Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.86 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc giải quyết bất bình

7

đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị
1.1. Các khái niệm và thước đo bất bình đẳng

7

1.1.1. Khái niệm về thu nhập và các hình thức của thu nhập

7

1.1.2. Khái niệm về công bằng và bất bình đẳng xã hội trong phân

9

phối thu nhập
1.1.2.1. Khái niệm về công bằng và bất bình đẳng thu nhập nói chung

9

1.1.2.2. Khái niệm và thước đo bất bình đẳng thu nhập giữa nông

12



thôn và thành thị
1.2. Tầm quan trọng của việc giải quyết bất bình đẳng thu nhập giữa

14

nông thôn và thành thị
1.3. Các yếu tố tác động đến bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn

17

và thành thị
1.3.1. Các lý do gây ra sự bất bình đẳng thu nhập nói chung trong

17

nền kinh tế thị trường
1.3.2. Nguyên nhân và các yếu tố chi phối bất bình đẳng thu nhập
giữa nông thôn và thành thị

4

20


1.4. Vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng

21

thu nhập giữa nông thôn và thành thị

1.5. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa nông

23

thôn và thành thị ở trên thế giới
1.5.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

23

1.5.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản

32

Chương 2: Thực trạng về bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn

34

và thành thị của Việt Nam trong thời gian qua
2.1. Thực trạng về khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị

34

trong quá trình đổi mới qua các chỉ số
2.1.1. Động thái thu nhập của người dân ở nông thôn và thành thị

34

2.1.2. Khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị qua các số

37


liệu thống kê hiện hành
2.1.3. Khoảng cách thực tế về thu nhập giữa nông thôn và thành thị

46

2.2. Đánh giá chung bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành

54

thị ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Mức độ bất bình đẳng và xu hướng của nó

54

2.2.2. Các hệ quả của bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và

56

thành thị
2.2.3. Nguyên nhân của bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị

5

61


Chương 3: Các giải pháp cơ bản để thực hiện giải quyết bất bình


67

đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị
3.1. Bối cảnh kinh tế chung và tác động của nó đến vấn đề bất bình

67

đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị
3.1.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế

67

3.1.2. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

70

3.2. Các quan điểm xử lý vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa nông

74

thôn và thành thị
3.2.1. Từng bước bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển giữa

74

nông thôn và thành thị
3.2.2. Tăng trưởng và phát triển bền vững làm cơ sở để giải quyết

75


vấn đề bất bình đẳng
3.2.3. Quan điểm hỗ trợ các nhóm xã hội yếu thế, đặc biệt ở nông

77

thôn cũng như dân nghèo thành thị
3.3. Các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề bất bình đẳng về thu

79

nhập giữa nông thôn và thành thị ở nước ta hiện nay
KẾT LUẬN

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

93

6


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng
Bảng 2.1

Nội dung
Thu nhập, chi tiêu, tích lũy bình quân đầu người


Trang
35

một tháng theo giá thực tế của cả nước và phân theo
thành thị, nông thôn
Bảng 2.2

Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng theo giá thực 39
tế phân theo 5 nhóm thu nhập

Bảng 2.3

Cơ cấu và tỷ lệ chi tiêu bình quân đầu người 1 tháng 43
theo giá thực tế

Bảng 2.4

Tỷ lệ hộ nghèo

45

Bảng 2.5

Dân số trung bình phân theo thành thị, nông thôn

57

7



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế, công bằng xã hội vừa là mục tiêu,
vừa là động lực mà mọi nền kinh tế hướng tới. Nó đảm bảo cho sự phát triển
hài hòa, ổn định và bền vững của nền kinh tế, không gây ra các bức xúc do
bất bình đẳng đưa lại. Trong điều kiện của Việt Nam, công bằng xã hội còn là
định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa
của ta so với các chế độ khác.
Việc Việt Nam tiến hành đổi mới và lựa chọn con đường phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn phù hợp
với xu hướng phát triển khách quan của thời đại. Thực tiễn đổi mới cho thấy
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trong đó nền kinh tế đạt
được tốc độ tăng trưởng khá cao, trong một thời gian dài. Kết quả là tổng sản
phẩm quốc dân, tích lũy nội bộ trong nền kinh tế tăng cao, đến nay đã đáp
ứng được nhu cầu cần thiết của nhân dân, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân lao động được cải thiện rõ rệt. Tăng trưởng kinh tế khá toàn diện
trong suốt hai thập kỷ đã tạo điều kiện vật chất để đất nước giải quyết tốt hơn
các vấn đề xã hội, thực hiện phúc lợi đối với người có công với đất nước, thực
hiện tốt chiến lược xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng,
phát triển kinh tế ở nước ta cũng bộc lộ nhiều bất cập: ô nhiễm môi trường,
gia tăng các biểu hiện làm giàu bất chính như tham nhũng, buôn lậu, làm ăn
phi pháp có xu hướng tăng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng
kinh tế - thực hiện công bằng xã hội. Tỷ lệ đói nghèo tập trung cao ở bộ phận
dân cư vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, miền núi, sự bất bình đẳng
xã hội, chênh lệch về mức sống, về y tế, văn hóa, giáo dục, sự phân hóa thu
nhập giữa các vùng miền, các ngành, các lĩnh vực ngày càng “doãng ra”.

