Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận cao học, vấn đề KIỂM SOÁT QUYỀN lực CHÍNH TRỊ ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.81 KB, 36 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................................1
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ.....5
1.1. Quan niệm về quyền lực và kiểm soát quyền lực chính trị.............................5
1.2. Tính tất yếu của kiểm soát quyền lực chính trị....................................................12
1.3. Cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị.................................................................15
CHƯƠNG II. VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY...........................................................................................................23
2.1. Kiểm soát quyền lực chính trị trong Đảng Cộng sản Việt Nam.................23
2.2. Kiểm soát quyền lực chính trị trong Nhà nước................................................25
KẾT LUẬN......................................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................35


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm soát quyền lực chính trị là một nhu cầu khách quan trong xã hội
có giai cấp và là một nội dung quan trọng của nhà nước pháp quyền. Có thể
nói, ngay từ thời cổ đại đã có cơ chế kiểm soát quyền lực. Trải qua các thời
đại lịch sử, kiểm soát quyền lực chính trị từng bước được hoàn thiện cả
trên phương diện nhận thức và thực tiễn. Việc tổ chức quyền lực như thế
nào cho hợp lý, khoa học, phù hợp với điều kiện của xã hội để việc sử dụng
nó có hiệu quả luôn là vấn đề đặt ra ở mọi thời đại, là chủ đề quan tâm
nghiên cứu của các nhà tư tưởng chính trị. Ở mỗi một thời kỳ lịch sử các
nhà tư tưởng chính trị lại có những phương thức tổ chức và nắm giữ quyền
lực chính trị khác nhau.
Quyền lực chính trị cần phải kiểm soát xuất phát từ tính tập trung của
nó. Quyền lực qua quá trình tổ chức đã cô đọng lại, dồn vào nhóm nhỏ lãnh
đạo và cao hơn hết là một cá nhân. Quyền lực đó vận hành, chi phối các hoạt
động của nội bộ tổ chức hoặc vận hành trong hệ thống các quan hệ với chủ


thể khác. Chính do sự tập trung quyền lực quá mức hay phân tán đều có tác
động tiêu cực đến sự phát triển. Người (nhóm người) có quyền lực thường có
xu hướng tha hoá, lạm quyền, dẫn đến quan liêu, chuyên quyền độc đoán,
quyết định công việc theo ý chí chủ quan vì lợi ích riêng, kìm hãm sự sáng
tạo. Do tính chất tập trung của quyền lực như vậy nên nó dễ bị tha hoá, dẫn
tới sự chuyên quyền độc đoán xâm phạm đến tự do của con người. Vì vậy,
một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong thiết kế tổ chức thực thi
quyền lực là phải thiết lập được các cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị để
chống chuyên chế, đảm bảo tự do của con người.
Một trong những mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI xác
định là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Mục tiêu mà
1


chúng ta đặt ra có đạt được hay không phụ thuộc rất lớn vào việc chúng ta có
thiết kế và thực thi được những thể chế, cơ chế, có khả năng kiểm soát quyền
lực hay không, nhất là trong bối cảnh hiện nay, quyền lực của nhân dân đang
bị vi phạm nghiêm trọng. Vì vậy, kiểm soát quyền lực chính trị không chỉ là
một nguyên tắc để giữ và thực thi quyền lực chính trị mà còn là yêu cầu bức
xúc ở nước ta hiện nay.
Để góp phần làm rõ hơn về vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị nên
như thế nào trong điều kiện hiện nay ở nước ta, em xin lựa chon đề tài: “Vấn
đề kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận
môn “Quyền lực chính trị và cầm quyền” của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề kiểm soát quyền lực chủ yếu được đề cập trong
việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Các công trình nghiên cứu về chính trị,
quyền lực chính trị, quyền lực nàh nước đã luận giải vấn đề nguồn gốc của
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và quyền lực công dân. Một số công

trình tiêu biểu là: Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân, công dân với nhà nước
(1994) của Trần Ngọc Đường và Chu Văn Thành; Quyền lực nhà nước và
quyền công dân (2003) của Đinh Văn Mậu; Phân tích triết học những vấn đề
cơ bản về chính trị và khoa học chính trị (2006) của Nguyễn Hữu Khiên; Góp
phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay (2006) của Ngô Huy
Cương. Trong công tình nghiên cứu của mình, các tác giả đều có một nhận
định chung rằng quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân nhưng phải do
nhân dân không có khả năng thực thi trực tiếp nên phải uỷ nhiệm cho các đại
diện của mình. Thực tế vận hành của bộ máy nhà nước cũng đang đặt ra nhiều
vấn đề về tổ chức, về tính hiệu quả của hoạt động và khả năng lạm dụng
quyền lực nhà nước. Vì kiểm soát quyền lực nhà nước không phải là đối
tượng nghiên cứu trực tiếp nên các vấn đề đưa ra chưa được phân tích kỹ và
triển khai có tính hệ thống. Các kết quả nghiên cứu chỉ là những nguyên tắc

2


mang tính khái quát, chưa có sự triển khai cụ thể về mặt lý luận cũng như
thực tiễn của nước ta.
Các công trình nghiên cứu dưới giác độ của Chính trị học với dưới các
cách tiếp cận của khoa học pháp lý, chỉ rõ ra vai trò giám sát chủ yếu của các
chủ thể thực thi quyền lực như: Về quyền giám sát của Quốc hội ( 2000) của
Phạm Ngọc Kỳ; Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền (2004) do
Nguyễn Đăng Dung chủ biên; Một số vấn đề cơ bản về phòng ngừa và chống
tham nhũng (2004) của Viện khoa học thanh tra, Thể chế đảng cầm quyền và
một số vấn đề lý luận và thực tiễn (2004) của Đặng Đình Tân… Với đối tượng
nghiên cứu cụ thể, các công trình đều có những đóng góp nhất định cho việc
nâng cao vai trò giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc hội,
Toà án, Thanh tra Chính phủ. Tuy nhiên, hoạt động hiệu quả hoạt động của
các cơ quan này còn phụ thuộc rất lớn vào cấu trúc chung, vào các mối quan

hệ của chúng như một chính thể thống nhất của bộ máy nhà nước. Vì vậy, để
hoạt động có hiệu quả, phát huy tối đa vai trò kiểm soát của mỗi thành tố, còn
cần tới cách tiếp cận hệ thống, toàn diện để tránh được sự chồng chéo hoặc bỏ
trống trong kiểm soát quyền lực.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong nước đã nêu ra các khía
cạnh khác nhau của kiểm soát quyền lực. Đề tài dưới đây muốn tiếp cận vấn
đề dưới giác độ chính trị học và nghiên cứu một cách chỉnh thể hệ thống trên
cơ sở lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Tiểu luận đi sâu tìm hiểu, phân tích làm rõ những quan niệm, phương
thức kiểm soát quyền lực chính trị, đồng thời chỉ ra những tồn tại và đưa ra
một số giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát quyền lực ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, tiểu luận giải quyết các nhiệm vụ sau:

