hai, chi nhánh cần đa dạng hoá các tài sản bảo đảm. Trong môi trường cạnh tranh
hiện nay, nhu cầu vốn của khách hàng là rất lớn nhưng thị trường vốn cũng rất sẵn để cho
vay đối với những khách hàng đủ điều kiện. Do vậy, để khách hàng dễ tiếp cận với chi
nhánh khi có nhu cầu vay vốn, trước hết danh mục tài sản bảo đảm của chi nhánh cần

phong phú, phù hợp với khả năng của khách hàng trên cơ sở những quy định của pháp luật.
- Thứ ba, chi nhánh phải thường xuyên đánh giá lại giá trị của tài sản bảo đảm. Do giá
trị tài sản bảo đảm chính là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng, nên sự biến động giá trị
của tài sản bảo đảm có ảnh hưởng rất lớn đến sự an toàn của khoản vay. Với sự phát triển
bùng nổ của nền kinh tế như hiện nay, giá trị các tài sản có sự biến động rất lớn theo từng
thời điểm, một số tài sản lại có sự hao mòn vô hình, khó xác định được mức khấu hao, gây
khó khăn cho việc định giá. Do đó, chi nhánh phải thường xuyên đánh giá lại tài sản bảo
đảm để xác định được giá trị thực tế của tài sản mà mình đang nắm giữ, để đề xuất những
giải pháp thích hợp nhằm hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra.
- Thứ tư, chi nhánh cần nâng cao hiệu quả công tác xử lý tài sản bảo đảm. Khi đến hạn
mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối
với TCTD thì tài sản bảo đảm tiền vay được xử lý để thu hồi nợ. Tuy nhiên trên thực tế
việc xử lý tài sản gặp rất nhiều khó khăn, liên quan đến nhiều tổ chức cũng như được sự
điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật. Nhiều trường hợp công tác xử lý tài sản bảo đảm
gặp khó khăn về thủ tục pháp lý, hoặc chủ tài sản không chịu giao tài sản cho ngân hàng xử
lý như đã cam kết, ngân hàng không được sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng trong việc
thu hồi tài sản bảo đảm… Bên cạnh đó việc phát mại tài sản có khi phải tốn rất nhiều chi
phí, có khi không có thị trường tiêu thụ làm giảm giá trị tài sản bảo đảm, không đủ bù đắp
giá trị khoản vay. Do đó chi nhánh cần phải thực hiện tốt khâu xử lý tài sản bảo đảm thì
mới đạt mục đích của bảo đảm tiền vay.
3.2.2. Đối với cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
Tại chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ, hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản hiện nay chiếm tỷ trọng rất lớn (trên 50%), đây là hình thức cấp tín dụng có tỷ lệ rủi ro
cao. Do vậy để khoản vay cấp cho khách hàng trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản
trở về với ngân hàng một cách an toàn, thì chi nhánh cần thực hiện các giải pháp sau:
- Thứ nhất, chi nhánh lựa chọn khách hàng thích hợp để cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản. Bất cứ ngân hàng nào khi quyết định cho khách hàng vay vốn không có bảo
đảm bằng tài sản bằng tài sản cũng cân nhắc rất kỹ, vì nó tiềm ẩn rủi ro rất cao. Nhưng
không phải với khách hàng nào ngân hàng cũng yêu cầu phải có tài sản bảo đảm thì mới
cho vay, vì nếu áp dụng quá cứng nhắc nguyên tắc này có thể dẫn đến tình trạng đông cứng

vốn của ngân hàng, và ngân hàng mất đi những khách hàng tiềm năng. Tại chi nhánh, tỷ lệ
này chiếm phần lớn nhưng chủ yếu là cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước, cho vay
theo chỉ định của Chính phủ, các thành phần khác hầu như không được áp dụng biện pháp
này. Do vậy để phát triển bền vững trong dài hạn, chi nhánh cần có sự điều chỉnh giảm dần
tỷ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời tăng dần tỷ lệ cho vay đối với
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có uy tín trên thị trường và kinh doanh có hiệu quả. Để
thực hiện được điều này thì chi nhánh Láng Hạ cần phải xây dựng được hệ thống chỉ tiêu
đánh giá, phân loại khách hàng cụ thể, phù hợp với tính chất hoạt động của chi nhánh. Chi
nhánh có thể tham khảo cuốn “sổ tay tín dụng NHNN & PTNT Việt Nam”, đây được coi là
cẩm nang tín dụng hướng dẫn cho cán bộ tín dụng thực hiện các khâu trong quá trình cho
khách hàng vay khá đầy đủ và chi tiết. Từ đó có thể quyết định xem loại khách hàng nào có
thể được xem xét để áp dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
- Thứ hai, chi nhánh cần nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, bên bảo lãnh của
cán bộ tín dụng. Theo quy trình bảo đảm tiền vay, thẩm định khách hàng là khâu đầu tiên.
Để biết được thông tin mà khách hàng cung cấp có xác thực hay không, ngân hàng cần
thiết phải thẩm định khách hàng. Thẩm định khách hàng đó là việc thu thập các thông tin
về năng lực tài chính của khách hàng, năng lực dân sự, tư cách đạo đức, các mối quan hệ
của khách hàng với đối tác, bạn hàng… để từ đó ngân hàng có thể phân loại được khách
hàng chính xác hơn, ra quyết định hạn mức cho vay là bao nhiêu, nên áp dụng hình thức
bảo đảm tiền vay nào trên cơ sở đã dự tính mức rủi ro của tài sản bảo đảm…Để làm được
điều này, chi nhánh cần có chính sách trọng dụng những cán bộ tín dụng đủ tài năng
chuyên môn, có kinh nghiệm và có đạo đức để có thể xử lý thông tin một cách nhanh nhạy
và chính xác.
Bên cạnh đó chi nhánh cần phải thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng thêm
nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng của chi nhánh. Đồng thời, trong gian
đoạn hiện nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, việc ứng dụng các công nghệ vào
nghiệp vụ ngân hàng đã làm đơn giản đi rất nhiều các thủ tục rườm rà, phức tạp kết nối
giữa khách hàng và ngân hàng một cách trực tiếp với chi phí thấp nhất. Việc đổi mới công
nghệ ngân hàng không những nâng cao chất lượng quản lý nội bộ ngân hàng, chất lượng
dịch vụ của ngân hàng mà còn giúp cho ngân hàng có thể kiểm tra, giám sát, rà soát, quản

lý các loại tài sản bảo đảm, xác nhận thông tin khách hàng một cách nhanh chóng nhất.
Như vậy, với sự giúp đỡ của công nghệ thông tin, việc cập nhật các phần mềm ứng dụng
mới trong quản lý ngân hàng, triển khai áp dụng một cách đồng bộ, thống nhất, giúp toàn
bộ hoạt động của chi nhánh được thông suốt, nhanh chóng và an toàn hiệu quả…
II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay tại chi nhánh
NHNN & PTNT Láng Hạ.
1. Kiến nghị với Nhà nước, các bộ ngành.
Trên cơ sở tìm hiểu những mặt đã làm được và những tồn tại cần khắc phục trong hoạt
động bảo đảm tiền vay của một chi nhánh trong hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam, em
xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước và các bộ ngành nhằm hoàn thiện
hoạt động bảo đảm tiền vay như sau:
 Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, bảo đảm tính đầy đủ,
thống nhất và nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động bảo đảm
tiền vay của ngân hàng.

×