8



Trong số đó, phải kể đến sự bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành
thị.
Thật vậy, tuy quá trình đổi mới đã tạo nên những thay đổi không nhỏ
về các mặt kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận
người dân được cải thiện, song khu vực nông thôn vẫn là nơi chịu nhiều thiệt
thòi và vẫn là khu vực chậm phát triển so với khu vực thành thị. Thu nhập của
người dân nông thôn tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn có khoảng cách khá
xa so với khu vực thành thị, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn. Nhiều hộ gia đình ở nông thôn tuy đã thoát khỏi diện đói nghèo,
nhưng thực tế thu nhập cũng chỉ cao hơn mức chuẩn nghèo đói không nhiều,
khả năng tái nghèo cao. Sự bất bình đẳng trong thu nhập giữa nông thôn và
thành thị kéo theo một loạt các vấn đề khó khăn về kinh tế - xã hội cần phải
giải quyết như gây bức xúc trong xã hội, sự di cư lao động từ nông thôn ra
thành thị để tìm kiếm cơ hội việc làm có thu nhập cao. Thu nhập thấp ở nông
thôn kéo theo tích lũy, đầu tư phát triển thấp, trong khi đầu tư ở khu vực
thành thị cao gây mất cân đối trong đầu tư càng tạo ra mất bình đẳng giữa khu
vực nông thôn và thành thị.
Vì vậy, việc phân tích rõ thực trạng bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập giữa nông thôn và thành thị để từ đó đưa ra các giải pháp thích ứng là
một công việc có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đó chính là lý do mà
vấn đề “Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt Nam
hiện nay” được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình thể hiện dưới các sách, bài báo viết về vấn đề
công bằng và bất bình đẳng xã hội nói chung trong nền kinh tế thị trường như
đề tài “Quan điểm và giải pháp bảo đảm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và

9



tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta” do GS.TS Hoàng Đức Thân viết, đề cập
đến hệ thống lý luận, thực trạng và giải pháp để thực hiện mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta. Phân tích kinh nghiệm thế
giới về giải quyết công bằng xã hội gắn với tăng trưởng kinh tế, Trung tâm
Khoa học xã hội nhân văn, Viện Kinh tế thế giới có đề tài: Tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội ở một số nước Châu Á và Việt Nam.
Đi vào vấn đề công bằng trong phân phối thu nhập, đặc biệt đi vào
nghiên cứu bất bình đẳng thu nhập giữa các vùng miền, giữa nông thôn và
thành thị nói riêng thì có thể kể đến một số bài viết, cuốn sách như: Cuốn sách
Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát
triển của TS Chu Tiến Quang (chủ biên) và ThS Lưu Đức Khải, nhà xuất bản
Chính trị quốc gia năm 2009. Cuốn sách Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Việt Nam – hôm nay và mai sau của Đặng Kim Sơn, nhà xuất bản Chính trị
quốc gia năm 2008. Hoặc một bài viết khác là: ”Về chênh lệch thu nhập vùng
và giữa thành thị - nông thôn trong kinh tế Việt Nam” của GS TS Nguyễn
Mạnh Hùng tại trang Web />Bài “Tổng thu nhập một tháng của nông dân” của tác giả Đoàn Dũng trên
trang

Web

/>
nhap- mot -thang-cua-nong-dan.
Tổng hợp các bài viết, quan điểm trên có thể thấy được sự bất bình
đẳng về thu nhập của người dân nông thôn và thành thị Việt Nam là rõ nét.
Thu nhập của người dân ở nông thôn dù ngày càng cao, đời sống vật chất và
tinh thần của người dân được cải thiện nhưng vẫn không theo kịp với thành
thị và khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ngày càng lớn. Các bài viết
trước đây cũng đã nêu lên được một số thực trạng, bài học kinh nghiệm từ
thực tiễn xử lý sự bất bình đẳng về thu nhập ở nông thôn và thành thị ở một số


10


nước trên thế giới, phân tích và đưa ra được một số thành công, hạn chế và
nguyên nhân, giải pháp để thực hiện thu hẹp khoảng cách này, số liệu và thời
gian phân tích chủ yếu từ khoảng năm 1996 đến nay.
Tuy nhiên gần như chưa có một công trình “dài hơi”, nghiên cứu một
cách đầy đủ, khoa học và hệ thống về sự bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị ở Việt Nam.
Luận văn “Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt
Nam” trân trọng kế thừa, tiếp thu các thành quả của các quan điểm, bài viết,
các báo cáo tổng kết về bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở
Việt Nam cũng như trên một vùng miền cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm làm rõ thực trạng bất bình đẳng thu nhập giữa nông
thôn và thành thị để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm thu hẹp khoảng
cách về thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số khía cạnh lý thuyết có liên quan đến vấn đề bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập, đặc biệt là giữa các vùng miền, giữa
nông thôn và thành thị.
- Phân tích, đánh giá thực trạng bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn
và thành thị ở Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tìm hiểu, lý giải các yếu tố, các nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng
về thu nhập này.
- Đề xuất các giải pháp để đảm bảo thu nhập giữa nông thôn và thành
thị được công bằng hơn.

11



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề bất bình đẳng thu nhập
giữa ở nông thôn và thành thị trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu bất bình đẳng giữa nông thôn và
thành thị trong phạm vi cả nước. Các số liệu báo cáo thu nhập nông thôn và
thành thị được thu thập và sử dụng phù hợp với các quy định thống kê hiện
hành.
- Thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình về thu nhập của
dân cư chủ yếu trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa khoảng thời gian từ năm 1996 đến nay.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu chủ yếu
- Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt
Nam; các Nghị quyết Trung ương; các chương trình, chính sách và các báo
cáo tổng kết của Đảng, Nhà nước về bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn
và thành thị.
- Các số liệu thống kê của Tổng cục thống kê đặc biệt là các báo cáo,
khảo sát về thu nhập của hộ gia đình Việt Nam.
Nguồn tư liệu chủ yếu được khai thác trên các sách, báo chí in và điện
tử trên mạng Internet và thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội.