3


- Trình bày quan niệm về kiểm soát, mục tiêu, nội dung, phương thức
kiểm soát quyền lực chính trị.
- Nghiên cứu thực trạng kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam
hiện nay mà chủ yếu tập trung vào vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tiểu luận sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta
về chính trị, quyền lực chính trị, kiểm tra giám sát quyền lực chính trị.
Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: lôgíc lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh…
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận

gồm 2 chương tiết và 5 tiết

4


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
1.1. Quan niệm về quyền lực và kiểm soát quyền lực chính trị
1.1.1. Quan niệm quyền lực chính trị
Quyền lực là một loại quan hệ khách quan trong đời sống xã hội. Trong
các mối quan hệ xã hội, có quan hệ là sự tương tác mang tính chất xung đột,
chống đối lẫn nhau; có quan hệ là sự tương tác mang tính chất hợp tác, không
ai chống đối, tiêu diệt ai, có quan hệ tương tác mang tính chất chỉ huy - phục
tùng. Trong các loại quan hệ này, chỉ có quan hệ chỉ huy - phục tùng mới là
quan hệ quyền lực.
Quyền lực chính trị là phạm trù xuất phát, phạm trù trung tâm, xuyên
suốt những vấn đề cơ bản của chính trị học. Có thể coi Chính trị học là khoa
học về quyền lực chính trị, khoa học về đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền
lực chính trị. Tuy nhiên, trong lịch sử, quyền lực chính trị được hình thành và
luận giải theo nhiều cách khác nhau. Song, bất kể do nguồn gốc, cách thức
nào thì các quan niệm về quyền lực chính trị đều thống nhất với nhau rằng,
quyền lực chính trị là một yếu tố cần thiết của xã hội loài người.
Hiện nay, có nhiều cách quan niệm về quyền lực chính trị: Quyền lực
chính trị là quyền sử dụng sức mạnh cho mục đích chính trị; Quyền lực chính
trị là quyền lực xã hội nhằm giải quyết lợi ích giai cấp, dân tộc, nhân loại;
Quyền lực chính trị là quyền của một hay liên minh giai cấp - quyền lực chính
trị là quyền lực của các giai cấp, các nhóm xã hội, các lực lượng xã hội dùng
để chi phối, tác động đến quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước
nhằm tối đa hoá lợi ích của mình; Quyền lực chính trị là quyền lực của nhà
nước, các đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức bầu cử,

các cơ quan tự quản địa phương. Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, quyền lực
chính trị làn quyền lực của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội hoặc
của nhân dân (trong điều kiện chủ nghĩa xã hội). Nó nói lên khả năng của một
5


giai cấp nhằm thực hiện lợi ích khách quan của mình. Quyền lực chính trị
theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai
cấp khác.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, quyền lực chính trị là quyền quyết
định, định đoạt những vấn đề, công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và
hoạt động để bảo đảm sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp, một
chính đảng, tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì, quyền lãnh đạo, định
đoạt, điều khiển bộ máy nhà nước; xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội trong
một quốc gia và quan hệ chính trị - kinh tế - ngoại giao với các nhà nước khác
và tổ chức quốc tế, khu vực và thế giới, bảo đảm chiều hướng phát triển quốc
gia phù hợp với lý tưởng giai cấp.
Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, có thể hiểu: Quyền lực chính trị là
quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp, tập đoán xã hội
nhằm thực hiện sự thống trị chính trị, là năng lực áp đặt và thực thi các giải
pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình - chủ yếu thông qua đấu
tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Như vậy, quyền lực chính trị chỉ hình thành trong xã hội có giai cấp và
nhà nước. Trong xã hội đó, vị trí, vai trò của các giai cấp, các lực lượng xã hội
rất khác nhau, nên nguồn lực cũng khác nhau và đó là cơ sở để hình thành
quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị phụ thuộc vào sự phát triển của sản
xuất, của phân công lao động xã hội và do đó phụ thuộc vào cơ cấu xã hội.
Khi trình độ xã hội còn đơn giản thì quyền lực chính trị chỉ nằm trong tay vài
ba giai cấp cơ bản. Khi trình độ phát triển cao hơn, sự phân công lao động xã
hội trải rộng, cơ cấu xã hội phức tạp, sẽ xuất hiện quyền lực chính trị của

nhiều giai cấp, nhóm xã hội và các lực lượng xã hội khác. Trong xã hội không
còn giai cấp sẽ không còn quyền lực chính trị nữa. Khi phân công lao động xã
hội còn ở trình độ thấp, cơ cấu xã hội còn đơn giản, quyền lực chính trị của
giai cấp thống trị về kinh tế về cơ bản đã được tổ chức thành nhà nước. Quyền
lực chính trị phụ thuộc vào ba yếu tố khách quan và chủ quan: Thứ nhất, về
6


khách quan, quyền lực chính trị phụ thuộc vào sự phân công lao động xã hội,
vào vị trí, vai trò của các giai cấp trong cơ cấu xã hội; Thứ hai, về chủ quan,
quyền lực chính trị phụ thuộc vào khả năng sử dụng các nguồn lực của các
giai cấp, các lực lượng xã hội, tức khả năng tập trung quyền lực (tổ chức và
tập hợp lực lượng); Thứ ba, quyền lực chính trị phụ thuộc vào năng lực chi
phối, ảnh hưởng và sử dụng quyền lực nhà nước, nhằm đạt được mục đích của
giai cấp mình.
Tóm lại, quyền lực chính trị là cần thiết trong xã hội để: 1) Lập ra hệ
thống chính trị của xã hội; 2) Tổ chức đời sống chính trị thiết lập các quan hệ
chính trị; 3) Quản lý công việc của nhà nước và xã hội; 4) Lãnh đạo các cơ
quan quyền lực, các hoạt động chính trị và phi chính trị; 5) Kiểm soát các
quan hệ chính trị và các quan hệ xã hội; 6) Lập ra một kiểu cầm quyền nhất
định đặc trưng cho xã hội, một chế độ xã hội và chế độ nhà nước nhất định.
1.1.2. Quan niệm về kiểm soát quyền lực chính trị
Trong đời sống chính trị, pháp lý, chúng ta thường gặp các khái niệm
như: kiểm tra, giám sat, thanh tra, kiểm soát, kiểm sát. Các khái niệm này
thường được hiểu và sử dụng gần giống nhau trong nhiều trường hợp. Ở nước
ta, do chúng ta thường hiểu các khái niệm này gắn với chức năng, nhiệm vụ
của một cơ quan cụ thể nên sự phân biệt nội hàm của chúng không sáng rõ.
Chẳng hạn, như chúng ta thường hiểu kiểm tra là chức năng của Uỷ ban kiểm
tra Đảng, khái niệm giám sát gắn với chức năng giám sát của Quốc hội, thanh
tra gắn với chức năng của Thanh tra nhà nước và kiểm sát gắn với chức năng

