Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

mô hình nuôi gà sao ở trường đại học quy nhơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.72 KB, 41 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Hoa lily là một lồi có giá trị kinh tế và giá trị thẩm mỹ cao, ngày càng được
người tiêu dùng ưa chuộng. Hoa lily là một loại hoa đẹp, hiện là một trong số sáu
loài hoa phổ biến và có giá trị nhất (hồng, cúc, phăng, lay ơn, đồng tiền, lily). Lily là
một loài hoa mới phát triển gần đây, nhưng với vẻ đẹp quyến rũ của chúng và hương
thơm thanh nhã nên được xem là một trong những loại hoa ưa chuộng nhất trên thế
giới. Hiện nay có 300 giống khác nhau, chủ yếu phân bố ở vùng ôn đới và hàn đới
(Bắc bán cầu), một số ít ở vùng núi cao nhiệt đới. Hoa lily là cây chịu rét khá, chịu
nóng kém, ưa khí hậu mát ẩm, nhiệt độ thích hợp ban ngày là 20 -250C ban đêm là
120C. Như vậy, khí hậu nhiệt đới nước ta không thuận lợi nhiều cho sự sinh trưởng
và phát triển của hoa lily (trừ một số vùng có khí hậu ơn đới). Đây cũng là những
hạn chế chính trong việc chọn những lồi phù hợp với điều kiện Việt Nam.[7]
Bình Định là tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, điểm cực Bắc với tọa độ: 14 o42'
Bắc, 108o56' Đông, điểm cực Nam với tọa độ: 13o31' Bắc, 108o57' Đơng; chịu ảnh
hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm 270C (tại Quy
Nhơn), và tăng dần từ Tây sang Đơng; lượng mưa trung bình 1750mm, độ ẩm 79%
(Quy Nhơn) và giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, số giờ nắng 2.200 - 2.400
giờ/năm. Bình Định hình thành 3 tiểu vùng sinh thái có điều kiện khí hậu và đất đai
khác nhau. Tiểu vùng sinh thái núi cao nằm ở phía Tây bắc của tỉnh, chịu ảnh
hưởng lớn của khí hậu Tây Ngun, có nền nhiệt độ thấp, lượng mưa và ẩm độ cao
hơn so với đồng bằng (nhiệt độ trung bình tại Vĩnh Sơn 20,1 0C, lượng mưa
2090mm và độ ẩm trung bình 92%).Tiểu vùng trung du, vùng chuyển tiếp giữa
miền núi và đồng bằng, nhưng chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện khí hậu nhiệt đới
rõ rệt. Tiểu vùng đồng bằng có nền nhiệt độ cao, cường độ ánh sáng lớn, lượng
mưa tập trung theo mùa, mang đậm nét khí hậu nhiệt đới.[4]


Qua các nghiên cứu của Viện rau quả Việt Nam, Viện Khoa học Kỹ thuật
Nông Nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ (bộ môn Rau Hoa và Cây cảnh), trường
Đại học Nơng lâm Thái Ngun,…cho thấy có một số vùng đất trong nước và ở


Bình Định có thể phát triển nghề trồng hoa này.
Tuy nhiên, ở Bình Định chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về hoa lily
ngồi cơng trình nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Duyên hải
Nam Trung bộ. Tuy nhiên, việc tìm hiểu ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh
trưởng, phát triển và năng suất hoa lily chưa được quan tâm nghiên cứu. Trên cơ sở
kết quả nghiên cứu xây dựng quy trình cơng nghệ sản xuất hoa lily của bộ môn Rau
Hoa và Cây cảnh (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Duyên hải Nam Trung
bộ), chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh
trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily sorbonne (Lilium regale) ở Bình
Định” nhằm xác định loại phân bón lá thích hợp cho sinh trưởng, phát triển và
năng suất của hoa lily, bổ sung vào quy trình kỹ thuật, góp phần phát triển nghề
trồng hoa lily của tỉnh Bình Định.
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống hoa lily
sorbonne ở Bình Định.
2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và
năng suất của hoa lily nhằm xác định loại phân bón lá thích hợp mang lại năng suất
và chất lượng cao cho hoa lily.
2.3. Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân bón lá đến hoa lily giống
sorbonne trồng ở Bình Định.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài nhằm góp phần bổ sung thêm tài liệu về khả năng sinh trưởng, phát
triển và năng suất của hoa lily sorbonne trên điều kiện sinh thái Bình Định.


3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài góp hồn thiện quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa lily Sorbone, bước
đầu xác định được loại phân bón lá có ảnh hưởng tốt đến sinh trưởng, phát triển và
năng suất của hoa lily. Việc thử nghiệm tác động của phân bón lá trên giống cây

trồng mới này cũng nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở địa phương.
Ngoài ra, đề tài cịn đẩy mạnh diện tích canh tác, tăng thu nhập cho người trồng
hoa, góp phần xóa đói giảm nghèo ở Bình Định. Đồng thời qua quá trình nghiên
cứu bản thân chúng tôi được nâng cao năng lực về chuyên môn, rèn luyện tác
phong nghiên cứu khoa học và được tiếp cận thực tiễn tốt hơn.


Phần I

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc và phân loại hoa lily
1.1.1. Nguồn gốc
Lily là tên gọi chung của tất cả các cây loài lilium, họ liliaceae, bộ phụ của
thực vật một lá mầm. Đặc trưng của loài này là thân ngầm dưới đất có rất nhiều vảy
bao bọc lại nên người ta gọi là loài hoa bách hợp.
Trung Quốc là nước có nhiều chủng loại lily nhất và cũng là trung tâm,
nguồn gốc lily trên thế giới. Theo kết quả điều tra, ở Trung Quốc có khoảng 460
giống, 280 biến chủng (chiếm trên ½ tổng giống hoa lily trên thế giới), trong đó có
136 giống, 52 biến chủng do Trung Quốc tạo ra. Nhật Bản, Hàn Quốc có 110
giống trong đó có 30 giống mang đặc trưng của nước này. Hà Lan có khoảng 320
giống, trong đó 80% là các giống do chính Hà Lan tạo ra.[7]
1.1.2. Phân loại
Hoa lily (Lilium regale) là lồi thực vật bậc cao có hệ thống phân loại như sau:
Ngành Thực vật hạt kín (Angiospermatophyta)
Lớp Loa kèn (Liliopsida) hay lớp Một lá mầm (Monocotyledoneae)
Phân lớp Loa kèn (Liliidae)
Liên bộ Loa kèn (Lilianae)
Bộ Loa kèn (Liliales)
Họ Loa kèn (Liliaceae)
1.2. Tình hình sản xuất hoa lily trên thế giới