12


5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong luận văn,
tác giải chú trọng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng
hợp, quy nạp, diễn dịch và áp dụng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
như khảo sát, đánh giá, tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ bức tranh về bất bình đẳng kinh tế, đặc biệt là về thu
nhập giữa nông thôn và thành thị và các hệ quả kinh tế - xã hội của sự bất
bình đẳng đó ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề bất bình đẳng thu nhập ở
nông thôn và thành thị trong thời gian tới, từ đó thu hẹp khoảng cách giữa
nông thôn và thành thị.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu 3 chương là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc giải quyết bất bình đẳng thu nhập giữa
nông thôn và thành thị
Chương 2: Thực trạng về bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị của Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3: Các giải pháp cơ bản để thực hiện giải quyết bất bình đẳng
thu nhập giữa nông thôn và thành thị

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT BẤT
BÌNH ĐẲNG THU NHẬP GIỮA NÔNG THÔN VÀ THÀNH THỊ

1.1. Các khái niệm và thước đo bất bình đẳng

1.1.1. Khái niệm về thu nhập và các hình thức của thu nhập
Định nghĩa thu nhập của Haigh (1912) và Simmons (1938) thường
được xem là định nghĩa bao hàm nhất của thu nhập: Thu nhập của một cá
nhân hay hộ gia đình quy ra tiền trong một khoảng thời gian nhất định là số
tiền chi cho tiêu dùng cộng với sự thay đổi giá trị của tài sản tính bằng tiền
trong khoảng thời gian đó:
Thu nhập = Tiêu dùng + Sự thay đổi giá trị của tài sản
Định nghĩa này quá tổng quát và trừu tượng, rất khó áp dụng trong các
điều tra thực tế. Vì mục đích ứng dụng, chúng ta cần khai triển định nghĩa này
thêm. Trên lý thuyết, các nhà kinh tế phân biệt các loại thu nhập sau đây:
Thu nhập bằng tiền (money income) là luồng tiền mà một cá nhân hay
gia đình nhận được từ mọi nguồn như lương, lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức
từ vốn tài chính như tiền lãi, lãi cổ phần, lãi vốn (capital gains), chuyển giao,
v.v.
Thu nhập tiền tệ hóa (monetized income) bao gồm thu nhập bằng tiền
cộng với giá trị tính bằng tiền của trữ lượng hàng hóa lâu bền của tư nhân
(như nhà cửa, xe hơi, quần áo, v.v) và của công (đường xá, cống rãnh, thư
viện, v.v) cộng với giá trị tính bằng tiền của vốn xã hội (như luật lệ cai trị,
cách hành xử xã hội, v.v);

14


Thu nhập toàn (full income) bằng thu nhập tiền tệ hóa cộng với giá trị
thời giờ ngoài thị trường của các thành viên trong gia đình.
Thu nhập thực toàn (full, real income) bằng thu nhập toàn điều chỉnh
cho trình độ kỹ thuật tương đối của gia đình (như tài nấu ăn của các bà nội
trợ, số người trong nhà, v.v).
Trên thực tế, tìm kiếm dữ kiện cho thu nhập tiền tệ hoá, thu nhập toàn,
v.v rất khó khăn. Vì thế các nhà kinh tế thường chỉ tập trung vào thu nhập

bằng tiền.
Trong các cuộc tổng điều tra của Việt Nam trong đó có điều tra về thu
nhập, thì thu nhập được xác định là số tiền kiếm được từ việc làm, bằng tiền
mặt hoặc bằng hiện vật.
Ngoài khái niệm về thu nhập ở trên, chúng ta cần hiểu thêm về GDP: là
giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất
ra trong một quốc gia trong một thời kỳ nhất định, thường tính bằng một năm.
Việc tính toán chỉ tiêu GDP ở Việt Nam hoàn toàn từ phía cung, tức là
cộng tất cả giá trị gia tăng của các đơn vị kinh tế là thường trú trong nước.
Chẳng hạn doanh nghiệp FDI khai thác tài nguyên trong nước và toàn bộ giá
trị gia tăng của doanh nghiệp này được tính vào GDP, mặc dù trong đó có cả
phần thặng dư của nước khác.
Đơn vị đo lường phân phối thu nhập
Đơn vị đo lường về phân phối thu nhập có thể là cá nhân, gia đình hay
hộ.
Dùng cá nhân làm đơn vị thu nhập rất tiện lợi vì nhiều lý do: định nghĩa
rõ ràng, số liệu sẵn sàng, cá nhân thường cũng là đơn vị tính thuế, v.v. Tuy
nhiên, dùng cá nhân làm đơn vị tính thu nhập cũng có nhiều bất lợi. Có rất