của Viện kiểm sát. Việc phân biệt và sử dụng các khái niệm này trong nhận
thức cũng như hoạt động thực tiễn đôi khi vẫn còn lúng túng, nhất là chưa làm
rõ được mức độ sử dụng quyền lực khác nhau trong các khái niệm. Giám sát,
theo Từ điển tiếngViệt là theo dõi và kiểm tra có thực hiện đúng những điều
quy định không”; là “theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ”. Như vậy,
giám sát là quá trình theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ nào đó có đúng
các quy định không. Giám sát còn được hiểu là “xem xét và đàn hạch”. Theo
7


cách giải thích này, nội dung của khái niệm giám sát ngoài việc xem xét, kiểm
tra đối tượng có thực hiện đúng quy định không còn có việc luận tội, xử lý đối
tượng giám sát. Thanh tra là điều tra, xem xét làm rõ sự việc; kiểm tra là xem
xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét. Kiểm sát là tra xét. Kiểm soát là
kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của nhà nước; là “xem xét để phát
hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”
Từ sự tra cứu trên, chúng ta thấy các khái niệm kiểm tra, thanh tra,
giám sát, kiểm soát khá giống nhau về mặt nội dung. Khái niệm giám sát chứa
đựng nội dung của kiểm tra, kiểm sát là kiểm tra và giám sát. Có lẽ cũng
chính vì vậy mà trên thực tế chúng ta thấy các khái niệm này thường được
dùng cho lẫn nhau.
Như vậy, từ thực tiễn chính trị, dưới giác độ quyền lực chúng ta có thể
tách bạch các hoạt động giám sát, kiểm tra và kiểm soát. Trên cơ sở đó có thể
phân biệt các khái niệm này như sau:
Thứ nhất, khái niệm kiểm soát quyền lực được dùng để chỉ một quan hệ
mà ở đó người kiểm soát có quyền lực đối với đối tượng được kiểm soát.
Người kiểm soát có thể là chủ thể quyền lực, cũng có thể là người được chủ
thể quyền lực uỷ quyền. Người kiểm soát phải có quyền lực cao hơn đối với
đối tượng kiểm soát về phương diện mà nó kiểm soát. Người kiểm soát là
người ra lệnh, quyết định; còn đối tượng bị kiểm soát là người tuân lệnh, phục

tùng. Chẳng hạn, trong mô hình nhà nước nghị viện, kiểm soát của Quốc hội
với Chính phủ được thực hiện thông qua cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm Chính
phủ.
Thứ hai, các hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm sát ở cấp độ
thấp nhất là nói đến quá trình theo dõi, xem xét, điều tra xem sự việc diễn ra
có đúng quy định không. Ở cấp độ này, mục đích của chúng ta là hoạt động
nhận thức, đánh giá, đi đến kết luận đúng, sai. Ở cấp độ cao hơn, trên cơ sở
xem xét, đánh giá đó, chủ thể kiểm tra, giám sát có thể đưa ra các giải pháp
dưới hình thức kiến nghị, yêu cầu… ở cấp độ này, các chủ thể giám sát, kiểm
8


tra, thanh tra chỉ có thể đề nghị, kiển nghị khi đối tượng giám sát sai trái, song
không xó quyền xử lý. Nói cách khác mức độ sử dụng quyền lực ở đây là thấp
so với mực độ quyền lực trong khía niệm kiểm soát. Bởi vì, việc có xử lý vấn
đề hay không, quyết định như thế nào lại phụ thuộc vào chủ thể tiếp nhậ sự đề
nghị, kiến nghị này như thế nào. Ví dụ, sự giám sát, phản biện của nhân dân
đối với hoạt động của nhà nước là rất quan trọng, nhưng hoạt động này không
mang tính quyền lực nhà nước. Nhân dân chỉ có thể phản ánh, kiến nghị, phản
đối chứ không thể có quyền can thiệp, đình chỉ hoạt động sai trái của nhà
nước. Ở cáp độ cao nhất, hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát có quyền ra
các quyết định xử phạt hành chính của cơ quan thanh tra, các nghị quyêt chất
vấn của Quốc hội đối với đối tượng bị chất vấn…ở cấp độ này, hoạt động
giám sat, kiểm tra đã mang tính chất của hoạt động kiểm soát.
Như vậy, trong thực tiễn chính trị, hoạt động thanh tra, kiểm tra của các
cơ quan chức năng cũng có những hoạt động mang tính chất của kiểm soát.
Đó là sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan cấp trên đối với cấp dưới mà cơ
quan cấp trên có quyền xử lý cấp dưới, đối tượng kiểm tra theo những quy
định cụ thể. Tuy thuộc vào tổ chức, quyết định của từng nước khác nhau mà
các cơ quan đó hoạt động có tính chất là kiểm soát hay giám sát hoặc bao gồm

cả hai. Sự phân biệt, tách biệt ở đây chỉ có thể dựa trên dấu hiệu duy nhất là
khả năng sử dụng quyền lực trong tay các hoạt động đó. Hành động, hoạt
động nào cho dù khác cái tên là kiểm tra hay giám sát nhưng chủ thể hoạt
động có thể dùng được quyền lực của mình để can thiệp, ngăn chặn hoặc loại
bỏ đối tượng thì đó chính là hoạt động kiểm soát. Còn nếu cơ quan nào được
gán nhãn là có quyền kiểm soát nhưng lại chỉ có quyền khiếu nại, đề nghị,
kiến nghị thì hoạt động của cơ quan đó không phải là hoạt động kiểm soát mà
là hoạt động giám sát. Qua các hoạt động thực tiễn trên, có thể thấy khả năng,
mực độ sử dụng quyền lực là khác biệt trong các khái niệm kiểm soát, kiểm
tra, giám sát, thanh tra và đây chính là căn cứ để phân biệt các khái niệm này.

