Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Phân tích yếu tố tác động đến lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.5 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN TRẦN THỊNH

PHÂN TÍCH YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
LỢI NHUẬN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN TRẦN THỊNH

PHÂN TÍCH YẾU TỐ TÁC
ĐỘNG ĐẾN LỢI NHUẬN CỦA
CÁC NGÂN HÀNG NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
MÃ NGÀNH: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRƢƠNG QUANG THÔNG


TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013


LỜI CAM ĐOAN


---0O0---



Để thực hiện luận văn “Phân tích yếu tố tác động đến lợi nhuận của các ngân
hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, tôi đã tự mình nghiên cứu,
tìm hiểu vấn đề, vận dụng kiến thức đã học và trao đổi với giảng viên hướng dẫn,
đồng nghiệp, bạn bè…
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả trong luận văn này là trung thực.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 7 năm 2013
Người thực hiện luận văn

NGUYỄN TRẦN THỊNH


LỜI CẢM ƠN


---0O0---



Để hoàn thành chương trình Cao học Tài chính ngân hàng và luận văn này,

tôi xin chân thành gởi lời cảm ơn đến:
Quý Thầy, Cô Trường Đại học Kinh tế TP.HCM đã hết lòng tận tụy, truyền
đạt những kiến thức quý báu trong suốt thời gian tôi học tại Trường, đặc biệt là Phó
giáo sư, Tiến sỹ Trương Quang Thông – Giảng viên Bộ môn Ngân hàng Quốc tế,
Khoa Tài chính Ngân hàng đã tận tình hướng dẫn phương pháp nghiên cứu khoa
học và nội dung đề tài.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn gia đình và các bạn học viên cao học Khóa
20, lớp đêm 11 phần đại cương và lớp Tài chính Ngân hàng đêm 6 đã cùng tôi chia
sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Trong quá trình thực hiện, mặc dù đã hết sức cố gắng để hoàn thiện luận văn,
trao đổi và tiếp thu những ý kiến đóng góp của Quý Thầy, Cô và bạn bè, tham khảo
nhiều tài liệu, song không tránh khỏi có những sai sót. Rất mong nhận được những
thông tin góp ý của Quý Thầy, Cô và bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT...................................................................... 5
1.1 Khái niệm về NHTM...................................................................................... 5
1.1.1 Bản chất của NHTM................................................................................... 5
1.1.2 Vai trò, chức năng của NHTM................................................................... 5
1.1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng............................................................... 6
1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán........................................................... 7
1.1.2.3 Chức năng tạo tiền................................................................................... 8
1.2 Khái niệm về lợi nhuận.................................................................................. 9
1.2.1 Khái niệm chung......................................................................................... 9
1.2.2 Khái niệm về lợi nhuận của NHTM......................................................... 10
1.3 Điều kiện niêm yết của các NHTM trên sàn giao dịch chứng khoán Việt
Nam..................................................................................................................... 10

1.4 Những yếu tố tác động đến lợi nhuận của ngân hàng thƣơng mại..........11
1.4.1 Yếu tố nội tại của ngân hàng................................................................. 11
1.4.1.1 Rủi ro tín dụng................................................................................. 11
1.4.1.2 Tính thanh khoản............................................................................ 12
1.4.1.3 Hiệu quả quản lý............................................................................. 13
1.4.1.4 Quy mô ngân hàng.......................................................................... 13
1.4.1.5 Tỷ lệ vốn........................................................................................... 14
1.4.2 Yếu tố kinh tế vĩ mô............................................................................... 15
1.4.2.1 Tăng trƣởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)...............................15
1.4.2.2 Tốc độ lạm phát............................................................................... 16
1.4.3 Các yếu tố khác......................................................................................... 17
1.4.3.1 Hình thức sở hữu ngân hàng................................................................. 17
1.4.3.2 Tính tập trung của thị trƣờng trong ngành ngân hàng......................18
1.5 Mô hình nghiên cứu đề nghị........................................................................ 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..................................................................................... 20


CHƢƠNG 2: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU.......................................................... 21
2.1 Đối tƣợng nghiên cứu và nguồn dữ liệu..................................................... 21
2.2 Lƣợng hóa các biến..................................................................................... 22
2.2.1 Biến phụ thuộc....................................................................................... 22
2.2.2 Biến độc lập............................................................................................ 23
2.2.2.1 Nhóm biến về yếu tố nội tại của ngân hàng...................................23
2.2.2.2 Nhóm biến về yếu tố kinh tế vĩ mô................................................. 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..................................................................................... 29
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................................ 30
3.1 Phân tích dữ liệu.......................................................................................... 30
3.2 Kết quả thực nghiệm.................................................................................... 31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..................................................................................... 33
CHƢƠNG 4: KIẾN NGHỊ DỰA TRÊN KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM............34

4.1 Về tính thanh khoản.................................................................................... 34
4.2 Về quy mô ngân hàng.................................................................................. 36
4.3 Về rủi ro tín dụng......................................................................................... 36
4.4 Về tỷ lệ vốn................................................................................................... 39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4..................................................................................... 39
KẾT LUẬN............................................................................................................ 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 42
PHỤ LỤC 1: SỐ LIỆU THU THẬP CỦA CÁC NHTM NIÊM YẾT TRÊN
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ NĂM 2006 – 2011
PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH LIKELIHOOD TEST TRONG PHẦN
MỀM EVIEWS
PHỤ LỤC 3: CÁC KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH TRONG PHẦN MỀM EVIEWS
PHỤ LỤC 4: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
1. NHTM
2. NHTW
3. NHNN
4.