15


nhiều cá nhân trong xã hội không có hay có ít thu nhập, ví dụ như trẻ em,
người già, các bà nội trợ, những người bệnh tật, vv. Như vậy, nếu dùng cá
nhân làm đơn vị đo lường thì có rất nhiều thành viên của xã hội sẽ bị loại bỏ
trong phân phối thu nhập và do đó chúng ta sẽ không thấy một bức tranh toàn
cảnh cho xã hội. Hơn nữa, trong thực tế, con người sống thành gia đình hay
hộ, người lớn chia sẻ thu nhập với con cái, và đôi khi cả với các thành viên
khác trong hộ (không nhất thiết có liên hệ gia đình). Vì vậy, nếu dùng hộ làm
đơn vị để phân tích phân phối thu nhập sẽ khắc phục được một số nhược điểm

trên.
1.1.2. Khái niệm về công bằng và bất bình đẳng xã hội trong phân
phối thu nhập
1.1.2.1. Khái niệm về công bằng và bất bình đẳng thu nhập nói chung
- Các nhà kinh tế học phương Tây thường tiếp cận khái niệm công bằng
xã hội dưới hai góc độ:
+ Công bằng xã hội theo chiều ngang: nghĩa là đối xử như nhau đối với
những cá nhân có hoàn cảnh như nhau và đóng góp như nhau.
+ Công bằng xã hội theo chiều dọc: nghĩa là đối xử khác nhau đối với
những người có điều kiện khác nhau như khác biệt bẩm sinh hay có những
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
- Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam đã nêu ra các khái niệm về bình
đẳng, công bằng và bất bình đẳng như sau:
+ Bình đẳng là được đối xử như nhau về các mặt chính trị, xã hội, kinh
tế, văn hóa… không phân biệt thành phần và địa vị xã hội, trong đó trước tiên
và cơ bản nhất là bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng đã được quan niệm và
thực hiện một cách khác nhau qua các thời kì lịch sử với các chế độ chính trị

16


xã hội khác nhau. Sự bình đẳng toàn diện và triệt để chỉ có thể thực hiện khi
nào xoá bỏ được tình trạng không bình đẳng trong quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, xoá bỏ được cơ sở của sự bóc lột giai cấp và áp bức dân tộc, xoá
bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi trong xã hội.
+ Công bằng là khái niệm về ý thức đạo đức và ý thức pháp quyền, chỉ
điều chính đáng, tương ứng với bản chất và quyền con người. Công bằng đòi
hỏi sự tương xứng giữa vai trò của những cá nhân (những giai cấp) với địa vị
xã hội của họ, giữa hành vi với sự đền bù (lao động và thù lao, công và tội,
thưởng và phạt), giữa quyền với nghĩa vụ - không có sự tương xứng trong

những quan hệ ấy là bất công.
+ Bất bình đẳng xã hội là những khác biệt về địa vị xã hội, chủ yếu dựa
trên sự khác biệt về nguồn gốc xã hội, gia đình, giai cấp, lợi ích kinh tế, ảnh
hưởng chính trị, tài sản, giáo dục, tập quán và đạo đức trong một xã hội.
Những tầng lớp giai cấp xã hội khác nhau trong xã hội có được quyền lực, địa
vị chính trị và kinh tế khác nhau, do đó có khả năng chiếm giữ các tỷ lệ thu
nhập khác nhau trong tổng thu nhập xã hội. Điều này đưa tới sự bất bình đẳng
trong xã hội.
Theo giáo sư Trần Văn Thọ: Công bằng xã hội về phương diện kinh tế
không có nghĩa là thành quả phát triển của xã hội được chia đồng đều cho mọi
người. Công bằng trước hết phải được hiểu là sự bình đẳng trong cơ hội, cơ
hội việc làm, cơ hội đầu tư, nghĩa là bình đẳng trong việc tiếp cận với những
cơ hội mà với cố gắng năng lực con người có thể đạt đến một mức sống cao
hơn hiện nay.
Bất bình đẳng kinh tế là một ý niệm chuẩn tắc. Nó mô tả sự sai lệch của
phân phối thu nhập thực tế so với một phân phối thu nhập chuẩn nào đó. Nếu
sự sai lệch càng ít (nhiều) thì mức độ bất bình đẳng càng thấp (cao). Phân

17


phối thu nhập chuẩn thường được suy ra từ quan điểm công bình xã hội mà đa
số người trong xã hội chấp nhận. Ý niệm bất bình đẳng kinh tế hàm ý phán
đoán đạo đức, theo nghĩa bất bình đẳng kinh tế ít (nhiều) là điều tốt
(xấu). Dưới các tiền đề về công bình xã hội, một nhà kinh tế chuẩn tắc sẽ tìm
hiểu nguyên nhân và hậu quả của bất bình đẳng kinh tế, đưa ra một vài đề
xuất để làm giảm mức độ bất bình đẳng kinh tế với mục đích làm tăng phúc
lợi xã hội.
Bất bình đẳng về thu nhập là để chỉ sự chênh lệch về thu nhập giữa các
cá nhân hay nhóm người trong xã hội.

Về sự tồn tại của bất bình đẳng, có quan niệm cho là hiện tượng không
thể nào tránh khỏi vì trong xã hội con người luôn luôn khác nhau về nhu cầu
và tài năng. Quan niệm nữa cho rằng bất bình đẳng là hiện tượng không tránh
khỏi nhưng nó do các nguyên nhân như xã hội có nhiệm vụ này cần thiết hơn
nhiệm vụ khác. Do đó cần những người giỏi nhất để thực hiện nhiệm vụ khó
nhất. Trong điều kiện như vậy, nếu thủ tiêu bất bình đẳng thì sẽ nguy hiểm
cho xã hội.
Khác với quan niệm trên, một số người cho rằng bất bình đẳng chủ yếu
là do cấu trúc của hệ thống xã hội gây nên. Chính sự khác biệt trong vị trí của
các cá nhân trong cơ cấu xã hội gây ra bất bình đẳng về kinh tế.
Bất bình đẳng là một hiện tượng tiêu cực tồn tại trong tất cả các xã hội.
Thách thức đối với việc hoạch định chính sách ở đây là làm thế nào tối thiểu
hoá hiện tượng này trong khi phải tối đa hoá sự phát triển của quốc gia để có
thể phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển của một số nước ở khu vực
trong những thập niên gần đây khẳng định rằng, có thể hạn chế sự gia tăng bất
bình đẳng trong quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh.