9


Có hai loại kiểm soát là tiền kiểm soát và hậu kiểm soát. Tiền kiểm soát
là hành động tự kiểm soát của từng chủ thể trước khi thự hiện hành động. Hậu
kiểm soát là hành động kiểm soát những gì đã xảy ra, đã được tiến hành.
Trong trường hợp này, chủ thể kiểm soát và đối tượng kiểm soát là những
pháp nhân khác nhau; chủ thể kiểm soát không tham gia vào nhưũng gì đã
diễn ra nên có khả năng tiến hành kiểm soát một cách khách quan, không
thiên vị.
Có nhiều cách phân loại kiểm soát. Căn cứ vào bản chất và đặc điểm
chủ thể kiểm soát, có loại hình kiểm soát thể chế do các cơ quan nhà nước
thực hiện và loại hình kiểm soát phi thể chế do các tổ chức, nhóm xã hội phi
chính thức thực hiện. Loại hình kiểm soát thể chế bao gồm kiểm soát chính
trị, kiểm soát tư pháp, kiểm soát hành chính và kiểm soát xã hội. Loại hình
kiểm soát phi thể chế bao gồm: kiểm soát do các phương tiện thông tin đại
chúng, dư luận xã hội thực hiện và kiểm soát do các tổ chức phi chính phủ,
các nhóm đại diện tiến hành.
Kiểm soát chính trị thuộc chức năng của Quốc hội và trước hết được

hiểu là một công cụ để hạn chế quyền lực hành pháp. Đối tượng của kiểm soát
chính trị có thể là một hoạt động chính trị chung, hoặc một quy định đã ban
hành… và đặc biệt là các thiết chế quyền lực. Ví dụ, khi Quốc hội thông qua
hay phủ quyết một pháp lệnh nào đó, tức là đã thực hiện sự kiểm soát đối với
văn bản pháp lý và cả quyền lực hành pháp - thiết chế đưa ra dự thảo pháp lệnh. Kiểm soát chính trị không có chế tài xử phạt, nhưng không vì thế mà
không có vai trò, vị trí và sức mạnh trong đời sống chính trị. Bản thân việc
đưa ra các quyền lực công cho công luận xem xét, đánh giá, phản biện, tự nó
đã có ý nghĩa hạn chế và kiểm soát chính trị đối với quyền lực hành pháp,
Quốc hội cần đảm bảo được quyền xác định quyền hạn của quan chức các
cấp, quyền hạn chính trị của nguyên thủ quốc gia và quyền quyết định, phê
chuẩn ngân sách.
Kiểm soát tư pháp là loại hình kiểm soát quyền lực nhằm đảm bảo tính
tối thượng của pháp luẩttong đời sống xã hội và trong hoạt động của các cơ
10


quan quyền lực. Đây được xem là loại kiểm soát cứng, với những quy định
nghiêm ngặt của pháp luật, khác với kiểm soát chính trị là loại hình kiểm soát
mềm đối với quyền lực. Kiểm soát tư pháp, với tư cách là hoạt động thuần tuý
tư pháp, chỉ do các lực lượng nghiệp vụ (thẩm phán, quan toà…) tiến hành
chức năng kiểm soát tư pháplà bác bỏ mọi quyết định và hành động của quyền
lực công cộng khi chúng trái với hiến pháp hoặc làm tổn hại đến các quyền
hiến định. Để triển khai hoạt động kiểm soát tư pháp, cần đảm bảo cả tiền
kiểm soát, kiểm soát thường xuyên và hậu kiểm soát. Thông thường, kiểm
soát tư phpá hướng và đảm bảo tính hiến định của các đạo luật quốc gia; các
văn bản quy phạm quy luật của chính quyền địa phương và các cơ quan pháp
lý của nhà nước; các hoạt động của chính quyền; các hiệp ước quốc tế; lệnh
ban bố tình trạng khẩn cấp; các luật cắt giảm quyền lực lập pháp; các trường
hợp có xung đột pháp luật; hiệu quả hoạt động của chính quyền hành pháp,
quyền tài phán quốc gia…

- Kiểm soát hành chính là loại hình kiểm soát do quyền lực hành pháp
tiến hành đối với hoạt động của tổ chức bộ máy của chính mình.
- Kiểm soát theo ngành dọc: Cơ quan cấp trên kiểm soát các thiết chế
cấp dưới.
- Kiểm soát tài chính: kiểm soát các nguồn thu, các khản chi và các
nguồn lực vật chất của chính quyền.
- Tự kiểm soát: mỗi thiết chế thường xuyên tự nhìn nhận, đánh giá,
phán xét mọi hoạt động của mình.
- Kiểm soát xã hội: là loại hình kiểm soát do nhân dân tiến hành một
cách trực tiếp, hoặc thông qua đại diện của mình. Để đảm bảo cơ chế dân chủ
tham dự của người dân, hiến pháp nhiều nước cụ thể hoá rằng, mọi công dân
đều có quyền tham gia vào quá trình hoạch định, triển khai và kiểm soát
quyền lực công. Chất vấn trực tiếp các quan chức trở thành một trong những
hình thức phổ biến nhất của kiểm soát xã hội.
11


1.2. Tính tất yếu của kiểm soát quyền lực chính trị
Thứ nhất, sự cần thiết của kiểm soát quyền lực chính trị xuất phát từ
tính chất cơ bản của quyền lực chính trị là tính tập trung.
Trong quan hệ quyền lực ở xã hội dân chủ, một cá nhân hay tổ chức
được bầu ra đại diện cho quyền lực của tập thể, cộng đồng. Quyền lực có
đươch do các thành viên thừa nhận, họ bầu ra để lãnh đạo chính họ, làm cho
hoạt động của họ được phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh lớn hơn. Do tính
chất tập trung mà quyền lực được tập trung vào tay một người hay nhóm
người nắm giữ. Vì vậy, thông qua các đại diện này quyền lực có thể thực hiện
một cách sai lệch mục đích, kém hiệu qảu bởi các nguyên nhân như: thiếu
hoặc bị mất thông tin cần thiết giữa người chủ quyền lực và người thực thi;
khả năng người hay nhóm người nắm giữ quyền lực không nắm bắt được mục
đích, lợi ích của tập thể; khả năng những người thực thi quyền lực không hiểu

rõ mục tiêu; khả năng hiểu đúng mục tiêu nhưng không sử dụng đúng cách,
hợp lý; khả năng các đại diện vì lợi ích riêng có thể lạm quyền, vượt quyền
làm tổn hại đến mục tiêu chung.
Thứ hai, ý chí chung của tập thể được một người hay nhóm người điều
khiển nên họ dễ dàng sử dụng cho mục đích riêng dẫn dến tha hoá quyền lực.
Mức độ tập trung càng cao thì quyền lực lại càng xa với cái gốc rễ ban đầu và
trở thành cái đối lập với nền tảng đó. Quyền lực càng tập trung càng dễ bị
biến dạng và tha hoá. Nhất là trong xã hội ngày nay chế độ sở hữu tư nhân thì
cơ sở, điều kiện của sự tha hoá diễn ra càng mạnh. Trong đời sống chính trị
thực tiễn, hiện tượng trì trệ trong xã hội ở những lĩnh vự và pham vi nhất
định, có thể có nguyên nhân là do không có chính sách, đường lối nào được
thực thi kịp thời, triệt để, thực tế là sự chiết chung, triệt tiêu lẫn nhau, mà
nguyên nhân của nó chính là thiếu sự tập trung quyền lực. Những người lãnh
đạo bị chi phối nhiều tâm lực cho việc củng cố địa vị, lo “giữ ghế” hoặc do
các mệnh lệnh chồng chéo nhau, từ đó dẫn đến sự thiếu trách nhiệm, thiếu sự
quyết đoán và sáng kiến cá nhân.
12


Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong tổ chực
bộ máy nhà nước. Trong các thể chế chính trị khac nhau, do bản chất chế độ
chính trị khác nhau dẫn đến nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của
cơ chế này có thể khác nhau, song về nguyên tắc không thực hiện nguyên tắc
này.
Mặt khác, do tập trung, ý chí chung phụ thuộc vào người cấm đầu, nên
yếu tố thủ lĩnh chính trị rất quan trọng. Người thủ lĩnh xấu sẽ lạm quyền, quan
liêu, chuyên quyền độc đoán, quyết định công việc theo ý chí chủ quan, kìm
hãm tự do sáng tạo. Dân chủ thái quá, người đứng đầu, cơ quan quyền lực
trung ương không có đủ sức mạnh phân tán ở các cá nhân, các địa phương sẽ
dẫn đến hỗn loạn, vô tổ chức, vô kỷ luật. Cả hai thái cực đều là kẻ thù của nền

tự do chân chính; vì vậy cần tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực tế
cho thấy, khi trao quyền cho các chủ thể thì cần thiết cũng phải có cơ chế
kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ, để đảm bảo quyền lực được thực thi
đúng đắn và hiệu quả.
Thứ ba, bản thân con người vẫn còn sự hạn hữu về trí tuệ. Khả năng
của con người là hữu hạn do bắt nguồn từ sự hữu hạn của lý tính, trí tuệ của
mình. Một người có trí tuệ siêu việt, là thánh thiện như thế nào đi nữa thì khả
năng sai lầm vẫn có thể xảy ra. Loài người không phải là thánh thần không
bao giờ sai lầm, chân lý của họ phần nhiều chỉ là các chân - lý - một - nửa. Sự
hữu hạn này là nguyên nhân dẫn tới những hạn chế của con người trong nhận
thức lý tính, nhận thức tính hợp lý, khoa học trong việc tổ chức và thực thi
quyền lực. Vì vậy, khả năng sai lệch mục đích trong việc nhận thức và thực
thi quyền lực chính trị, khả năng sử dụng quyền lực thiếu hiệu quả là có thể.
Hơn nữa, con người ngoài lý tính, trí tuệ còn có tình cảm, dục vọng mà
chúng luôn tác động và chi phối lẫn nhau. “Con người luôn chịu sự ảnh
hưởng của các loại tình cảm và dục vọng, thói quen hay tình cảm (thể hiện
qua các tư tưởng của Montesquie, Hàn Phi Tử, Mills, Madison ) thì khả năng
sai lầm càng lớn hơn. Từ thời cổ đại, Arixtot đã nhận xét rằng, quyền lực
13


được trao cho một ông vua, dù là thông minh và bác ái nhất, cũng sẽ nguy
hiểm chính vì sự bất thường của lý tính. Vì vậy, cho dù các cá nhân có lý tính,
họ vẫn phạm các sai lầm và “tự mình hành động, họ không nhất quán tuân
theo các quy luật nguyên thuỷ và ngay cả những luật lệ do họ đặt ra, họ cũng
chẳng luôn luôn tuân thủ”.
Thứ tư, do bản tính vị kỷ của con người. Với bản tính vị kỷ của
mình, con người “bị điều khiển bởi khát vọng, trong đó khát vọng quyền
lực vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt các khát vọng khác”. Trong tác
phẩm Leviathan, Hobbes mô tả con người như là những thực thể tư lợi

thâm căn cố đế, luôn tìm kiếm cho mình một vị thế mạnh mẽ để đảm bảo
được các lợi ích của mình. Sự xung đột về lợi ích giữa các cá nhân và cuộc
đấu tranh giành quyền lực để thể hiện các lợi ích đó là những cái xác định
đời sống xã hội loài người. Hobbes nhấn mạnh rằng, tinh thần vị kỷ trong
loài người, và một khát vọng không ngừng đối với quyền lực và điều này
chỉ mất đi khi con người chết.
Bản chất của con người có thể thay đổi được. Ngay cả những tác giả
quan niệm bản chất con người là tốt, có tinh thần vị tha thì tinh thần ấy cũng
bị thay đổi do hoàn cảnh lịch sử. Aristotle và Rousseau coi con người tự nhiên
có tinh thần hợp tác, hướng thiện. Sự vị kỷ cũng như nhiều đồi bại khác của
con người chỉ xuất hiện sau này, do các điều kiện lịch sử cụ thể tạo nên. Mác
cũng như Locke và Hobbes đều cho rằng, bản chất chảu con người là có thể
thay đổi được. Do bản chất này, không thể người được uỷ quyền luôn xứng
đáng với sự tìn nhiệm của cộng đồng. Vì vậy, cộng đồng cần phải có những
cách thức để kiểm soát người được uỷ thác quyền lực, có khă năng thay thế
khi người được uỷ thác quyền lực không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân.
Với tất cả những lý do trên, xã hội luôn cần có thể chế để kiềm chế,
kiểm soát quyền lực. Vấn đề đặt ra trong tổ chức, thực thi quyền lực làm sao
giải quyết được những nan giải, nghịch lý đó.
14