ROA

5.

ROE


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỀ TÀI
Tran

g
Bảng 2.1: Tình hình lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết cuối năm 2011...............13
Bảng 3.1: Tóm tắt thống kê mô tả của các biến lựa chọn................................................... 22
Bảng 3.2: Định nghĩa, kí hiệu và kỳ vọng tác động của các biến độc lập đối với biến
phụ thuộc

29

Bảng 4.1: Ma trận tương quan của các biến độc lập trong mô hình................................ 30
Bảng 4.2: Kiểm định Likelihood Test......................................................................................... 30
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy............................................................................................................... 33


TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định các yếu tố tác động đối với
lợi nhuận của nhóm ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Các
yếu tố này được phân ra làm 03 nhóm chính, đó là: yếu tố nội tại ngân hàng, yếu tố
ngành và yếu tố vĩ mô. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tập trung chủ yếu
đó là xem xét tác động của nhóm yếu tố nội tại ngân hàng và nhóm yếu tố vĩ mô đối
với lợi nhuận. Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính để chạy dữ liệu bảng
gồm 09 ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn
từ 2006 – 2011.
Kết quả cho thấy: tính thanh khoản và rủi ro tín dụng có tác động tiêu cực lên
lợi nhuận, trong khi đó, quy mô ngân hàng và tỷ lệ vốn có mối quan hệ đồng biến
với lợi nhuận. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng GDP cũng là một trong những yếu tố
ảnh hưởng đến lợi nhuận. Cuối cùng, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hiệu quả
quản lý và tốc độ tăng trưởng lạm phát không thật sự ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân
hàng Việt Nam.



1

LỜI MỞ ĐẦU



Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Năm 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 5,03%, thấp nhất

trong một thập kỷ qua. Đây là hệ quả của việc ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát,
cụ thể về chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước thể hiện tính kiên định trong kiểm
soát lạm phát ngay từ đầu năm 2011 qua Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 01/03/2011 với
tăng trưởng tín dụng dưới 20%, tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 15% 16%; tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất so với tổng dư nợ tối đa 22% và
tối đa 16% vào 31/12/2011 và tiếp tục kiên định chính sách đó cho đến nửa đầu năm
2012 trước khi giảm lãi suất điều hành lần thứ nhất vào ngày 13/03/2012. Trong bối
cảnh khó khăn như vậy, hiệu quả hoạt động của các ngân hàng cũng bị ảnh hưởng
rất nhiều, cụ thể hàng loạt ngân hàng đã bị suy giảm lợi nhuận, cũng như không đạt
được lợi nhuận mục tiêu được đề ra từ đầu năm. Tuy nhiên, yếu tố về vĩ mô cũng
chỉ là một trong những yếu tố có thể tác động đến lợi nhuận ngân hàng, bên cạnh
đó, nhóm yếu tố nội tại ngân hàng được xem là những yếu tố quan trọng góp phần
vào việc cải thiện lợi nhuận và tình hình hoạt động của ngân hàng.
Nói khác hơn, lợi nhuận luôn là yếu tố sống còn của một doanh nghiệp, trong
lĩnh vực ngân hàng, điều này cũng không là ngoại lệ. Đứng trên góc độ vi mô và vĩ
mô, lợi nhuận luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng. Ở cấp độ vi mô, lợi nhuận chính là điều kiện thiết yếu và là
nguồn vốn rẻ nhất của một tổ chức tín dụng. Lợi nhuận ngân hàng không chỉ là kết
quả của hoạt động kinh doanh mà còn là tính thiết yếu cho hoạt động thành công
của ngân hàng trong giai đoạn cạnh tranh quyết liệt trên thị trường tín dụng. Vì vậy,
mục tiêu cơ bản của các nhà quản trị ngân hàng là phải đạt được lợi nhuận như là
tính tất yếu của bất kỳ hoạt động kinh doanh nào. Ở cấp độ vĩ mô, một hệ thống

ngân hàng tốt và làm ăn có hiệu quả có khả năng chống chọi tốt với những cú sốc
tiêu cực và đóng góp tích cực vào sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia.


2

Chính vì vậy, việc nghiên cứu và phân tích các yếu tố tác động đến lợi nhuận
của ngân hàng nhằm đưa ra các giải pháp và kiến nghị giúp cho các ngân hàng niêm
yết nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung có thể nâng cao lợi nhuận
trong hoạt động kinh doanh là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết và thực tiễn hiện nay.



Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện xây dựng mô hình đo lường sự tác động của 02 nhóm

yếu tố: các yếu tố đặc thù của ngân hàng (yếu tố nội tại) và yếu tố thuộc về kinh tế
vĩ mô (yếu tố bên ngoài) đến lợi nhuận của ngân hàng, đề tài đặt ra các mục tiêu cụ
thể như sau:
-

Xác định các nhân tố tác động đến lợi nhuận ngân hàng dựa trên các nghiên

cứu trước đây tại Việt Nam và thế giới.
-

Đo lường mức độ tác động của các yếu tố đến lợi nhuận của nhóm ngân

hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng quan tâm đến việc đưa ra một quan điểm nhằm

giúp cho các nhà quản trị ngân hàng có thể tìm ra giải pháp, cũng như đề ra chiến
lược kinh doanh hiệu quả nhất tùy vào khả năng nội tại và diễn biến của nền kinh tế.
Để đạt được các mục tiêu này, nghiên cứu cần trả lời các câu hỏi sau đây:
1.
2.

Các yếu tố nào ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng?

Thang đo nào để đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến lợi nhuận

ngân hàng?



Phƣơng pháp, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện thông qua 02 giai đoạn chính: (1) nghiên cứu sơ

bộ được thực hiện thông qua việc thu thập các nghiên cứu trước đây liên quan đến
đề tài nghiên cứu, từ đó xác định cơ sở lý luận, các yếu tố tác động đến lợi nhuận
ngân hàng, sau đó, tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu dựa vào các yếu tố đã
xác định được; (2) thu thập số liệu thông qua các báo cáo tài chính được công bố


3

của nhóm ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tiếp theo, sử
dụng phần mềm thống kê để chạy mô hình nhằm đo lường mức độ tác động của các
yếu tố đến lợi nhuận ngân hàng.
Đối tượng nghiên cứu chính là các yếu tố tác động đến lợi nhuận ngân hàng,
cụ thể ở đây là nhóm ngân hàng được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt

Nam.
Do hạn chế về việc thu thập số liệu đối với toàn hệ thống ngân hàng và bên
cạnh đó, theo số liệu thu thập đến cuối năm 2011, nhóm ngân hàng niêm yết đã
chiếm phần lớn thị phần trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, cụ thể: 44% đối với
thị phần dư nợ tín dụng và 74,8% đối với thị phần huy động, vì vậy, phạm vi nghiên
cứu của đề tài chỉ là nhóm ngân hàng hiện đang được niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam. Mặt khác, từ tháng 8 năm 2012, ngân hàng ngân hàng Nhà
Hà Nội (Habubank) đã chính thức sáp nhập vào ngân hàng ngân hàng Sài Gòn - Hà
Nội (SHB), do đó, để đảm bảo tính thống nhất về mặt thời gian của các mẫu khảo
sát, luận văn chỉ thu thập số liệu từ báo cáo tài chính (được công bố chính thức) của
09 ngân hàng niêm yết, bao gồm: ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB), ngân
hàng Công thương Việt Nam (CTG), ngân hàng Sài Gòn Thương tín (STB), ngân
hàng Á Châu (ACB) và ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB), ngân hàng Xuất nhập
khẩu Việt Nam (EIB), ngân hàng Quân đội (MBB), ngân hàng Nam Việt (NVB),
ngân hàng Nhà Hà Nội (HBB), trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2011.



Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động như thời gian vừa qua, lợi

nhuận của ngân hàng đã suy giảm rất nhiều, một phần do tác động từ sự suy thoái
chung của nền kinh tế, nhưng phần còn lại vẫn là do sự điều hành của chính các
ngân hàng. Có quá nhiều yếu tố có thể gây ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng.
Vì vậy, nghiên cứu sẽ là một sự xác định rõ ràng và đáng tin cậy nhằm chỉ ra
đâu là yếu tố tác động trực tiếp đến lợi nhuận của các ngân hàng, để từ đó, các nhà


4


điều hành chính sách, các chuyên gia kinh tế và trên hết là các nhà quản trị tại các
ngân hàng có thể hoạch định những chiến lược kinh doanh, cũng như các giải pháp
nhằm tháo gỡ khó khăn và nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng.