18


1.1.2.2. Khái niệm và thước đo bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn
và thành thị.
Chúng ta có thể hiểu bất bình đẳng về thu nhập giữa nông thôn và
thành thị là sự chênh lệch về thu nhập (của các cá nhân hay hộ gia đình) giữa
nông thôn và thành thị.
Đây có thể là chênh lệch tuyệt đối hay chênh lệch về tỷ lệ thu nhập giữa
thu nhập bình quân đầu người hay hộ gia đình của khu vực thành thị so với
nông thôn.
Các thước đo biểu thị bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa
nông thôn và thành thị.

- Hệ số thu nhập bình quân đầu người ở thành thị so với nông thôn:
Thu nhập bình quân đầu người ở thành thị
Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn
Nếu hệ số = 1 : Phản ánh trạng thái bình đẳng cao trong phân phối thu
nhập giữa thành thị và nông thôn.
Trên thực tế hệ số này thường lớn hơn 1. Hệ số càng cao, có xu hướng
gia tăng theo thời gian phản ánh xu hướng bất bình đẳng thu nhập bình quân
đầu người giữa thành thị và nông thôn cao và gia tăng.
- Chênh lệch tuyệt đối về thu nhập bình quân đầu người ở thành thị so
với nông thôn:
Thu nhập bình quân đầu người ở thành thị - Thu nhập bình quân đầu
người ở nông thôn

19


Chênh lệch tuyệt đối phản ánh khoảng cách tuyệt đối về thu nhập bình
quân đầu người ở thành thị và nông thôn. Chênh lệch này càng lớn phản ánh
một sự bất bình đẳng thu nhập nào đó giữa thành thị và nông thôn.
Ngoài ra, để bổ sung và phản ánh, làm rõ thêm sự bất bình đẳng thu
nhập giữa thành thị và nông thôn chúng ta còn sử dụng các thước đo sau:
- So sánh thu nhập giữa thành thị và nông thôn theo các nhóm ngũ vị
phân.
Chia mỗi vùng nông thôn và thành thị theo 5 nhóm dân cư bằng nhau,
và sắp xếp các nhóm theo thứ tự thu nhập bình quân đầu người từ thấp đến
cao gọi là các nhóm ngũ vị phân. Việc so sánh thu nhập bình quân đầu người
của từng nhóm ở nông thôn với nhóm tương ứng ở thành thị phản ánh mức độ
bất bình đằng thu nhập giữa nông thôn và thành thị theo từng nhóm dân cư.
- So sánh chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm 5 thành
thị và nhóm 1 nông thôn. Đây là so sánh thu nhập bình quân đầu người của

nhóm có thu nhập cao nhất ở thành thị so với nhóm có thu nhập thấp nhất ở
nông thôn, phản ánh phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn ở các
“cực thu nhập”. Sự chênh lệch này càng tăng phản ảnh sự bất bình đẳng tăng.
- Tỷ lệ hộ nghèo của thành thị so với nông thôn: Tỷ lệ này cao phản
ánh thu nhập giữa nông thôn và thành thị có khoảng cách nhất định.
- So sánh chi tiêu bình quân chung đầu người ở thành thị và chi tiêu
bình quân chung đầu người ở nông thôn (do thu nhập là nguồn gốc của chi
tiêu, chi tiêu phải dựa trên thu nhập có được, nên việc so sánh chi tiêu cũng
phản ánh sự bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị).
Hoặc đi sâu vào so sánh chi tiêu bình quân đầu người cho các mặt
hàng cụ thể ở thành thị và ở nông thôn: Chi tiêu cho hàng hóa thiết yếu, cho

20


hàng hóa sa sỉ, cho giáo dục, y tế, giải trí… Nếu khoảng cách về chi tiêu của
thành thị và nông thôn cho hàng hóa sa sỉ, giáo dục, y tế, giải trí… càng lớn
thì phản ảnh sự bất bình đẳng thu nhập giữa hai khu vực này càng lớn. Hoặc
tỷ lệ của mức chi cho hàng hóa thiết yếu so với tổng chi, tổng thu nhập càng
lớn cho thấy đời sống càng thấp kém.
- Ngoài ra, để phản ánh sự bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị, chúng ta còn có thể so sánh chênh lệch về tài sản giữa cư dân nông
thôn và thành thị. So sánh tỷ lệ đầu tư vào khu vực nông thôn và đầu tư vào
khu vực thành thị, so sánh tỷ lệ đầu tư của khu vực FDI, đầu tư của tư nhân,
đầu tư của Nhà nước vào từng khu vực nông thôn, thành thị.
1.2. Tầm quan trọng của việc giải quyết bất bình đẳng thu nhập
giữa nông thôn và thành thị
Phát triển bền vững cần hội đủ ba yếu tố:
- Tổng sản phẩm thực chia đầu người gia tăng đều đặn năm này qua
năm khác (nhất là khi nền kinh tế còn trong vòng phát triển).