Năm 1997, Hà Lan có 356 ha lily, đứng thứ 2 trong tổng diện tích hoa cắt
trồng bằng củ (sau Tuylíp). Sở dĩ hoa lily được phát triển mạnh trong những năm
gần đây là do người Hà Lan đã tạo ra rất nhiều giống mới có hoa đẹp, chống chịu
sâu bệnh tốt, năng suất cao. Ngồi ra cịn do kỹ thuật điều khiển hoa phát triển


nhanh có thể ra hoa quanh năm. Một nguyên nhân nữa là do có sự đầu tư cơ giới
hố trong việc trồng và chăm sóc đã làm giảm giá thành, vì vậy đã làm hiệu quả
kinh tế từ việc trồng hoa lily cao hơn hẳn trước đây.
Hiện nay, Hà Lan mỗi năm trồng 18.000 ha hoa lily, trong đó xuất khẩu
70%. Nhật Bản là nước có truyền thống dùng hoa cắt và cũng là một trong những
nước tiêu thụ và nhập khẩu hoa cắt lớn nhất châu Á (mỗi năm khoảng 500 triệu
USD). Nhật cũng là nước sản xuất hoa lớn, diện tích sản xuất hoa năm 1992 của
nước này là 4.600 ha với 36.000 hộ, sản lượng đạt 900 tỷ n, trong đó hoa cúc
chiếm vị trí thứ nhất, tiếp đó đến hoa hồng và hoa cẩm chướng, hoa lily đứng ở vị
trí thứ 4, trong đó có 2 giống lily là Star-Gager và Casa-Blanca không những được
ưa chuộng ở Nhật Bản mà còn nổi tiếng trên thế giới.[7]
Những năm gần đây Hàn Quốc là một trong những nước phát triển nghề trồng
hoa mạnh, lượng xuất khẩu hoa của Hàn Quốc lớn nhất khu vực Đông Bắc Á. Theo
thống kê năm 2002, Hàn Quốc có 15.000ha trồng hoa với 12.000 người tham gia, giá
trị sản lượng đạt 700 triệu USD, gấp 8 lần năm 1989, trong đó lily là loại cây có hiệu
quả kinh tế cao nhất trong số các loại hoa ở Hàn Quốc.
Kênia là nước sản xuất hoa chủ yếu ở châu Phi và là nước xuất khẩu hoa
tươi lớn nhất châu lục này. Hiện nay, nước này có tới 3 vạn trang trại với hơn 2
triệu người trồng hoa, chủ yếu là hoa cẩm chướng, hoa lily, hoa hồng. Mỗi năm
nước này xuất khẩu sang châu Âu 65 triệu USD trong đó riêng hoa lily chiếm 35%.
Công nghệ sản xuất hoa lily cắt cành ở Đài Loan rất tiên tiến, trình độ canh
tác cịn cao hơn Hàn Quốc, chỉ kém Nhật Bản; năm 2001 nước này đã có 490 ha
trồng lily, trong đó xuất khẩu lily cắt cành đạt 7,4 triệu USD. Hà Lan là nước có
cơng nghệ tạo giống và trồng lily tiên tiến nhất hiện nay. Mỗi năm Hà Lan tạo ra từ

15-20 giống mới, sản xuất 1.315 triệu củ giống lily, cung cấp cho 35 nước khác
nhau trên toàn thế giới. Ngoài các nước kể trên còn nhiều nước trồng lily lớn khác
như: Italia, Mỹ, Đức, Mêhicô, Côlômbia, Israen...[7]


1.3. Tình hình sản xuất hoa lily ở Việt Nam
Lily là loại hoa quí hiếm ở Việt Nam, hiện nay mới được trồng ở một số tỉnh
thành phố có nghề trồng hoa phát triển như Đà Lạt, Tp.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải
Phòng… So với các chủng loại hoa khác thì chủng loại hoa này chiếm tỷ lệ rất nhỏ
cả về diện tích và số lượng. Đà Lạt là nơi hiện đang có diện tích trồng lily nhiều nhất
so với các địa phương khác trên cả nước (chiếm khoảng 8% trong tổng diện tích
trồng hoa), cịn ở Hà Nội, Hải Phịng chỉ mới trồng mang tính chất thử nghiệm. Tình
hình phát triển hoa lily ở Đà Lạt khá thuận lợi, một phần do thiên nhiên ưu đãi cho
sự phát triển của các giống hoa nói chung và cho hoa lily nói riêng, một phần do kỹ
thuật trồng lily của Đà Lạt tương đối cao nên hoa sinh trưởng phát triển khá tốt.
Hiện nay, lily là một trong những loại hoa đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất
cho một số công ty hoa ở Đà Lạt. Hoa lily cắt cành mới phát triển gần đây nhưng
do có dáng đẹp, mùi thơm quý phái, màu sắc hấp dẫn, quanh năm có hoa, được rất
nhiều người ưa chuộng do vậy nhu cầu tiêu dùng sẽ ngày càng cao. Hiện nay, ở
Việt Nam lily được xếp vào loại hoa cao cấp, thường đắt gấp 10-15 lần so với các
loại hoa cúc, hoa hồng, cẩm chướng, hồng môn, chỉ sau phong lan, địa lan. Vì bán
được giá cao nên việc trồng lily đang thu hút lớn các nhà đầu tư cả trong và ngoài
nước, chính vì thế nghề này rất có triển vọng phát triển. Thông thường hoa lily cắt
cành được phân làm 3 loại. Loại thứ nhất từ 4 hoa trở lên có giá từ 25 - 30.000
đồng/cành; loại 2 có 3 hoa giá từ 20 - 25.000 đồng/cành và loại thứ 3 gồm 2 hoa giá
từ 15 - 20.000 đồng/cành. Hoa trồng chậu có giá 100-150.000 đồng/chậu (3 cây/ chậu).
Thời gian gần đây, Phân viện sinh học Đà Lạt lại có bước đột phá khi nghiên
cứu sản xuất thành công củ giống hoa lily, có thể cung ứng cho thị trường với giá
từ 3.000 – 5.000 đồng (tùy theo loại và màu sắc), chỉ bằng 1/3 hoặc 1/2 giá nhập
ngoại.[2]