Kết cấu của báo cáo nghiên cứu
-

Chương 1: Cơ sở lý thuyết

-

Chương 2: Thiết kế nghiên cứu

-

Chương 3: Phân tích kết quả nghiên cứu

-

Chương 4: Kiến nghị dựa trên kết quả thực nghiệm


5

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Khái niệm về NHTM
1.1.1 Bản chất của NHTM

Khái niệm chung về ngân hàng đó là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh
về tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo
lãnh, cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. Tuy nhiên,
theo luật của các tổ chức tín dụng tại Anh thì NHTM là tổ chức tài chính trực tiếp
giao dịch với công chúng để huy động các khoản tiền gửi, cho vay và cung cấp các
dịch vụ tài chính khác cho công chúng. Tại Mỹ, cụ thể là theo FED (Federal
Reserve System – Cục dự trữ liên bang) thì NHTM là một tổ chức tài chính dưới
dạng một công ty cổ phần, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, sẵn sàng cho việc cho
vay.
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua thì
ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các
loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác xã.
1.1.2 Vai trò, chức năng của NHTM
- Về vai trò: các NHTM là lực lượng chủ yếu trong việc thực thi các quan hệ
tín dụng, biến vai trò khách quan của tín dụng thành hiện thực trong nền kinh tế, đáp
ứng nhu cầu vốn để phát triển kinh tế và góp phần quan trọng vào việc hình thành
cơ cấu kinh tế hợp lý, nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội. Các NHTM có vai trò
trung gian, chuyển các khoản tiết kiệm tiền nhàn rỗi tạm thời thành tín dụng đầu tư;
vai trò thanh toán; vai trò bảo lãnh; vai trò đại lý; vai trò thực hiện chính sách tiền
tệ.


6

- Về chức năng: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu,
thường xuyên là huy động tiền gửi của khách hàng để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Quá trình hình thành và phát triển của

NHTM gắn liền với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Ngày nay,
NHTM đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng và trở thành một loại
hình ngân hàng chiếm vị trí chủ yếu trong hệ thống các ngân hàng trung gian. Chức
năng cụ thể của NHTM như sau:
1.1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng
Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã
hội đã làm phát sinh mâu thuẫn giữa hiện tượng vốn tiền tệ nhàn rỗi từ chủ thể kinh
tế này, trong khi chủ thể kinh tế khác có nhu cầu lại thiếu vốn, cần được bổ sung.
Giải quyết vấn đề này, NHTM đóng vai trò là trung gian tín dụng, trở thành “cầu
nối” để người có vốn và người cần vốn gặp nhau.
Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế, NHTM hình thành nên quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền
kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn.
Như vậy, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người
cho vay. Với chức năng này, NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong
quan hệ. Cụ thể:
Đối với bản thân NHTM, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho mình từ chênh
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này
chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của NHTM.
Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi của mình do
ngân hàng trả lãi tiền gửi cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an
toàn và cung cấp các phương tiện thanh toán.
Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi
tiêu, thanh toán mà không phải tốn nhiều chi phí về sức lực, thời gian cho việc tìm


7

kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp.
Đối với nền kinh tế, chức năng này của NHTM có vai trò quan trọng trong

việc thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế vì nó đã đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo
quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất tạo
thêm việc làm cho người lao động. Với chức năng này, NHTM đã tối thiểu hóa chi
phí thông tin và chi phí giao dịch trong nền kinh tế, kích thích quá trình luôn chuyển
vốn thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
NHTM vì nó phản ánh bản chất của NHTM là đi vay để cho vay, nó quyết định sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời cũng là cơ sở để thực hiện các chức
năng khác.
1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán
Trên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng, NHTM thực hiện các khoản thanh
toán chi trả cho khách hàng. Thay cho việc thanh toán trực tiếp, các doanh nghiệp,
cá nhân… Có thể nhờ NHTM thực hiện những công việc này dựa trên những khoản
tiền mà họ đã gửi ở ngân hàng, thông qua việc mang tiền của người phải trả chuyển
cho người được trả bằng nhiều hình thức khác nhau với kỹ thuật ngày càng tiên tiến
và thủ tục ngày càng đơn giản. Ở đây, NHTM đóng vai trò là người thủ quỹ cho các
doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của họ.
NHTM thực hiện chức năng thanh toán trên cơ sở thực hiện chức năng trung
gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi ngân hàng đã mở cho khách hàng
tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. Đó chính là tiền để khách hàng
thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí trung gian thanh toán.
Việc các NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to
lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này các NHTM cung cấp cho khách
hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu,
thẻ rút tiền, thẻ thanh toán… tùy theo nhu cầu khách hàng có thể chọn cho mình
phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ


8


tiền trong túi, không phải mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người thanh toán dù ở
gần hay xa, họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản
thanh toán này. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm rất nhiều chi phí về thời
gian, tiền bạc, lại đảm bảo được thanh toán an toàn hơn so với thanh toán trực tiếp.
Như vậy, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán,
tốc độ chuyển vốn, đồng thời việc thanh toán qua ngân hàng đã giảm được lượng
tiền mặt lưu thông, góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn,
đếm nhận, bảo quản tiền…
Đối với NHTM, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng
thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay
của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức
năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của NHTM.
1.1.2.3 Chức năng tạo tiền
Xuất phát từ chức năng trung gian tín dụng và thanh toán mà các NHTM có
khả năng “tạo tiền”. Đó là khả năng mở rộng tiền gửi nhiều lần. Từ một khoản tiền
gửi ban đầu vào một ngân hàng, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong một hệ
thống NHTM, số tiền gửi ban đầu đã tăng lên gấp bội mức mở rộng tiền gửi phụ
thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi (còn được gọi là số nhân tiền). Hệ số mở rộng tiền
gửi của NHTM chịu sự tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ
vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng.
Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Một khối lượng
tín dụng mà NHTM cho vay làm tăng khả năng tạo tiền của NHTM, từ đó làm tăng
lượng tiền cung ứng cho quá trình giao dịch trong nền kinh tế.
Thực hiện tốt các chức năng thanh toán đó, một mặt NHTM đã có vai trò rất
lớn trong việc giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư, thực hiện tốt kế hoạch sản xuất,
kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời góp phần phân bố hợp lý các
nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế



9

theo một cơ cấu ngành và khu vực thích hợp. Mặt khác, với vai trò cầu nối trong
việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế, NHTM tạo ra
môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW. Thông qua hoạt động
của NHTM và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả,
nhu cầu tiền mặt, lãi suất, tỷ giá… của nền kinh tế được phản hồi về cho NHTW,
giúp cho NHTW có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể.
Ngoài ra, NHTM là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các nước, góp
phần đắc lực cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.
1.2 Khái niệm về lợi nhuận
1.2.1 Khái niệm chung
Lợi nhuận, trong kinh tế học, là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ
đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ
hội; là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Lợi nhuận, trong kế
toán, là phần chênh lệch giữa giá bán và chi phí sản xuất. Sự khác nhau giữa định
nghĩa ở hai lĩnh vực là quan niệm về chi phí. Trong kế toán, người ta chỉ quan tâm
đến các chi phí bằng tiền, mà không kể chi phí cơ hội như trong kinh tế học. Trong
kinh tế học, ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận sẽ bằng 0. Chính sự khác
nhau này dẫn tới hai khái niệm lợi nhuận: lợi nhuận kinh tế và lợi nhuận kế toán.
Lợi nhuận kinh tế lớn hơn 0 khi mà chi phí bình quân nhỏ hơn chi phí biên,
cũng tức là nhỏ hơn giá bán. Lợi nhuận kinh tế sẽ bằng 0 khi mà chi phí bình quân
bằng chi phí biên, cũng tức là bằng giá bán. Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo
(xét trong dài hạn), lợi nhuận kinh tế thường bằng 0. Tuy nhiên, lợi nhuận kế toán
có thể lớn hơn 0 ngay cả trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo.
Một doanh nghiệp trên thị trường muốn tối đa hoá lợi nhuận sẽ chọn mức sản
lượng mà tại đó doanh thu biên bằng chi phí biên. Tức là doanh thu có thêm khi bán
thêm một đơn vị sản phẩm bằng phần chi phí thêm vào khi làm thêm một đơn vị sản
phẩm. Tại điểm doanh thu biên bằng chi phí biên, doanh nghiệp lỗ ít nhất.



10

1.2.2 Khái niệm về lợi nhuận của NHTM
NHTM có 02 nghiệp vụ chủ yếu: huy động và cho vay. Trong nghiệp vụ huy
động, ngân hàng trả lợi tức cho người nhận tiền, còn trong nghiệp vụ cho vay, ngân
hàng phải thu lợi tức của người đi vay. Về nguyên tắc, lợi tức cho vay phải cao hơn
lợi tức huy động.
Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức huy động sau khi trừ đi những chi
phí về nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập khác về kinh doanh
tư bản tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.
1.3 Điều kiện niêm yết của các NHTM trên sàn giao dịch chứng khoán Việt
Nam
Các NHTM cũng là doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, chính vì vậy
để được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán, cụ thể là trên sàn Chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh và sàn Chứng khoán Hà Nội, các NHTM cần đáp ứng đầy
đủ các điều kiện được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành. Gần đây nhất
chính là Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ quy định chi tiết
về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều Luật Chứng khoán mà Chính phủ vừa ban hành.
Ngoài ra, Nghị định 58 cũng quy định thêm các điều kiện để doanh nghiệp
được lên sàn Chứng khoán TPHCM, đó là: phải có 2 năm hoạt động dưới hình thức
công ty cổ phần tính đến thời điểm đăng ký niêm yết; tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên
vốn chủ sở hữu (ROE) năm gần nhất tối thiểu là 5%; hoạt động kinh doanh của 2
năm liền trước phải có lãi; không có nợ quá hạn trên 1 năm; không lỗ lũy kế đến
năm đăng ký niêm yết.
Đồng thời, tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất
300 cổ đông (không phải cổ đông lớn) nắm giữ, trừ trường hợp doanh nghiệp
Nhà
nước chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.