- Thành quả tăng trưởng được san sẻ tương đối đồng đều và mọi tầng
lớp dân chúng đều có cơ hội bình đẳng như nhau.
- Môi trường thiên nhiên được duy trì thỏa đáng.
Như vậy xem xét đến yếu tố thứ 2, để phát triển bền vững thành quả
tăng trưởng phải được san sẻ tương đối đồng đều, trong đó thu nhập phải
được phân phối công bằng. Nếu không chênh lệch thu nhập sẽ làm giảm mức
tăng trưởng kinh tế, và ngược lại, tăng trưởng kinh tế không có tác động tiêu
cực lên sự thay đổi của mức phân hoá giàu nghèo.
Ngoài ra, một số nhà kinh tế liên kết phân hóa giàu nghèo và bất ổn xã
hội. Bất bình đẳng thu nhập và gia tăng phân hóa giàu nghèo là hiện tượng

21


đang gây nhiều chú ý toàn cầu. Mối liên hệ giữa bất bình đẳng và bất ổn ngày
càng được khẳng định một cách mạnh mẽ hơn.
Bất bình đẳng thu nhập không những góp phần gây ra những hệ lụy xã
hội mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế. Đã có một số
nghiên cứu cho thấy điều này. Ví dụ, trong một nghiên cứu được đón nhận
khá rộng rãi, hai nhà nghiên cứu người Anh (Wilkinson và Pickett) đã đưa ra
những chứng cứ về mối tương quan tỷ lệ thuận giữa bất bình đẳng thu nhập
và nhiều vấn nạn xã hội.
Phân tích số liệu thống kê liên quan đến 23 nước phát triển (từ các
nguồn khả tín như Ngân hàng Thế giới và Liên Hiệp Quốc), Wilkinson và
Pickett đã cho thấy rằng một nước có tỷ lệ bất bình đẳng cao hơn thì thường
phải đối mặt với những vấn nạn xã hội với tỷ lệ cao hơn cho dù đó là một
nước có GDP bình quân đầu người rất cao (chẳng hạn như Mỹ và
Anh). Ngược lại, ở những nước bình đẳng hơn, như Nhật và Na Uy, thì xã hội
tương đối tốt hơn được thể hiện qua các tiêu chí như tỷ lệ tự tử và phạm tội
thấp trong khi tính di động xã hội và niềm tin giữa người dân trong xã hội cao

hơn.
Bên cạnh đó, các chuyên gia (Berg, Ostry, và Zettelmeyer) của Quỹ
Tiền tệ Quốc tế cũng chỉ ra hệ quả tiêu cực của bất bình đẳng thu nhập đối với
quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế. Phân tích các đợt tăng trưởng
(được định nghĩa bằng khoảng thời gian từ khi nền kinh tế bắt đầu tăng tốc
tăng trưởng cho đến khi nó bắt đầu hạ tốc) của 140 quốc gia, các tác giả đã
kết luận rằng sự phân phối thu nhập là một trong những yếu tố quan trọng
quyết định chiều dài của các đợt tăng trưởng. Các nước ở châu Phi và châu
Mỹ Latinh, những nơi mà có tỷ lệ bất bình đẳng tương đối cao, thường có
những đợt tăng trưởng ngắn hơn so với những nơi khác. Theo đây thì cải thiện

22


tỷ lệ bất bình đẳng là một yếu tố cần thiết nếu một nước muốn có một khoảng
thời gian tăng truởng dài hơn.
Trong xu hướng thúc đẩy phát triển kinh tế theo hướng bền vững và
công bằng hiện nay, vấn đề bất bình đẳng thu nhập càng cần được phải được
giải quyết. Lý do là vì một xã hội với tỷ lệ bất bình đẳng cao không những tạo
ra sự bức xúc trong dân chúng mà còn cản trở sự tích lũy vốn con người, cản
trở quá trình xây dựng một tầng lớp trung lưu to lớn và vững mạnh có khả
năng dịch chuyển xã hội một cách tích cực.
Hơn nữa, bất bình đẳng thu nhập là một nguyên nhân quan trọng đưa
đến bất bình đẳng về cơ hội. Tình trạng này xảy ra khi một bộ phận người dân
trong xã hội không có khả năng để tiếp cận các dịch vụ và hàng hóa cốt yếu
nhằm nâng cao kiến thức và sức khỏe của mình để có thể có cơ hội thăng tiến
trong xã hội. Tình trạng bất bình đẳng cơ hội cao cũng sẽ góp phần duy trì bất
bình đẳng thu nhập, kéo theo những hệ lụy như đã đề cập.
Khoảng cách giàu nghèo quá lớn đem lại rất nhiều tác động tiêu cực
như đói nghèo, tệ nạn xã hội, và quan trọng hơn cả là về lâu dài một phần lớn

dân số sẽ bị thiệt thòi về mảng giáo dục và đào tạo.
Như vậy việc giải quyết sự bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị sẽ mang lại sự ổn định xã hội ở từng khu vực nông thôn và thành thị,
ảnh hưởng tích cực tới sự tăng trưởng kinh tế.
Từ quan niệm về sự tồn tại của bất bình đẳng tại mục 1.1.2.1, có thể
thấy sự tồn tại của bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị là điều
khó tránh khỏi trong điều kiện của chúng ta hiện nay. Nhưng chúng ta có thể
hạn chế sự gia tăng bất bình đẳng trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên một khía cạnh khác không thể phủ nhận nếu bất bình đẳng thu nhập
giữa nông thôn và thành thị ở mức độ nào đó sẽ lại tạo ra sự phát triển kinh tế,