Tiềm năng đất đai, khí hậu của Đà Lạt rất lý tưởng cho sự phát triển của hoa
Lily mà ít nơi nào có được. Thời gian tới, nếu đầu tư sản xuất củ giống chất lượng
cao, giá rẻ với qui mơ hàng hóa ngay tại địa phương thì Đà Lạt có triển vọng trở
thành trung tâm lớn sản xuất và xuất khẩu hoa lily.
1.4. Tình hình nghiên cứu hoa lily ở Việt Nam và Bình Định
1.4.1. Ở Việt Nam
Theo Dự án “Xây dựng mơ hình sản xuất và bảo quản một số giống hoa cơng
nghệ cao có triển vọng xuất khẩu tại Vĩnh Phúc”, có nhiều giống hoa tham gia thí
nghiệm, trong đó có 3 giống lily (Tiber, Sibera và Acapulco là giống đối chứng).
Các biện pháp kỹ thuật mới được áp dụng: che chắn, sử dụng nhà lưới để sản xuất
hoa có tác dụng làm cho cây sinh trưởng, phát triển tốt hạn chế tác động điều kiện
thời tiết bên ngồi, hạn chế gió, làm cho hoa đỡ dập nát, hạn chế nắng gắt, hạn chế
một số côn trùng gây hại, có thể trồng hoa trái vụ. Biện pháp tưới nước, sử dụng
biện pháp tưới nước nhỏ giọt có tác dụng tránh được kết váng mặt đất, giảm sự bốc
hơi nước qua bề mặt, do đó giảm được lượng muối kim loại trong đất bốc lên bề
mặt đất, phân được trộn cùng một lúc, tập trung xung quanh vùng rễ, giảm tổn thất,
tăng hiệu quả sử dụng phân bón, giảm ô nhiễm môi trường.
Thời gian sinh trưởng của lily từ 83 – 91 ngày. Về chất lượng hoa: hoa lily
chiều dài cành từ 81 – 89cm, đối chứng 93cm; đường kính cổ nụ hoa 6,3 – 6,6cm.
Năng suất các giống hoa lily, với mật độ 9.000 củ/sào cho thu hoạch từ 8.550 – 8.820
cành hoa/sào (360m2). Thời gian bảo quản: Trong điều kiện bảo quản lạnh ẩm, lily
25 - 28 ngày, trong điều kiện bảo quản lạnh khô: lily 15 - 20 ngày.
Hiệu quả kinh tế, hoa lily chỉ sau khi trồng 3 tháng 1 sào có thể cho thu
hoạch 138,5 – 142,9 triệu đồng, đầu tư 86,5 triệu đồng. Tuy nhiên, đầu tư trồng hoa
lily quá lớn, giống hoa phải nhập ngoại.


Kết quả đề tài "Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất hoa Lily

tại thành phố Thái Nguyên" (Mã số: B2006 TN03-12) do Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên thực hiện đã cho thấy:
- Xử lý lạnh củ giống hoa lily ở nhiệt độ 120C trong thời gian 2 ngày trước khi
trồng là thích hợp nhất làm củ nẩy mầm 100% và số nụ, số hoa /cây đạt cao nhất là
4,07hoa/cây.
- Nghiên cứu chế độ chiếu sáng: che 50% ánh sáng khi trồng hoa lily vụ đông
đã làm cho cây sinh trưởng tốt như: tăng chiều cao cây, tăng số nụ/cây, tăng số hoa/
cây đạt cao nhất là 5,1 hoa/cây, đồng thời cho độ bền hoa cắt cắm cao hơn so với
đối chứng từ 1-2 ngày. Thu lợi nhuận tăng 26,24 triệu đồng /sào so với đối chứng.
- Sử dụng chế phẩm Atonik trong sản xuất hoa lily đã làm tỷ lệ hoa hữu hiệu
đạt cao nhất là 97,65%, tăng tỷ lệ hoa loại 1 và thu lãi cao nhất 157,39 triệu đồng/sào.
- Dùng phân bón lá Yogen N0.2 tuy có số hoa/cây khơng cao bằng dùng
Vạn Niên Hồng nhưng có số hoa hữu hiệu và hoa loại 1cao nhất (93,36%) thu lãi
cao nhất đạt 160,04 triệu đồng/sào tăng hơn đối chứng 22,16 triệu đồng/sào.
- Nghiên cứu xây dựng hồn chỉnh quy trình trồng hoa lily tại Thành phố Thái
Ngun đã thực hiện tại các mơ hình sản xuất thử và đạt hiệu quả kinh tế cao.[4]
Theo TS. Nguyễn Thị Lý, hai năm gần đây trên cơ sở hợp tác và liên kết với
đơn vị bạn, các cán bộ khoa học của Viện Di truyền Nông nghiệp đã khảo sát, đánh
giá và bước đầu tuyển chọn các giống hoa thu thập được, đối với lily có hai giống
là LL4 và LL8.
1.4.2. Ở Bình Định
Tại Bình Định việc sản xuất hoa còn đơn giản, chủ yếu là các loại hoa vùng
nhiệt đới như: huệ, mai, cúc đại đoá, layơn, thược dược...trong đó mới chỉ có hoa
huệ là tương đối đạt sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ (có xuất ra một số tỉnh
nhưng quy mơ, số lượng cịn khiêm tốn); các lồi hoa cịn lại sản xuất và tiêu thụ
phụ thuộc lớn vào điều kiện thời tiết, mùa vụ.


Nhìn chung, những nghiên cứu hoa rau ở Bình Định cịn q ít; quy trình kỹ
thuật trồng hoa cịn nghèo nàn; chưa thu thập và tuyển chọn những giống hoa có

chất lượng cao cho thị trường đặc biệt là hoa ôn đới; chưa ứng dụng công nghệ tiên
tiến trong sản xuất nên năng suất và chất lượng không đáp ứng yêu cầu tiêu dùng;
vì thế nghề trồng hoa chưa phải là thế mạnh cho ngành nơng nghiệp tỉnh, rất ít hộ
nông dân sản xuất nghề này, mặc dù đây là ngành cho thu nhập cao hơn nhiều so
với cây lương thực và cây thực phẩm.
Tại Bình Định, chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về hoa lily ngồi đề tài
nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ
“Nghiên cứu, thăm dò khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số loại
cây rau, hoa ôn đới trên đất đỏ bazan xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Thạnh”
1.5. Đặc điểm sinh học
1.5.1. Đặc điểm thực vật học
Lily là cây thân thảo lâu năm. Phần dưới mặt đất gồm thân vảy, rễ. Phần trên
mặt đất gồm lá, thân, mầm hạt (một số khơng có mầm hạt).
1.5.1.1. Thân vảy
Thân vảy là phần phình to của thân tạo thành. Trên đĩa thân vảy có vài chục vảy
hợp lại vảy có hình cầu dẹt, hình trứng, hình trứng dài,....Thân vảy khơng có vỏ bao
bọc. Màu sắc thân vảy thay đổi tùy theo loài và các giống khác nhau: màu trắng,
màu vàng, màu đỏ cam, màu đỏ tím…,kích thước của thân vảy cũng tuỳ thuộc vào
các loài giống khác nhau. Loại nhỏ chu vi 6cm, nặng 7-8 gam, loại to chu vi
24-25cm, nặng trên 100 gam, loại đặc biệt chu vi 34-35cm, nặng 350 gam. Độ lớn
của thân vảy tương quan chặt chẽ với số nụ hoa. Ví dụ, giống lily thơm chu vi thân
vảy là 12-14cm có 2-4 nụ, chu vi thân vảy là 14-16cm có trên 4 nụ. Các giống lai
phương Đông và lai châu Á số nụ cũng tỷ lệ thuận với chu vi thân vảy... Vảy có
hình elip, hình kim x ra, có đốt hoặc khơng có đốt. Mầm vảy to ở ngồi, nhỏ ở
trong, là nơi dự trữ nước và dinh dưỡng của thân vảy, trong đó nước chiếm 70%,