1.3. Cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị
1.3.1. Kiểm soát trong bộ máy nhà nước
Quyền lực nhà nước được xác định là một dạng đặc biệt của quyền lực
chính trị. Tính chất đặc biệt của quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ nó là
quyền lực công khai, thống nhất, bao trùm toàn xã hội, nó có đủ sức mạnh để
kiểm soát và ràng buộc các chủ thể theo nghĩa rộng nhất phải phục tùng.
Quyền lực nhà nước đặc thù sử dụng những biện pháp mang tính cưỡng chế

mang tính nhà nước. Bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên bản chất của
quyền lực nhà nước là ý chí của giai cấp cầm quyền và nó được hiện thực hoá
bởi bộ máy nhà nước.
Từ khi quyền lực nhà nước được xác lập, con người luôn tìm kiếm
những cách thức sử dụng quyền lực làm sao để cho quyền lực được tổ chức và
thực thi có hiệu quả nhất. Quá trình đó đã hình thành nên những cách lý giải
khác nhau về phương thức tổ chức quyền lực nhà nước: Tập trung thống nhất
quyền lực và phân chia quyền lực. Những cách lý giải này không thuần tuý
chỉ là tư duy mà còn được dựa trên những căn cứ khách quan.
Trong các xã hội chuyên chế, quyền lực nhà nước tâph trung trong tay
giai cấp thống trị một cách tuyệt đối với một bộ phận còn lại bị đẩy vào tình
trạng vô quyền. Đêm trường trung cổ đồng nghĩa với đêm trường chuyên chế.
Trong các nhà nước này, quyền lực nhà nước tập trung tuyệt đối vào người
đứng đầu quốc gia, nhà vua trở thành người quyết định tất cả, đứng trên luật
pháp. Chính vì vậy, việc thực thi quyền lực nhà nước trở thành hành động
chuyên quyền, độc đoán.
Nhìn lại lịch sử phát triển của nhà nước có thể thấy rằng, trong chế độ
chuyên chế, quyền lực của vua hay hoàng đế được tập trung một cách cao độ
gọi là tập quyền chuyên chế. Ở đó không có dân chủ, nhân dân không có
quyền tham gia thiết lập các cơ quan quyền lực nhà nước. Trong các nước ấy,
việc thịnh suy của cả quốc gia phụ thuộc vào bản lĩnh chỉ của một người. Lịch
sử cũng đã từng biết đến những vị vua anh minh, sáng suốt, hết lòng vì nước,
15


vì dân. Song, lịch sử cũng đã biết đến những ông vua dã man, tàn bạo. Ở đó,
ước mơ về sự tự do, bình đẳng quả là quá xa xôi đối với đa số nhân dân bởi vì
họ luôn bị sống trong xiềng xích.
Hiện nay, lý thuyết phân chia quyền lực nhà nước được áp dụng ở hầu
hết các nước tư sản. Tuy nhiên, ở mối nước khác nhau thì việc vận dụng trong

thực tiễn các lý thuyết này cũng khác nhau. Có những nước sự phân quyền
được áp dụng một cách triẹt để giữa các nhánh quyền lực (chính thể cộng hoà
tổng thống) cũng có nước việc phân quyền mang tính “mềm dẻo” hơn (các
chính thể cộng hoà đại nghị). Còn ở các nước xã hội chủ nghĩa, tập trung dân
chủ không chỉ là nguyên tắc hoạt động của Đảng cộng sản mà còn là nguyên
tắc hoạt động của bộ máy nhà nước.
Hệ thống các cơ quan thanh tra, kiểm tra giám sát
Nhiệm vụ xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật và áp dụng những
biện pháp xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật thuộc về một số cơ
quan nhà nước:
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước.
- Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công
dân ở địa phương.
- Các cơ quan quản lý nhà nước (Chính phủ, các bộ, Uỷ ban nhân dân,
sở, phòng, ban...) kiểm tra, thanh tra việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ
chức và cá nhân theo phạm vi, lĩnh vực quản lý thuộc thẩm quyền.
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền
địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân. Các
Viện Kiểm sát nhân dân địa phương kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các
cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân.

16


- Các tổ chức Thanh tra nhà nước thanh tra việc thực hiện chính sách
pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Quốc hội, hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình thông

qua các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân; xem xét báo cáo của các cơ quan nhà nước; xem xét
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân
có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, những người có trách nhiệm thực hiện
đúng pháp luật, có biện pháp để hoàn thành nhiệm vụ, chấm dứt những hành
vi trái pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật; biểu thị sự tín nhiệm đối với những
người do mình bầu ra.
Các cơ quan quản lý nhà nước tự kiểm tra, thanh tra hoặc uỷ quyền cho
những cơ quan, cá nhân thuộc quyền quản lý kiểm tra, thanh tra cho việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm; xử lý các vi phạm theo thẩm quyền.
Viện Kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân thông qua kiểm sát việc ban hành các văn
bản pháp quy của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính
phủ, các cơ quan chính quyền địa phương và kiểm sát việc chấp hành pháp
luật của các cơ quan nhà nước nói trên, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang và công dân. Khi thực hiện quyền kiểm sát của mình, Viện Kiểm sát
có quyền kháng nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị yêu cầu đình chỉ việc thi
hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ các văn bản vi phạm pháp luật, chấm dứt hành vi vi
phạm pháp luật; yêu cầu xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính đối với người vi
phạm.
Các tổ chức Thanh tra nhà nước khi thanh tra việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân
có quyền yêu cầu, kết luận, kiến nghị hoặc quyết định xử lý theo quy định của
pháp luật.
1.3.2. Kiểm soát quyền lực trong đảng
17


- Kiểm soát theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Đường lối tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản của
các tổ chức cộng sản và được trình bày trong điều lệ chính thức của các đảng
cộng sản. Theo điều lệ chính thức, tất cả các cơ quan lãnh đạo và các bí thư
các cấp được bầu bởi các đảng viên, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua đại hội
toàn thể đảng viên hay đại hội đại biểu đảng viên. Ý nghĩa dân chủ của
nguyên tắc này là thủ tục bầu cử này, cùng với quy tắc là các nghị quyết của
đảng chỉ có thể thông qua bởi cơ quan được bầu. Còn ý nghĩa tập trung là
quyết định của tổ chức đảng cấp trên là bắt buộc với các tổ chức đảng cấp
dưới và cuối cùng là bắt buộc mỗi đảng viên phải chấp hành. Mỗi vấn đề của
Đảng sẽ được thảo luận cho đến khi ra quyết định. Sau khi có quyết định, vấn
đề đó phải được thực hiện mà không có sự tranh cãi, chống đối đảng viên dù
có ý kiến khác khi phát biểu công khai vẫn phải nói theo nghị quyết chứ
không được theo ý mình.
Trong cuộc sống thực tiễn, ý nghĩa tập trung thể hiện rất mạnh mẽ.
Theo quy định chính thức, tổ chức được xây dựng từ dưới lên nghĩa là các
đại biểu cấp dưới sẽ quyết định trong việc bầu chọn lãnh đạo cấp trên
nhưng thực tế lại khác xa điều đó: chủ yếu từ trên xuống, các lãnh đạo cấp
trên sẽ là người quyết định ai sẽ là người được bầu chọn. Việc thực hiện
nguyên tắc này được một bộ phận nhà nghiên cứu về chính trị cho rằng đã
làm cho chủ nghĩa xã hội mà các đảng cộng sản theo đuổi biến thành chủ
nghĩa toàn trị. Một bộ phận nhà nghiên cứu khác phủ nhận giả thuyết này.
Karl Popper, nhà triết học người Áo cho rằng đây chính là nguyên nhân
làm cho xã hội do các đảng cộng sản nắm quyền trở thành một "xã hội
đóng" đối lập với xã hội mở (xã hội cho phép người dân bày tỏ sự bất đồng
chính kiến) mà ông đề xướng.
Có thể nói rằng, trong nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng thì việc
thực hành dân chủ trong hoạt động của Quốc hội là một vấn đề rất thời sự vừa
thiết thực vừa rất nhạy cảm và hệ trọng. Thực hành dân chủ trong hoạt động
18