23


là động lực cần thiết cho sự phát triển xã hội, nó tạo ra sự nỗ lực phấn đấu của
mỗi con người, tạo điều kiện cho sự tập chung nhân lực, tài nguyên khan
hiếm vào một số vùng để phát triển sản xuất lớn… Nhưng bất bình đẳng ở
mức độ nào là tốt thì cũng chưa có số liệu chính xác, và việc cần phải tạo ra
sự bất bình đẳng này chỉ được nêu trên lý thuyết do chúng ta không phải tạo
ra sự bất bình đẳng thì thực tế sự bất bình đẳng này ai cũng cảm nhận đang
tồn tại một cách rõ ràng, tác động lớn không tốt đến sự phát triển của xã hội.
Vì vậy nói chung chúng ta chỉ xét đến cách làm để giảm bớt sự bất bình đẳng
về thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
1.3. Các yếu tố tác động đến bất bình đẳng thu nhập giữa nông
thôn và thành thị
1.3.1. Các lý do gây ra sự bất bình đẳng thu nhập nói chung trong
nền kinh tế thị trường
Dưới tác động của cơ chế thị trường, quan hệ phân phối cần được bảo
đảm tiền đề kinh tế - kỹ thuật để khuyến khích làm giàu theo pháp luật đối với
mọi chủ thể tham gia thị trường. Những cá nhân, cộng đồng, tập thể, doanh

nghiệp có đủ năng lực và nguồn lực hợp pháp được phép làm giàu hợp pháp
để tối ưu hóa lợi ích cá nhân. Đó chính là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy bên cạnh sự phân phối thông qua các quỹ an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội thì chủ yếu do sự đóng góp của mỗi thành viên khác nhau về
sức lao động, vốn, cùng với hiệu quả kinh tế khác nhau dẫn tới sự phân phối
thu nhập khác nhau; những người có cố gắng trong lao động, đóng góp nhiều
vốn, đạt được hiện quả kinh tế cao sẽ mang lại thu nhập cao.
- Nguyên nhân có nguồn gốc từ tài sản
+ Do vốn góp: người có nhiều vốn đầu tư khác nhau, khi chia lợi nhuận
được hưởng khác nhau theo phần vốn đóng góp.

24


+ Hành vi tiêu dùng: mức độ tiêu dùng và tiết kiệm của mỗi cá nhân sẽ
ảnh hưởng lớn đến của cải tích lũy được.
+ Do kết quả kinh doanh: đối với các cá nhân đầu tư kinh doanh chấp
nhận rủi ro có kết quả kinh doanh khác nhau tạo ra sự khác biệt về tài sản của
họ.
- Nguyên nhân có nguồn gốc từ lao động
+ Do khả năng lao động, xu hướng chung của những người có sức
khỏe, có khát vọng, có trí tuệ, có trình độ học vấn cao sẽ nhận được mức thu
nhập cao hơn.
+ Do cường độ làm việc: khi cố định các yếu tố khác nếu cường độ làm
việc, mức thu nhập sẽ tăng và ngược lại.
+ Khác nhau về nghề nghiệp, tính chất công việc: đây là yếu tố quan
trọng quyết định sự khác biệt về tiền lương. Thông thường công việc phổ
thông, ít kỹ năng được trả lương thấp hơn công chuyên môn có hàm lượng
chất xám cao.
- Hiệu quả kinh tế: bên cạnh việc có nhiều người đạt hiệu quả kinh tế

cao, thu được lợi nhuận lớn do tài giỏi, biết làm kinh tế, thì cũng có mội số
người khác do may mắn nên thu được lợi lớn hoặc gặp rủi ro, kém may mắn
mà không có hiệu quả kinh tế, làm ăn thua lỗ.
- Những cơ hội trong cuộc sống: bất bình đẳng về cơ hội cũng đo lường
những kết quả của đầu ra cho mọi thành viên trong xã hội, nhưng có phân biệt
những cá nhân đó thuộc nhóm xã hội nào. Sự chênh lệch về kết quả của đầu
ra giữa các nhóm gọi là bất bình đẳng về cơ hội. Nói cách khác, những hoàn
cảnh khác nhau của mỗi người (như giới tính, màu da, nơi sinh, vùng miền,
nguồn gốc gia đình, các nhóm giai tầng…) đã tạo nên sự thành đạt khác nhau

25


về kinh tế (và cả xã hội, chính trị) của họ, hoặc là chúng tạo nên sự hưởng thụ
và tiếp cận khác nhau đối với các nguồn lực kinh tế (và cả xã hội, văn hóa và
chính trị) ở mỗi người có mỗi hoàn cảnh khác nhau.
Trong xã hội hiện đại, cơ hội là rất quan trọng đối với mỗi người dân.
Cơ hội tiếp cận giáo dục sẽ giúp con người có điều kiện học tập, nâng cao
trình độ, hiểu biết, nhờ học tập đầy đủ, được trang bị kiến thức tốt nên việc
giải quyết các vấn đề trong cuộc sống tốt hơn, dễ dàng xin được một việc làm
có thu nhập cao. Trong khi những người không có điều kiện học tập phải làm
những công việc đơn giản, mang lại thu nhập thấp. Điều đó tạo ra sự chênh
lệch về thu nhập giữa người có cơ hội học tập với người không có cơ hội học.
Hay cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế, việc khám chữa bệnh được kịp thời với chi
phí thấp hơn so với những vùng ở xa không có cơ hội tiếp cận hệ thống y tế.
Nhờ cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế nên được chăm sóc sức khỏe tốt hơn, tiết
kiệm được nhiều thời gian, chi phí, vì vậy có điều kiện đầu tư và lao động tạo
thu nhập hơn so với những người ít có cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế.
1.3.2. Nguyên nhân và các yếu tố chi phối bất bình đẳng thu nhập
giữa nông thôn và thành thị