tinh bột chiếm 23%, một lượng nhỏ protêin, chất khoáng, chất béo. Độ lớn của
thân vảy thường được đo bằng chu vi và trọng lượng của nó. Vảy nhiều và mập thì
chất lượng giống tốt. Củ giống để trồng hoa thương phẩm nhất thiết phải là thân

vảy đã được bồi dục, thường năm đầu chưa ra hoa, sang năm thứ 2 củ có chu vi từ
9cm trở lên mới ra hoa.[7]
1.5.1.2. Rễ
Rễ lily gồm 2 phần rễ thân và rễ gốc. Rễ thân còn gọi là rễ trên, do phần thân
mọc dưới đất sinh ra, có nhiệm vụ nâng đỡ thân, hút nước và dinh dưỡng, tuổi thọ
của rễ này là một năm. Rễ gốc gọi là rễ dưới, sinh ra từ gốc thân vảy, có nhiều
nhánh, sinh trưởng khỏe, là cơ quan chủ yếu hút nước và dinh dưỡng của lily, tuổi
thọ của rễ này là 2 năm.[7]
1.5.1.3. Lá
Lá lily mọc rải rác thành vịng thưa, hình kim, xịe hoặc hình thn, hình dải,
đầu lá hơi nhọn, khơng có cuống hoặc cuống ngắn. Lá to hay nhỏ tùy thuộc vào
giống, điều kiện trồng trọt và thời gian xử lý. Trên lá có từ 1-7 gân, gân giữa rõ
ràng hơn, lá mềm có màu xanh bóng.[7]
1.5.1.4. Củ con và mầm hạt
Đại bộ phận của lily có nhiều củ con ở gần thân rễ, chu vi mỗi củ từ 0,5-3
cm, số lượng củ con tùy thuộc vào giống và điều kiện trồng trọt. Một số giống địa
phương và các giống lai tạo ở nách lá có mầm hạt hình cầu hoặc hình trứng, khi
chín có màu tím, tối, chu vi mầm hạt từ 0,5-1,5 cm.[7]
1.5.1.5. Hoa
Hoa lily mọc đơn lẻ, hoặc xếp đặt trên trục hoa, bao hoa hình lá, nhỏ. Hoa
chúc xuống, vươn ngang hoặc hướng lên. Hình dáng hoa là căn cứ chủ yếu để phân
loại lily. Đối với các giống thuộc loại hình loa kèn, 1/3 phía trước cong ngược lên;
loại hình phễu 1/3 phía trước cong ngược ra; loại hình cái cốc, phía trước hơi cong;
loại hình cầu cánh hoa 6 cái, hai vòng nối nhau do 3 vòng đài và 3 cánh tạo thành,


màu sắc như nhau nhưng đài hoa hẹp hơn, cánh đều, gốc có tuyến mật. Rất nhiều
giống lily ở gốc cánh có chấm màu tím, hồng...Nhị đủ 6 cái, giữa có cuống màu
xanh nhạt. Trục hoa nhỏ, dài, đấu trục phình to, có 3 khía. Màu sắc hoa lily rất
phong phú: trắng, phấn hồng, đỏ, vàng, vàng cam, đỏ tím, tạp sắc… Màu sắc lốm

đốm có đen, đỏ thắm, đỏ tím, đen nâu... Phấn hoa có màu vàng hoặc đỏ cam, đỏ
nâu, nâu tím… Các giống hoa lily phương Đơng thường có hương thơm và đây là
đặc điểm nâng cao giá trị của hoa.[7]
1.5.1.6. Quả
Quả hình trứng dài, mỗi quả có vài trăm hạt, bên trong có 3 ngăn. Hạt hình
dẹt, xung quanh có cánh mỏng, hình bán cầu, hoặc 3 góc, vng dài. Độ lớn của
hạt, trọng lượng hạt, số lượng hạt tùy theo giống ví dụ: giống L.coniolor hạt nhỏ,
đường kính khoảng 5mm, mỗi gam có 700-800 hạt, giống L.henrgi, giống
L.auratum hạt to, đường kính 12mm, mỗi gam có 170-180 hạt. Trong điều kiện
khơ, lạnh, hạt lily có thể bảo quản được 3 năm.[7]
1.6. Đặc điểm sinh trưởng, phát dục
1.6.1. Đặc điểm sinh trưởng thân
Sự sinh trưởng phát dục của lily có thể chia ra các giai đoạn: phát triển trục
thân, ra nụ, nở hoa, kết hạt, chết khô. Thân vảy vùi trong đất sau khoảng 2 tuần sẽ
nảy mầm. Tuy nhiên trong trường hợp xử lý lạnh không đầy đủ hoặc gặp trời lạnh
thời gian nảy mầm có thể kéo dài tới 5 tuần. Từ khi trồng tới khi ra nụ mất khoảng
6-9 tuần (tùy theo giống và điều kiện thời tiết). Từ khi ra nụ đến lúc nở hoa kéo dài
4-7 tuần. Các giống khác nhau có mức độ chênh lệch nhau khá lớn về thời gian,
sinh trưởng của cây. Nhóm giống châu Á từ khi trồng đến khi ra hoa khoảng 12
tuần nhưng cũng có một số giống như Kinka, Lotus chỉ cần 11 tuần, Adelina,
Yellow blage, cần đến 16- 17 tuần, cá biệt có giống chỉ cần 9 tuần như Dame
Blanche, ngược lại giống Cassa Blanca cần đến 20 tuần. Trục thân của lily là do
trục mầm dinh dưỡng co ngắn lại tạo ra. Trục thân chia ra trục thân sơ cấp và trục


thân thứ cấp. Đầu trục sơ cấp chính và mầm dinh dưỡng co ngắn, trục thứ cấp nằm
giữa mầm dinh dưỡng co ngắn và vảy có từ 1 đến 3 các lá trung tâm phát dục ra củ
con đời sau. Có một số mầm lá, là vảy mới, quyết định đến sự hình thành củ con.
Sau khi phá ngủ trục sơ cấp, ở trên mầm nách trục thân là vùng vươn dài thứ nhất,
mầm đỉnh co ngắn, vươn lên mặt đất, lá trên bắt đầu mở ra, khi cây ra nụ thì số lá