của Quốc hội luôn gắn bó hữu cơ với việc đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và đối với Quốc hội nói riêng;
đồng thời cũng gắn bó hữu cơ với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội cùng với các cơ quan hành pháp và tư pháp. Nhìn lại các khóa Quốc
hội vừa qua, chúng ta thấy ngay rằng, nhiều đại biểu Quốc hội, kể cả đại biểu
Quốc hội là đảng viên và là cán bộ cao trung cấp của Đảng, đã rất thẳng thắn
phát biểu phản ánh ý kiến của cử tri và nhân dân cũng như ý kiến độc lập của
chính mình khi xem xét các dự án (kể cả dự án về nhân sự) của Chính phủ,
của Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội. Trong những ý kiến đó có
một số ý kiến khác với một vài vấn đề cụ thể trong chủ trương lãnh đạo ban
đầu của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị.
Ý kiến của đại biểu Quốc hội là phản ánh và đại diện cho ý kiến của cử
tri và nhân dân, Đảng và Chính phủ cần trân trọng lắng nghe và tiếp thu
những ý kiến đúng đắn, giải trình thuyết phục lại những vấn đề cần thiết, đảng
viên là đại biểu Quốc hội phải chấp hành sự giải trình đó của Đảng, đó chính
là chấp hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng trong hoạt động
của Quốc hội, cuối cùng dẫn tới ý Đảng, lòng Dân là một, không thể là hai,
không có lý do gì là hai được, là hai là xa lạ với bản chất chính trị của Đảng
và Nhà nước ta, là hai thì chủ trương đó của Đảng sẽ không được lòng Dân,
sớm muộn cũng sẽ bị thất bại.
Một Đảng duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị mà hiểu và làm như
chúng ta đã làm, đang làm và sẽ làm ngày một tốt hơn là thực hành dân chủ
thật sự, vấn đề sống còn của Đảng và Nhà nước ta. Thực hành dân chủ bao
giờ cũng phải gắn bó hữu cơ với giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng, tăng cường
pháp chế trong hệ thống Nhà nước và xã hội. Dân chủ càng cao thì kỷ cương
phép nước cũng phải càng cao.
-

Hệ thống kiểm tra, giám sát trong Đảng


19


Chủ trương, đường lối của Đảng, nghị quyết của tổ chức đảng và kỷ
luật đảng phải được thực hiện, thông qua công tác kiểm tra, giám sát của cấp
ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp, cùng với sự nhận xét của từng đảng viên. Như
vậy, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chính là điều kiện để công tác
kiểm tra, giám sát trong Đảng có kết quả, đồng thời đảm bảo tập trung đi đôi
với dân chủ. Việc thực hiện các nguyên tắc và chế độ sinh hoạt đảng có vai trò
quan trọng đối với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, cũng như bảo đảm
sự vững mạnh về tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng. Đồng thời, kiểm tra, giám sát là một khâu quan trọng trong hoạt động
lãnh đạo của Đảng, ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của Đảng, bảo đảm
cho sự lãnh đạo của Đảng hoàn chỉnh.
Đối tượng giám sát gồm: chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ
sở, chi bộ trong đảng bộ bộ phận), đảng uỷ bộ phận, đảng uỷ cơ sở, cấp uỷ,
ban thường vụ cấp uỷ, thường trực cấp uỷ các cấp; uỷ ban kiểm tra, các ban
đảng, văn phòng cấp uỷ; ban cán sự đảng, đảng đoàn; các tiểu ban, hội đồng,
tổ công tác do cấp uỷ các cấp lập ra.
Chủ thể giám sát gồm: chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ sở,
chi bộ trong đảng bộ bộ phận), đảng uỷ bộ phận, đảng uỷ cơ sở; cấp uỷ, ban
thường vụ cấp uỷ các cấp; uỷ ban kiểm tra, các ban đảng, văn phòng cấp uỷ.
Quyết định cũng nêu rõ hơn một bổ sung quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới
việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ cũng như tự phê bình và phê
bình, đó là: giám sát đối với tổ chức. Để bảo đảm thực hiện có kết quả công
tác kiểm tra, giám sát, cần thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, sinh hoạt thường kỳ, báo cáo đầy đủ. Mọi tổ chức đảng đều
phải thực hiện nghiêm túc việc sinh hoạt định kỳ, qua đó đánh giá hiệu quả
hoàn thành nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng và đảng viên, đồng thời góp

phần giữ vững tư cách đảng viên. Thông qua sinh hoạt thường kỳ, các tổ chức
đảng và mọi đảng viên có điều kiện đánh giá việc chấp hành Cương lĩnh,
Điều lệ Đảng, nghị quyết của cấp ủy, việc rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính
20


trị, giữ vững tư cách đảng viên cũng như ngày càng nâng cao trình độ chuyên
môn, để đảm bảo trình độ và phẩm chất của mỗi đảng viên nói riêng, tổ chức
đảng nói chung. Kết quả của các đợt sinh hoạt phải được báo cáo đầy đủ lên
cấp uỷ cấp trên trực tiếp. Đây chính là cơ sở quan trọng để cấp ủy và Ủy ban
Kiểm tra các cấp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của mình. Nếu có vấn
đề nảy sinh trong công tác, xuất hiện những biểu hiện không tốt về nhận thức
chính trị, tư cách đảng viên; hiệu lực lãnh đạo và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ
chính trị của tổ chức đảng giảm sút, cấp ủy cấp trên và Ủy ban Kiểm tra các
cấp có thể chấn chỉnh kịp thời.
- Thứ hai, thắt chặt mối liên hệ mật thiết với quần chúng, thực hiện
nghiêm các quy định của Đảng. Liên hệ mật thiết với quần chúng, nhằm giữ
vững cơ sở chính trị - xã hội, là thực hiện tôn chỉ, mục đích của mình, đồng
thời bảo đảm tính khách quan, khoa học cho việc ban hành các chủ trương,
đường lối, qua đó, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được khẳng định, mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân càng khăng khít. Đảng ta đang xây dựng cơ
chế tiến hành việc giám sát, phản biện xã hội đối với sự lãnh đạo của mình.
Điều đó có quan hệ khăng khít với yêu cầu Đảng giữ mối liên hệ mật thiết với
quần chúng, cũng là cơ sở thuận lợi cho hoạt động kiểm tra, giám sát theo
Điều lệ Đảng có kết quả.
- Thứ ba, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trong Đảng là yêu cầu quan trọng để công tác kiểm tra, giám sát đạt được kết
quả. Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén chống những quan điểm và tư
tưởng sai trái. Do đó, tự phê bình và phê bình phải tiến hành dựa trên sự phân
tích, đánh giá khách quan, khoa học những hoạt động của đảng viên, tổ chức