Đối với sàn chứng khoán Hà Nội, công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 30 tỷ


11

đồng trở lên mới được phép niêm yết. Điều kiện để được niêm yết chỉ cần 1 năm
hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần tính đến thời điểm đăng ký niêm yết và
tối thiểu 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông
nắm giữ.
Các doanh nghiệp đã niêm yết trước ngày 15/9/2011 không đáp ứng được
điều kiện niêm yết theo quy định của Nghị định 58 vẫn được tiếp tục niêm yết và
không phải chuyển sàn theo điều kiện niêm yết mới. Nghị định 58 cũng yêu cầu các
công ty chưa đủ điều kiện niêm yết trên 2 sở, công ty đại chúng chào bán chứng
khoán ra công chúng chưa niêm yết phải đăng ký giao dịch chứng khoán trên
Upcom trong thời hạn 1 năm kể từ ngày chào bán.
Đến quý 2/2009 có tất cả 5 Ngân hàng thương mại niêm yết trên các sàn giao
dịch chứng khoán Việt Nam. Đến cuối năm 2011 đã có 9 ngân hàng đang được niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, bao gồm ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam (VCB), ngân hàng Công thương Việt Nam (CTG), ngân hàng Sài Gòn Thương
tín (STB), ngân hàng Á Châu (ACB) và ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB), ngân
hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (EIB), ngân hàng Quân đội (MBB), ngân hàng Nam
Việt (NVB), ngân hàng Nhà Hà Nội (HBB). Tuy nhiên, đến ngày 28/8/2012 thì
ngân hàng Nhà Hà Nội đã chính thức sáp nhập vào ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội,
đồng thời cổ phiếu của ngân hàng này cũng hủy niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khoán Việt Nam.
1.4 Những yếu tố tác động đến lợi nhuận của ngân hàng thƣơng mại
1.4.1 Yếu tố nội tại của ngân hàng
1.4.1.1 Rủi ro tín dụng
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng rủi ro tín dụng là một biến số quan
trọng trong nghiên cứu lợi nhuận ngân hàng. Thực tế, các tổ chức phi tài chính chịu

rủi ro tín dụng thấp hơn các tổ chức tài chính. Cooper và cộng sự (2003) thấy rằng
những thay đổi trong danh mục cho vay của ngân hàng có thể được phản ánh bởi


12

những thay đổi trong rủi ro tín dụng, do đó doanh số của các tổ chức tín dụng cũng
có thể bị ảnh hưởng. Duca và McLaughlin (1990) chứng minh rằng sự thay đổi của
rủi ro tín dụng là lý do chính trong việc giải thích các biến động trong lợi nhuận
ngân hàng, vì lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm khi rủi ro tín dụng tăng lên. Do đó,
chất lượng các khoản cho vay là tiêu chí quan trọng hơn số lượng. Ở một khía cạnh
nào đó thì nghiên cứu của Bourke (1989) cũng có sự tương đồng với nghiên cứu của
Duca và McLaughlin (1990) vì ông chỉ ra rằng lợi nhuận của các ngân hàng sẽ thấp
hơn khi họ phải đối mặt với các khoản vay có nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Trong cùng một cách tiếp cận, Miller và Noulas (1997) đã cho thấy rủi ro tín dụng
có tác động tiêu cực đến lợi nhuận. Mối quan hệ nghịch biến phản ánh điều đó khi
danh mục cho vay của các ngân hàng trở nên rủi ro, các ngân hàng phải trích dự
phòng rủi ro nhiều hơn, từ đó ảnh hưởng đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Vì vậy,
các ngân hàng với các khoản cho vay có rủi ro tín dụng cao hơn sẽ có lợi nhuận thấp
hơn.
1.4.1.2 Tính thanh khoản
Bourke (1989) đã sử dụng tỷ số tài sản lưu động (tổng tiền mặt, tiền gửi ngân
hàng, đầu tư chứng khoán) trên tổng tài sản để đo lường tính thanh khoản. Trong
nghiên cứu của mình, ông đã khai thác dữ liệu từ các báo cáo tài chính của một mẫu
gồm 90 ngân hàng từ 12 quốc gia trong mười năm từ 1972 đến 1981. Kết quả này
cho thấy rằng tính thanh khoản có tác động cùng chiều lên lợi nhuận, gia tăng tỷ số
này sẽ nâng cao lợi nhuận của ngân hàng. Molyneux và Thornton (1992) đã mở
rộng các phương pháp luận của Bourke (1989) bằng cách sử dụng tỷ số tài sản lưu
động trên tổng tài sản để đo lường rủi ro thanh khoản, kết quả nghiên cứu đã cho
thấy rằng có một mối quan hệ ngược chiều giữa tính thanh khoản và lợi nhuận trong

số 18 nước Châu Âu từ năm 1986 đến 1989. Sự trái chiều giữa các kết quả thực
nghiệm của Molyneux và Thornton (1992) và Bourke (1989) có thể được giải thích
bởi sự khác biệt trong độ nhạy cảm của nhu cầu vay vốn tại các khoảng thời gian
khác nhau.