đã được cố định. Chiều cao cây quyết định bởi số lá và chiều dài đốt, số lá chịu ảnh
hưởng của chất lượng củ giống, điều kiện và thời gian xử lý lạnh củ giống, thường
số mầm lá đã được cố định trước khi trồng. Vì vậy, chiều cao cây vẫn chủ yếu
quyết định bởi chiều dài đốt. Trong điều kiện ánh sáng yếu, ngày dài, nhiệt độ thấp
và xử lý trước khi bảo quản lạnh lâu, đều có tác dụng kéo dài đốt thân. Ngược lại
ánh sáng mạnh, ngày ngắn, nhiệt độ cao lại ức chế đốt kéo dài. Ở phạm vi nhiệt độ
từ 20-300C nếu cứ tăng thêm 20C cây có thể thấp đi 2cm. Nắm được đặc tính này
người ta có thể xử lý giờ chiếu sáng trước khi ra nụ khoảng 4-5 tuần để điều chỉnh
chiều cao của cây rất có hiệu quả.[7]
1.6.2. Đặc điểm phát dục
1.6.2.1. Sự phân hóa hoa
Trong điều kiện tự nhiên ở miền Bắc Việt Nam, lily thường được trồng vào
tháng 9 tháng 10 và bắt đầu phân hóa hoa vào tháng 11, 12. Q trình phân hố hoa
được hoàn thành trong khoảng 40-60 ngày. Các giống lai châu Á đa số thuộc loại
này. Khi bắt đầu nảy mầm cũng là lúc cây bắt đầu phân hóa mầm hoa. Nguyên
nhân là do mầm co ngắn trong vảy rất mẫn cảm với nhiệt độ thấp. Củ lily xử lý
lạnh 50 C từ 4-6 tuần, sau khi trồng 10-14 ngày đỉnh sinh trưởng mầm rút ngắn, đã
bắt đầu hình thành mầm hoa nguyên thuỷ. Mỗi mầm hoa nguyên thủy này lại kèm
theo 1-2 mầm khác. Khi củ đã qua xử lý lạnh thì trước khi trồng, củ có thể mọc
mầm và phân hóa hoa, vì vậy nếu khơng trồng kịp thời sẽ bất lợi cho phát dục mầm
hoa. Do đó trước khi mọc mầm hoa hoặc khi mầm ngắn hơn 1 cm phải trồng ngay.
Tuy nhiên, một số giống thuộc loại hoa phương Đông và lily thơm lại thuộc loại


sau khi nảy mầm 1 tháng mới bắt đầu phân hóa hoa, đó cũng là nguyên nhân các
giống này có thời gian sinh trưởng dài. Trong điều kiện tự nhiên ở miền Bắc Việt
Nam, có một số ít giống có thời gian phân hóa hoa bắt đầu vào tháng 8-9, đến tháng
10-11 thì hồn thành, cũng có giống thời gian phân hóa hoa rất dài, bắt đầu từ
tháng 9-10, đến tháng 1-2 năm sau mới xong. Hai loại chính ở các dịng lai châu Á
có sức hình thành mầm hoa mạnh, vì vậy khả năng phát triển của củ nhỏ hơn các

giống khác.[7]
1.6.2.2. Sự ra hoa
Sự phân hóa hoa và số lượng mầm hoa chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện
trước khi trồng (chất lượng củ giống, điều kiện xử lý), nhưng tốc độ phát dục của
nụ và hoa lại chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện trước khi trồng (chất lượng giống,
điều kiện xử lý), nhưng tốc độ phát dục của nụ và hoa lại chịu ảnh hưởng lớn của
điều kiện sau khi trồng, nếu sau khi trồng nhiệt độ trong nhà vườn vượt quá 30 0C
thì hoa sẽ mù, tức là tất cả các mầm hoa đều khô đi. Nhiệt độ 25 – 30 0C sẽ làm thối
nụ, tỷ lệ ra hoa chỉ đạt 21- 43%; ở 15 – 20 0C tỷ lệ ra hoa đạt tới > 80%. Nhị đực và
nhị cái của lily cùng chín một lúc. Thời gian quả chín tuỳ thuộc vào giống. Giống
ra hoa sớm thì cần khoảng 60 ngày, giống ra hoa trung bình cần 80-90 ngày, giống
ra hoa muộn cần ít nhất tới 150 ngày. Ánh sáng mạnh tạo ra sự bại dục của nụ,
đồng thời còn gây ra cháy lá, việc xử lý che nắng sẽ giảm thối nụ. Ngược lại ánh
sáng yếu (đặc biệt là mùa Đông) cũng làm thối nụ và ảnh hưởng đến chất lượng
hoa. Quả chín sau khi hoa nở được khoảng hai tháng. Khi quả có màu vàng, sẽ nứt
ra, hạt có cánh vì vậy ở điều kiện tự nhiên có thể truyền đi theo gió. Sau khi thu
hoạch quả, thân lá khơ héo, lúc này ta có thể thu hoạch củ để làm giống.
1.6.2.3. Sự ngủ nghỉ của củ và biện pháp phá ngủ
Kỹ thuật quan trọng trong việc trồng lily là phải phá ngủ củ. Nếu trồng củ
chưa qua ngủ sẽ dẫn đến tỷ lệ nảy mầm thấp và thường xuất hiện hiện tượng hoa
mù. Các giống thuộc dịng lai châu Á có thời gian ngủ nghỉ kéo dài từ 3-6 tháng.


Dùng nhiệt độ thấp để phá ngủ là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Nhìn chung
các giống bảo quản lạnh 50C sau 4 - 6 tuần là phá được ngủ nghỉ. Nhưng cũng có
một số giống như Connecticut cần 6 đến 8 tuần; giống Yellow Blage cần đến 8
tuần. Một số giống thuộc dịng lai phương Đơng cần xử lý lâu hơn như StarGager,
Casa-Blanca (ít nhất phải trên 10 tuần). Cùng một giống, việc xử lý lạnh càng lâu
thì thời gian từ trồng đến ra hoa càng ngắn. Từ đặc điểm này ta có thể xác định
được thời gian ra hoa, đồng thời là xác định được thời gian trồng thích hợp.[7]

1.7. u cầu ngoại cảnh
1.7.1. Nhiệt độ
Nói chung lily là cây chịu rét khá, chịu nóng kém, ưa khí hậu mát ẩm, nhiệt
độ thích hợp ban ngày là 20-250C, ban đêm là 120C. Các giống lai phương Đông
thời kỳ đầu thích hợp với nhiệt độ ban ngày 25-28 0C, ban đêm 18-200C. Dưới 120C
cây sinh trưởng kém, hoa dễ bị mù, thời gian đầu nhiệt độ thấp có lợi cho ra rễ và
sự phân hoá hoa. Nhiệt độ là yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của lily,
quan trọng nhất ảnh hưởng đến nảy mầm của hạt, sự phát dục của thân và sự sinh
trưởng của lá. Nhiệt độ ảnh hưởng tương đối lớn tới nảy mầm của hạt. Xử lý củ
giống nhóm lily thơm ở nhiệt độ 450C trong 5 tuần, có thể kích thích lá vươn dài,
đốt dài ra và nâng cao khả năng sinh trưởng của cây nhưng làm cho thân nhỏ hơn,
giảm số lá và nụ. Từ khi củ nảy mầm khỏi mặt đất đến khi ra hoa thì tốc độ ra lá,
độ dài của thân tương quan thuận với nhiệt độ khơng khí. Nhiệt độ đất ảnh hưởng
đến sự sinh trưởng của rễ, nếu nhiệt độ đất từ 17-210C có lợi cho sinh trưởng của
rễ, gốc, nhưng nếu nhiệt độ xuống thấp từ 12- 130C hoặc cao hơn (27-280C) thì rễ
làm chậm lại sự phát triển của thân lá. Từ khi xuất hiện nụ đến khi ra hoa nhiệt độ
chênh lệch ngày/đêm ảnh hưởng lớn tới sự sinh trưởng của thân. Nếu chênh lệch từ
00C đến 160C thì độ cao của cây dao động từ 14,2 đến 27cm. Nhiệt độ cịn là nhân
tố quan trọng điều tiết sự phân hóa hoa và sự ra hoa. Roh (1974) khi tiến hành


nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự ra hoa của lily đã nhận thấy nếu những
giống được xử lý liên tục ở 12,8 0C sẽ rút ngắn sự ra hoa. Nhiệt độ và ánh sáng còn
ảnh hưởng đến sự phát triển của củ, nhiệt độ thấp, thời gian chiếu sáng trong ngày
dài củ sẽ to hơn. Vì vậy vào mùa đông mỗi ngày cần tăng thêm 4 giờ chiếu sáng,
nâng chế độ chiếu sáng lên từ 16-24 giờ/ngày, có tác dụng làm cho cây thấp đi rõ
rệt, đồng thời tăng tỷ lệ ra hoa. Củ giống dòng tạp giao phương Đông như
CasaBalanca, StarGager, từ cuối tháng giêng mỗi ngày chiếu sáng thêm một số giờ
và chiếu liên tục trong 6 tuần, thì tốc độ ra hoa tăng rõ rệt. Chiếu sáng bổ sung ở
nhiệt độ thích hợp (16- 180C) có thể rút ngắn được thời gian ra hoa của tất cả các

giống.[6]
1.7.2. Ánh sáng
Lily là cây ưa cường độ ánh sáng ở mức trung bình, vì vậy nếu trồng vụ Hè Thu
cần phải che bớt ánh sáng, tạo ra cường độ ánh sáng thích hợp (từ 12000-15000
lux), nhất là ở thời kỳ cây cao 20-30cm. Lily là cây dài ngày, chiếu sáng ngày dài
hay ngắn không những ảnh hưởng đến phân hố hoa, mà cịn ảnh hưởng đến sinh
trưởng và phát dục của hoa. Boonteps (1973) phát hiện trong q trình hoạt hố,
mỗi ngày tăng thêm 8 giờ chiếu sáng có thể hoa ra sớm 5 tuần. Xử lý ngày dài sẽ
tăng tốc độ sinh trưởng và số lượng hoa.[6]
1.7.3. Nước
Đất quá khô hoặc quá nhiều nước đều ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục
của lily. Thời kỳ đầu cây cần nhiều nước, thời kỳ ra hoa nhu cầu nước giảm bớt vì
nước nhiều củ dễ bị thối, rụng nụ. Lily thích khơng khí ẩm ướt, độ ẩm thích hợp
nhất là 80-85%. Nếu ẩm độ biến động lớn dễ dẫn đến thối củ. Cần chú ý là củ lily
rất mọng nước nên ngay sau khi trồng phải tiến hành tưới thật đẫm để không xảy ra
hiện tượng đất rút nước từ trong củ làm củ héo và sau này sinh trưởng kém.[6]


1.7.4. Khơng khí
Lily là cây khá mẫn cảm với khí etylen, tuy nhiên độ mẫn cảm của các giống
rất khác nhau: giống châu Á mẫn cảm hơn đối với khí etylen so với các dịng giống
khác.
1.7.5. Đất
Lily có thể trồng ở mọi loại đất, nhưng đất nhiều mùn, đất thịt nhẹ là tốt nhất.
Lily là loại cây có rễ ăn nơng vì vậy đất thốt nước rất quan trọng. Lily rất mẫn
cảm với muối, đất nhiều muối cây không hút được nước, ảnh hưởng đến sinh
trưởng, phân hoá hoa và ra hoa. Nói chung hàm lượng muối khơng được vượt q
15mg/cm2, chất ơxy hố khơng cao q 1,5mmol/l. Đất q chua cây hút ion sắt,
nhôm, magiê nhiều gây hại cho cây; đất kiềm quá, lượng hút sắt, magiê, lân không
đủ sẽ dẫn đến thiếu các sắc tố. Các giống thuộc giống lai châu Á và lily thơm yêu

cầu độ pH thích hợp từ 6-7, giống thuộc nhóm phương Đơng lại yêu cầu thấp hơn
pH từ 5,5-6,5.[6]
1.7.6. Dinh dưỡng
Lily yêu cầu mức độ phân bón cao nhất trong 3 tuần đầu kể từ sau khi trồng.
Tuy nhiên, lúc này rễ non dễ bị ngộ độc muối. Muối trong đất do 3 nguồn là phân
bón, nước tưới và hàm lượng dinh dưỡng của cây trồng vụ trước. Vì vậy để tránh
tác hại của muối trong đất, trước khi trồng 6 tuần cần phân tích đất để biết hàm
lượng muối. Lily cũng mẫn cảm với hợp chất chứa Clo, yêu cầu lượng Clo trong
đất khơng vượt q 15mmol/lít, nếu khơng sẽ hại rễ. Lily cũng mẫn cảm với Flo,
nếu hàm lượng Flo trong khơng khí cao dễ gây cháy lá. Vì vậy khơng được bón
phân có chứa Flo như muối Flophotphat, mà phải bón loại phân có hàm lượng Flo
thấp. Đất thiếu canxi, lily dễ bị vàng lá, lá phát triển không gọn.[6]


1.8. Cơ chế và nguyên tắc sử dụng của phân bón lá
1.8.1. Cơ chế tác dụng của phân bón lá:
Cấu trúc của lá gồm có lớp cutin, những tế khổng và chất sáp bên ngồi che
phủ, lớp bì mơ có nhiều chất mộc, bán mộc, pectin, được phối hợp với lực căng
trên mặt lá. Do đó, trong phân bón lá, người ta phải dùng chất có nhũ dầu, chất
detergent hoặc chất ướt để giúp chất phân lỏng dính vào lá. Một cách đơn giản, sự
hấp thu phân vào lá là do sự chênh lệch nồng độ dung dịch giữa chất phân ở bên
ngoài lá và dung dịch ở bên trong lớp cutin của bì mơ lá, nhờ đó chất phân được
thẩm thấu vào bên trong lá.
1.8.2. Cách sử dụng phân bón lá
Nếu có điều kiện, sự phân tích đất đai và lá cây để xác định tình trạng dinh
dưỡng của đất và cây trước khi áp dụng phân lá là điều cần thiết. Sau đó cần chú
trọng đến các yếu tố sau đây:
- Loại hoa màu
- Chọn đúng loại phân và nồng độ chính xác.
- Phun phân bón lá đúng lúc cho từng giai đoạn sinh trưởng của cây .