đảng. Việc đánh giá, xem xét trong tự phê bình và phê bình phải căn cứ vào
Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, Hiến pháp và pháp luật..., làm rõ được
mục đích chính, tác động cơ bản của những hoạt động của tổ chức đảng và
đảng viên. Những quan điểm đúng đắn, vì sự tiến bộ, phục vụ nhân dân phải
được ủng hộ, bảo vệ; quan điểm ngược lại phải bị phê phán, xóa bỏ.
21


Cố nhiên, không loại trừ đây đó, vẫn có nơi lợi dụng tự phê bình và phê
bình để mưu toan trục lợi, kéo bè kéo cánh, trù úm những cá nhân tốt. Để đẩy
lùi thói tệ này, không có cách nào khác là phải nêu cao tinh thần cộng sản,
kiên trì thực hiện tự phê bình và phê bình một cách trong sáng, bảo vệ những
quyền và lợi ích cơ bản của người đảng viên. Mọi đảng viên và tổ chức đảng
phải kiên trì, mọi nơi, mọi lúc đấu tranh với những cá nhân lợi dụng tự phê
bình và phê bình. Việc thực hiện nhuần nhuyễn hoạt động tự phê bình và phê
bình với yêu cầu cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số là điều
kiện cho công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy và Uỷ ban Kiểm tra các
cấp đạt được kết quả tốt.
Hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng không thể thực hiện hiệu quả
nếu tách rời việc thực hiện các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt đảng. Kỷ luật và
tính thống nhất trong Đảng dựa trên sự tự giác, tinh thần phấn đấu không
ngừng của mỗi đảng viên, tính chiến đấu không khoan nhượng trước những vi
phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng. Vì thế, giữ vững các nguyên tắc và
chế độ sinh hoạt đảng chính là xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, cũng là
thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát.

22


CHƯƠNG II

VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Kiểm soát quyền lực chính trị trong Đảng Cộng sản Việt Nam
Quyền kiểm tra, giám sát của Đảng được hiến định một cách rõ ràng,
cụ thể. Điều 4 hiến pháp năm 1992 xác định Đảng cộng sản Việt Nam là lực
lượng lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước và toàn xã hội. Đảng là đội tiên
phong của giai cấp công nhán Việt Nam, đại biểu trung thành của giai cấp
công nhân, nhân dân và cả dân tộc theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức
của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, Đảng đã định
hình và thiết lập các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong đó quan
trong nhất là Đảng tự kiểm soát mình và sự phân định chức năng lãnh đạo,
quản lý. Cơ chế kiểm soát của Đảng được thông qua các thiết chế của Đảng.
Hệ thống Uỷ ban kiểm tra Đảng các cấp, bao gồm các quy trình và các yếu tố
căn bản sau:
1) Cơ chế uỷ quyền, “cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng đều do bầu cử
lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo Đảng giữa hai
kỳ là Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội đại biểu toàn quốc bầu ra. Ban
Chấp hành Trung ương bầu Tổng bí thư, Bộ chính trị, Ban bí thư, Uỷ ban
kiểm tra Trung ương và Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra Trung ương.
Bộ Chính trị thực hiện lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết
Đại hội , Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương; quyết định những vấn đề về
chủ trương, chính sách. tổ chức cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội
dung các kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương, báo cáo công việc trước
hoặc sau yêu cầu của Ban chấp hành Trung ương
2) Hoạt động của Đảng đều tuân theo nguyên tắc đa số: thiểu số phục
tùng đa số. Nghị quyết chỉ có giá trị khi có hơn một nửa số thành viên tán
23



thành. Nguyên tắc tập trung: cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục
tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
3) Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Các cấp
uỷ đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát. Uỷ ban kiểm tra các cấp do cấp uỷ bầu, gồm một đồng chí
cùng cấp và một đồng chí ngoài cấp uỷ. Uỷ ban này làm việc theo chế độ tập
thể, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ cùng cấp và sự chỉ đạo, kiểm tra của uỷ ban
kiểm tra cấp trên.
Trước những yêu cầu phải chỉnh đốn, xây dựng Đảng, Đảng đã tăng
cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ lý luận, tính tự giác
cho đội ngũ đảng viên, Đảng chú trọng tăng cường công tác kiểm tra của
Đảng, đổi mới công tác cán bộ, thực hiện dân chủ trong Đảng.
Từ trước Đại hội VIII của Đảng, công tác kiểm tra cấp uỷ, của tổ chức
Đảng chưa trở thành chế độ. Điều lệ Đảng giao cho uỷ ban kiểm tra các cấp
có nhiệm vụ kiểm tra việc chấp hành đối với đảng viên và tổ chức Đảng cấp
dưới. Chỉ khi nào có vấn đề phức tạp, nổi cộm, cấp uỷ mới tổ chức kiểm tra.
Các ban của cấp uỷ các cấp hầu như không tiến hành công tác kiểm tra.
Để khắc phục bất cập trên, từ Đại hội VIII đến nay, công tác kiểm tra
đã được chú trọng và thực hiện thường xuyên. Phạm vi, nội dung kiểm tra
cũng được bổ sung, sửa đổi từ kiểm tra đến kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm,
kiểm tra tài chính.
Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay, công tác kiểm
tra Đảng đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ đường lối, quan điểm, các
nguyên tắc của Đảng; thúc đẩy thực hiện các nhiệm vụ chính trị; xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức Đảng; góp phần tăng cường, gìn giữ sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng... Bên cạnh những đóng góp tích cực thì công tác kiểm tra trong Đảng ở
nhiều cấp ủy còn yếu, chất lượng và hiệu quả kiểm tra chưa cao; nhiều khiếm
khuyết, hạn chế của đảng viên và tổ chức Đảng chậm được phát hiện; nhiều tổ


24


×