13

1.4.1.3 Hiệu quả quản lý
Hầu hết các nghiên cứu đều khẳng định tỷ lệ chi phí hoạt động tác động tiêu
cực lên lợi nhuận của các ngân hàng (Bourke, 1989). Nói chung, việc giảm chi phí,
nghĩa là hiệu quả kinh doanh được cải thiện, sẽ làm tăng lợi nhuận của các ngân
hàng. Ngược lại, Molyneux và Thornton (1992) cho thấy một mối quan hệ cùng
chiều giữa tỷ lệ chi phí nhân viên với tổng tài sản và tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên
tài sản. Các kết quả cho thấy trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, sự gia tăng
chi phí lương để đầu tư vào nguồn nhân lực có thể làm tăng lợi nhuận của các ngân
hàng. Davydenko (2011) chứng minh rằng lợi nhuận của các ngân hàng Ukraina có
tương quan âm với tỷ lệ chi phí quản lý trên tổng tài sản. Mối quan hệ ngược chiều
này cho thấy sự yếu kém trong khả năng quản lý chi phí ngoài trả lãi của các ngân
hàng Ukraina. Mối quan hệ này cũng cho thấy rằng sự cạnh tranh buộc các ngân
hàng Ukraina phải tiến hành cắt giảm chi phí, thay vì tăng lợi nhuận bằng cách tăng
phí hoặc lãi suất đối với khách hàng. Davydenko cũng lập luận rằng nếu một ngân
hàng quản lý chi phí ngoài trả lãi một cách hiệu quả thì khi có sự gia tăng chi phí,
ngân hàng có thể gia tăng biên độ lãi suất, từ đó sẽ nâng cao lợi nhuận.
1.4.1.4 Quy mô ngân hàng
Quy mô ngân hàng là một trong các yếu tố nội bộ quyết định lợi nhuận vì
trên thực tế các ngân hàng luôn cố gắng mở rộng kinh doanh của mình bằng cách
tăng tài sản và nguồn vốn. Nói chung, các ngân hàng lớn có thể đạt được lợi nhuận
cao từ lợi thế kinh tế theo quy mô trong hệ thống ngân hàng. Biến số quy mô cũng
bao hàm các yếu tố về chi phí, đa dạng hóa sản phẩm và rủi ro. Một mối quan hệ

cùng chiều giữa quy mô và lợi nhuận của ngân hàng là kết quả thực nghiệm từ các
nghiên cứu của Smirlock (1985).
Có một lượng lớn các nghiên cứu về ảnh hưởng của lợi thế kinh tế theo quy
mô đến lợi nhuận ngân hàng. Akhavein và cộng sự năm 1997; Bourke năm 1989;
Molyneux và Thornton năm 1992; Bikker và Hu năm 2002; Goddard và cộng sự
năm 2004 chứng minh rằng lợi thế kinh tế theo quy mô là kết quả của mối quan hệ


14

cùng chiều giữa quy mô và lợi nhuận của ngân hàng. Mặt khác, lợi nhuận của các
ngân hàng lại có quan hệ ngược chiều với khả năng đa dạng hóa. Các ngân hàng tận
dụng lợi thế của sự đa dạng hóa nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng, nhưng nó cũng có
thể làm giảm lợi nhuận. Trong một nghiên cứu khác, Boyd, J.H. và D.E. Runkle
(1993) đồng ý rằng khái niệm lợi thế kinh tế theo quy mô liên quan đến quy mô của
ngân hàng. Về lý thuyết, nếu lợi thế kinh tế theo quy mô tồn tại, các tổ chức tài
chính lớn hơn có thể cung cấp dịch vụ hiệu quả hơn với chi phí thấp hơn, trong điều
kiện các yếu tố khác không đổi.
Athanasoglou P và cộng sự (2006) cho thấy một sự tăng trưởng thị phần của
một ngân hàng có thể dẫn đến sự gia tăng trong tỷ suất sinh lợi và lợi nhuận. Điều
này có thể được giải thích bởi giả định đó là các ngân hàng lớn được hưởng lợi từ
lợi thế kinh tế theo quy mô bằng cách cung cấp dịch vụ của họ với giá rẻ hơn và
hiệu quả hơn so với các ngân hàng nhỏ. Nếu Chính phủ tạo ra các rào cản nhằm hạn
chế sự thành lập các ngân hàng mới (như Việt Nam đã làm trong năm 1997), các
ngân hàng lớn sẽ thu được lợi nhuận cao hơn.
Ngược lại, Koch (1974) và Al-Hashimi có một quan điểm đối lập, AlHashimi (2007) cho rằng không nên đưa lợi thế kinh tế theo quy mô vào trong các
nghiên cứu lợi nhuận bởi vì nó chỉ liên quan đến đơn giá và sản lượng, trong khi đó,
quy mô doanh nghiệp và tỷ suất sinh lợi mới thực sự là đối tượng nghiên cứu của lợi
nhuận. Bên cạnh đó, Berger và cộng sự (1987); Boyd và Runkle (1993); Miller và
Noulas (1997); Athanasoglou và cộng sự (2005) chỉ ra rằng sự gia tăng quy mô