- Phun phân bón lá đúng chỗ và đồng đều.
- Mơi trường và khí hậu thuận lợi xịt phân bón lá: có ánh sáng, khơng gió,
khơng mưa, nhiệt độ trung bình và ẩm độ đất thiếu (khí hậu khơ) để sự hấp thụ
phân vào lá và chuyển vị trong cây được hữu hiệu.
Phân bón lá, theo lý thuyết, là loại phân lý tưởng trong ngành nơng nghiệp vì
độ hiệu quả cao nhất, nhưng địi hỏi người dùng phải có sự hiểu biết tối thiểu để thu
được lợi tức kinh tế cao. Cần nên nhớ rằng phân bón lá chỉ có thể làm thỏa mãn
một phần các chất dinh dưỡng (N, P, K và Ca) của cây mà thôi và không thể thay


thế hoàn toàn nhu cầu về các chất này được. Vì vậy, phân bón lá chỉ có thể làm
qn bình chất dinh dưỡng của cây, chữa trị được vài vấn đề về bệnh sinh lý của
cây, chống chịu thời tiết bất thường như hạn hán, giúp cây đơm bông kết trái, hạt
mỹ mãn hoặc sớm muộn theo ý muốn, giúp cho hệ thống rễ cây hấp thụ chất dinh
dưỡng nhiều hơn, và cải thiện năng suất cùng chất lượng.


PHẦN II

VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Hoa lily: giống Sorbonne
2.1.2. Phân bón lá:
2.1.2.1. Agriconik
Thành phần: N: 0,1%, P2O5: 0,2% , K2O: 0,04%, Mg: 5%, Zn: 0,2%,
Cu:0,04%, Fe: 5%, Mn: 0,2%, B: 0,02%
2.1.2.2. Arrow
Thành phần: N: 33%, P2O5 : 11%, K2O: 11%, Fe: 0,33%, Cu: 0,07%,
B:0,02%, Zn: 0,07%, Mn: 0,05%, Mo: 0,0005%
2.1.2.3. Rong biển

Thành phần: N: 1,5%, P2O5 : 3%, K2O: 20%, S: 1,5%, Mg: 0,45%, B:
125ppm, Fe: 200 ppm, Mn: 10ppm, Cu: 30 ppm, Zn: 65 ppm, Alanin: 0,32%,
Agrinin: 0,04%, Cystin: 0,01%, Serin: 0,08%, Glyxin: 0,29%, Histidin: 0,08%,
Valin: 0,28%, Iso leucin: 0,26%, Leucin: 0,41%, Lycin: 0,16%, Prolin: 0,28%,
Methyonin: 0,11%, Phenylalanin: 0,25%, Tyrocin: 0,17%, Tryptrophan: 0,07%,
Glutamic acid: 0,93%, Aspartic acid: 0,62%, Maniton: 0,11%, Laminarin: 0,08%,
Alginic acid: 0,8%, Xytokinin: 600 ppm, Auxin: 37 ppm, Gibberellin: 21ppm.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của lily trên địa bàn Bình
Định.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển,
năng suất của hoa lily nhằm xác định loại phân bón lá thích hợp mang lại năng suất
và chất lượng cao cho hoa lily.


- Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân bón lá đối với hoa lily
trồng ở Bình Định.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp ngẫu nhiên hoàn toàn (CRD) với 3
lần nhắc lại, mật độ 48 cây/m2.
Các cơng thức thí nghiệm như sau:
Cơng thức I

: Phun nước lã (đối chứng)

Công thức II

: Phun Agriconik


Công thức III

: Phun Arrow

Công thức IV

: Phun Rong biển

2.3.2. Sơ đồ ruộng thí nghiệm
Ia

Ib

IIIa

IVc

IIb

IIa

IVb

IIIc

Ic

IIc

IIIb


IVa

2.3.3. Cách pha nồng độ:
Theo hướng dẫn ở bao bì
+ Agriconik: 10ml pha cho bình xịt 8 lít.
+ Arrow: 10g pha cho bình xịt 8 lít.
+ Rong biển: 10g pha cho bình xịt 16 lít.
2.4. Biện pháp kỹ thuật trồng hoa lily trong chậu


- Chọn đất nền: Chất nền phải tơi xốp và có khả năng giữ nước tốt. Thường sử
dụng hỗn hợp: đất vườn+than bùn+phân hoai mục theo tỉ lệ 1:1:1 trộn đều.
- Chọn giống và củ giống: Thường dùng củ được bảo quản lạnh dài ngày. Các
giống lai châu Á bảo quản 1 năm, lai phương Đông 7 tháng. Cần chọn củ to mập,
khơng có sâu bệnh, chu vi củ từ 14cm trở lên và củ chưa nảy mầm.
- Cách trồng: Chậu để trồng có thể làm bằng chất dẻo hoặc chậu sứ có quy cách
tùy theo mục đích kinh doanh. Thơng thường kích cỡ chậu có đường kính 25cm,
chiều cao 30cm, đáy đục lỗ để nước thoát dễ dàng nhưng đường kính đáy lỗ khơng
q 3cm. Cũng có thể dùng chậu gỗ hoặc chậu nhựa nhưng phải chắc và không
được to quá để dễ di chuyển. Khi trồng, dưới lớp củ phải cho lớp đất dày tối thiểu
5cm và một lớp giá thể cho rễ mọc, dày tối thiểu là 8cm, mỗi chậu có thể trồng
3-12 củ. Trồng xong tưới nước ngay, đợi cho nước thấm hết rồi mới chuyển vào
phòng ra rễ.
- Xử lý ra rễ: Các chậu được xếp sát nhau để tận dụng diện tích. Nhiệt độ phòng ra
rễ khống chế từ 12-130C. Ở nhiệt độ này thường sau 2-3 tuần mầm có thể mọc ra
dài 8-10cm, lúc này có thể chuyển cây trồng vào nhà ấm. Phòng ra rễ cần khống
chế nhiệt độ theo đúng chế độ bảo ơn, thơng gió tốt và cần có người quản lý.
- Điều chỉnh nhiệt độ: Khi trời nóng, nhiệt độ bên ngoài trên 200C cần chuyển chậu
vào trong nhà lưới và hạ thấp nhiệt trong nhà, cách làm là: Che nắng, quạt gió và

hơi lạnh vào nhà, phun hơi nước hạ nhiệt (cứ cách 30 phút đến 60 phút phun 5-10
lần).
- Bón phân: Nói chung để cho củ khơng bị thối khơng nên bón q nhiều phân lót
vào chậu mà nguồn phân bón của cây chủ yếu dựa vào bón thúc.
* Nguyên tắc bón phân: Thời kỳ đầu bón đạm là chính, thời kỳ sau bón hỗn hợp
N.P.K, khi có nụ bổ sung lân và kali.