Ngoài các các nguyên nhân chung như đã đề cập ở mục trên, bất bình
đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị còn do các nguyên nhân sau:
- Việc tập trung đầu tư cao vào các khu vực thành thị và không đầu tư
nhiều vào khu vực nông thôn đã gây ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa 2
khu vực này. Do thành phố, khu vực thành thị là những nơi có nhiều cơ hội
phát triển, cùng với việc đạt hiệu quả kinh tế cao tại những nơi này nên đã
nhận được mức đầu tư lớn hơn vùng nông thôn, mang lại thu nhập cao cho
các khu vực thành thị này.

26


Mức đầu tư công vào nông nghiệp và phát triển nông thôn khá khiêm
tốn, nếu không muốn nói là một nghịch lý lớn khi so với mức đầu tư ồ ạt vào
một số ngành công nghiệp bị thua lỗ. Vì nguồn lực là hữu hạn cho nên khi nó
bị lãng phí ở một thành phần kinh tế thì những thành phần kinh tế khác bị
chèn ép.
- Những nguyên nhân khác như sự phân biệt đối xử trong xã hội do sự
khác biệt về vùng địa lý; ảnh hưởng của rủi ro thiên tai; sự tham nhũng; sự
quan tâm khác nhau của Nhà nước với các vùng miền, khu vực…
Vùng nông thôn đa phần là đồi núi, giao thông không thuận lợi, trong
khi khu vực thành thị phần lớn là đồng bằng, ở vị trí địa lý thuận lợi, thuận
tiện cho việc đi lại, thông thương, điều đó tạo cho khu vực thành thị năng
động hơn so với khu vực nông thôn, kinh tế phát triển, gây nên sự chênh lệch
về thu nhập.
Khu vực nông thôn nơi thành phần kinh tế chủ yếu là nông, lâm, ngư
nghiệp, lĩnh vực này chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết. Ngoài ra, bản thân khu
vực thành thị thường là những nơi được lựa chọn có điều kiện thời tiết, khí
hậu ôn hòa, ít bị ảnh hưởng của thiên tai. Do vậy ảnh hưởng rủi ro của thiên
tai cũng tác động đến sự bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị.

Tài sản của Nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước tập trung chủ yếu ở
các khu đô thị, quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước cùng với tệ
nạn tham nhũng đã làm quyền lợi kinh tế thường rơi vào tay những thành
phần quyền chức hay những người thiếu trách nhiệm với xã hội. Họ là những
người nắm thông tin, lợi dụng quá trình chuyển hoá từ công hữu sang tư hữu
để nắm giữ nhiều cổ phần, cổ phiếu trong các doanh nghiệp, thu vén những
nguồn tài nguyên sẵn có và từ đó họ càng có điều kiện để tích luỹ, làm giàu.

27


Tình trạng mất đất canh tác của người nông dân đã đẩy không ít người
vào cuộc sống khó khăn, không có lối ra. Góp phần không nhỏ gây ra hiện
tượng này là việc thu hồi đất bừa bãi không những làm mất tính hiệu năng
kinh tế mà còn gây ra những bức xúc nghiêm trọng trong xã hội.
- Tình trạng lạm phát cao trong những năm gần đây đã gây đặc biệt khó
khăn cho tầng lớp người dân nghèo. Phần lớn thu nhập của người nghèo được
dùng cho nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu trong khi giá cả
những mặt hàng này tăng nhanh và thu nhập không đuổi kịp đã làm mức sống
thật của nhiều người dân bị sa sút. Vùng nông thôn đã khốn khó thì việc giải
quyết nghèo đói, tăng cao thu nhập càng khó khăn hơn.
- Ngoài ra phải kể đến tập quán sinh hoạt, sự trì trệ tại vùng nông thôn
góp phần kém phát triển tại các vùng này. Vùng nông thôn gắn với nông, lâm,
ngư nghiệp. Kinh tế chính trị Mác - Lê Nin đã chỉ ra sự trì trệ, “bảo thủ” với
tầng lớp nông dân - khu vực nông thôn do gắn với tập quán sinh hoạt của họ.
Kèm theo hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp năng suất lao động thấp, thường
chịu ảnh hưởng nhiều của thiên tai nên hiệu quả kinh tế thấp, thu nhập thấp.
1.4. Vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề bất bình
đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế

là thúc đẩy hiệu quả và sự công bằng. Hầu hết các chính sách đều hoặc nhằm
vào mục tiêu làm cho nền kinh tế tăng trưởng, hoặc làm thay đổi cách thức
phân chia thu nhập tạo ra.
Hiện nay trong khi kinh tế nhà nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo thì các
nguồn vốn lớn tập chung do Nhà nước quản lý. Thêm vào đó là quyền lực của
các cơ quan Nhà nước, vì vậy việc Nhà nước quan tâm tạo điều kiện đầu tư
cho một vùng, một khu vực sẽ có ưu thế vượt trội hơn nếu để thành phần kinh

28


×