* Cách bón: thời kỳ đầu hịa vào nước tưới, về sau phun lên lá là chính, lượng bón,
số lần bón giống trồng ngồi đất.
- Tưới nước: trồng trong chậu, khi tưới nước dễ lọt qua, gây tổn thất lớn về nước
nên phải thường xuyên bổ sung nước cho cây kết hợp giữa tưới và phun. Phun
nước còn làm tăng được độ ẩm khơng khí, mỗi tuần tưới 2 lần và kết hợp với bón
phân.
2.5. Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
* Quy mô nghiên cứu: 24 m2 bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Thời gian sinh trưởng phát triển của lily: theo dõi từ khi trồng cho đến khi thu
hoạch theo từng ơ thí nghiệm.
- Tăng trưởng chiều cao lily: đo từ mặt đất đến mút ngọn lá cao nhất bằng thước kẽ li.
Mỗi ô đo ngẫu nhiên 5 cây và tính trung bình chiều cao cây sau khi trồng: 20,
35, 50 ngày.
- Tăng trưởng số lá trên cây: đếm số lá cùng ngày với đo chiều cao cây và chọn các
cây được đo chiều cao để đếm số lá. Mỗi ơ đếm số lá 5 cây và tính trung bình.
- Tăng trưởng chiều dài lá: đo những lá có chiều dài lớn nhất.
- Tăng trưởng chiều rộng lá: đo những lá có chiều rộng lớn nhất.
- Tăng trưởng chiều dài cánh hoa: dùng thước kẽ li đo phần dài nhất của cánh hoa.
- Tăng trưởng chiều rộng cánh hoa: dùng thước kẽ li đo phần rộng nhất của cánh hoa.
- Tăng trưởng chiều dài cành hoa: dùng thước kẽ li để đo.
- Tăng trưởng số hoa: đếm số hoa cho từng lần lặp.
- Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất

Năng suất lý thuyết (cành/ha) = Tỉ lệ sống x mật độ trồng x 10.000m2 x 0,7


Năng suất thực thu (cành/ha) = Năng suất thực/ô x 10.000m2 x 0,7
* Phương pháp theo dõi sâu, bệnh hại:
+ Điều tra định kỳ theo phương pháp 5 điểm chéo góc với quy mơ/điểm điều tra
cụ thể: từ giai đoạn hồi xanh đến chuẩn bị trải lá (giao tán): điều tra 20 cây/điểm. Thời
kỳ giao tán đến hoàn chỉnh số lá (bắt đầu xuất hiện sản phẩm sử dụng: củ, quả, hoa,
lá ...): điều tra 10 cây/điểm. Thời kỳ chuẩn bị thu hoạch (từ 15-20 ngày trước khi thu
hoạch): điều tra 20 cây/điểm.
+ Đối với rệp, được đánh giá theo thang điểm 4 cấp:
Cấp 0: Trên các lá khơng có rệp.
Cấp 1: Trên các lá có rệp nhưng chưa hình thành quần tụ (còn phân bố rải rác).
Cấp 3: trên lá rệp xuất hiện từ 1-5 quần tụ.
Cấp 5: trên là rệp hình thành 1-5 quần tụ.
+ Đối với bệnh hại các loại được đánh giá như sau:
Số cây bị bệnh
Tỷ lệ cây bệnh = --------------------------- x 100%
Tổng số cây điều tra

* Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng phần mềm IRRISTAT và EXCEL.


PHẦN III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của phân bón lá đến thời gian sinh trưởng hoa lily sorbonne
Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá đến các giai đoạn sinh trưởng và phát
triển ở các công thức nhằm tác động các biện pháp kỹ thuật thích hợp cho cây.
Lily là nột cây ngày dài, chiếu sáng ngày dài hay ngắn khơng những ảnh hưởng
đến phân hóa mầm hoa mà còn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của hoa.

Trong thí nghiệm chỉ tiến hành theo dõi từ trồng đến thu hoạch. Thời gian sinh
trưởng của cây hoa lily phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của giống, tuy nhiên thời
gian sinh trưởng cũng chịu ảnh hưởng của mùa vụ, thời tiết, điều kiện canh tác và
các loại phân bón lá khác nhau thì khả năng sinh trưởng cũng khác nhau.
Bảng 1: Ảnh hưởng của phân bón lá đến thời gian sinh trưởng hoa Lily sorbonne
GĐ ST

Từ khi trồng đến (ngày)
Nảy mầm

Ra nụ

Nở hoa

CT I (Đ/c)

10

51,93

87,93

CT II

10

49,13

81,67


CT III

10

50,07

84,00

CT IV

10

48,20

79,07

LSD

-

3,71

6,30

CV%

-

4,0


4,0

Công thức

Kết quả ở bảng 1 cho thấy: trong cùng một điều kiện như nhau, các loại phân
bón lá khác nhau thì thời gian sinh trưởng của các công thức cũng khác nhau.


Giai đoạn từ trồng đến nảy mầm: giữa các công thức chưa có sự sai khác do thí
nghiệm được bố trí trong một điều kiện thời tiết, biện pháp canh tác như nhau, mặt
khác trục thân mới trồi lên khỏi mặt đất nên bộ lá chưa hoàn thiện để tiến hành phun
phân bón lá.
Giai đoạn từ trồng đến ra nụ: thời gian ra nụ biến động 48,20-51,93 ngày,
trong đó cơng thức Rong biển cho ngày ra nụ ngắn nhất 48,20 ngày, giảm so với
đối chứng 3,73 ngày. Thời gian ra nụ của công thức IV thấp hơn so với đối chứng
chắc chắn ở độ tin cậy 95%, các công thức cịn lại khơng có sự sai khác về mặt
thống kê. Ở giai đoạn này bộ rễ đã phát triển mạnh, khối lượng rễ nhiều, diện tích
lá lớn nên hấp thụ đầy đủ các nguyên tố vi lượng từ phân bón lá.
Giai đoạn từ trồng đến nở hoa: Thời gian ra hoa dao động trung bình
79,07-87,93 ngày, cơng thức IV cho thời gian nở hoa nhanh nhất 79,07 ngày giảm
so với đối chứng 8,86 ngày. Khi xử lý ở mức độ tin cây 95% thì cơng thức Rong
biển có thời gian nở hoa ngắn hơn so với đối chứng. Các công thức cịn lại khơng
có ý nghĩa về mặt thống kê . Sự phân hóa hoa và số lượng mầm hoa chịu ảnh
hưởng lớn của điều kiện trước khi trồng (chất lượng củ giống và điều kiện xử lý),
nhưng tốc độ phát dục của nụ và hoa lại chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện sau khi
trồng.
3.2. Ảnh hưởng của phân bón lá đến số lá trên cây hoa lily sorbonne
Lá là cơ quan làm nhiệm vụ quang hợp thực hiện chức năng tổng hợp chất
hữu cơ thông qua năng lượng ánh sáng mặt trời và tăng tích lũy chất khơ, cung cấp
hoạt động sống của cây. Lá còn là bộ phận chủ yếu của q trình thốt hơi nước,

xúc tiến các q trình sinh lý sinh hóa xảy ra trong cây. Tốc độ ra lá biểu hiện khả
năng quang hợp, tốc độ ra lá càng nhanh biểu hiện khả năng sinh trưởng của cây
càng mạnh, sự thay đổi về số lá của các cơng thức phân bón lá có ảnh hưởng đến
khả năng quang hợp, tích lũy chất khơ và năng suất.


×