ngân hàng chỉ tiết kiệm được một ít chi phí khi hệ thống ngân hàng mở rộng. Trong
khi đó, Eichengreen và Gibson (2001) đề xuất rằng sự gia tăng quy mô vốn chỉ tác
động cùng chiều lên lợi nhuận đến một mức nhất định nào đó. Hơn nữa, họ cho rằng
mối quan hệ giữa quy mô và lợi nhuận ngân hàng là phi tuyến tính.
1.4.1.5 Tỷ lệ vốn
Về lý thuyết, Short (1979) lập luận rằng tỷ lệ vốn (tức là tỷ số vốn và dự trữ
trên tổng tài sản) của một ngân hàng gắn liền với quy mô của nó bởi vì các ngân


15

hàng lớn có xu hướng làm ra lợi nhuận nhiều hơn so với các ngân hàng nhỏ dựa vào
khả năng huy động vốn ít tốn kém hơn. Tương tự như vậy, Bikker và Hu (2002),
Goddard và cộng sự (2004) có cùng một lập luận rằng trong trường hợp các ngân
hàng nhỏ và vừa, quy mô ngân hàng có liên quan đến lợi nhuận thông qua tỷ lệ vốn.
Ngoài ra, còn có một số bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa tỷ lệ
vốn và lợi nhuận, cụ thể, Bourke (1989) có cùng quan điểm với Short (1979).
Bourke chỉ ra rằng có một mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ vốn và lợi nhuận vì
thực tế cho thấy các ngân hàng quản trị vốn tốt có thể tiếp cận nguồn vốn rẻ hơn và
thị trường tài sản tốt hơn, vì các ngân hàng này có ít rủi ro hơn. Hơn nữa, các ngân
hàng có tỷ lệ vốn cao, duy trì sự thận trọng trong danh mục cho vay, cũng có thể cải
thiện lợi nhuận.
Cùng quan điểm đó, Molyneux và Thornton (1992), Williams, Molyneux và
Thornton (1994) và Molyneux và Forbes (1995) cũng cho thấy một mối quan hệ
cùng chiều giữa tỷ lệ vốn và lợi nhuận trong thị trường ngân hàng châu Âu.
Thông qua mô hình kiểm định nhân quả Granger, Berger (1995) đã chỉ ra
mối quan hệ cùng chiều giữa vốn và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu tại các ngân
hàng của Mỹ trong những năm 1980, nhưng mối quan hệ này đã đổi chiều vào năm
1990. Trong nghiên cứu của mình, Berger mở rộng sự kiểm định bằng cách sử dụng
các chi phí phá sản dự kiến. Ông lập luận rằng chi phí bảo hiểm cho các khoản nợ

(không được bảo hiểm) thấp hơn sẽ tạo ra một tỷ lệ vốn và ROE cao hơn.
1.4.2 Yếu tố kinh tế vĩ mô
1.4.2.1 Tăng trƣởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Đã có khá nhiều nghiên cứu kiểm định mức độ ảnh hưởng của tốc độ tăng
trưởng GDP lên lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào xem
tốc độ tăng trưởng GDP như một biến giải thích cho lợi nhuận ngân hàng. Theo các
nghiên cứu của Bourke (1989), Molyneux và Thornton (1992), tỷ lệ tăng trưởng
GDP tác động cùng chiều đến lợi nhuận ngân hàng. Kết quả thực nghiệm này được


16

khẳng định trong một số nghiên cứu khác của Hassan và Bashir (2003), Pasiouras
và Kosmidou (2007), và Kosmidou (2008), rộng hơn, các nghiên cứu này cho rằng
hiệu quả hoạt động của ngành tài chính tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng GDP.
Tại Brazil, Afanasieff và cộng sự (2002) đã sử dụng dữ liệu mảng để tìm ra
một điều đó là cũng giống như lạm phát kỳ vọng, tốc độ tăng trưởng GDP là một
trong các yếu tố quan trọng quyết định lợi nhuận ngân hàng. Mặt khác, bằng chứng
thực nghiệm từ các nghiên cứu của Hoggarth và cộng sự (1998) cho thấy rằng lợi
nhuận của các ngân hàng bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi GDP, nhưng tốc độ tăng
trưởng lợi nhuận của các ngân hàng ở Anh cao hơn ở Đức lại không thể giải thích
thông qua GDP thực. Ở một nghiên cứu khác, Athanasoglou và cộng sự (2005) cho
thấy chu kỳ kinh doanh có tác động cùng chiều đến lợi nhuận của ngành ngân hàng
Hy Lạp. Tuy nhiên, trong giai đoạn suy thoái, ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh là
không đáng kể. Tương tự, Flamini và cộng sự (2009) cũng chứng minh rằng trong
giai đoạn này, chất lượng tín dụng sẽ giảm, do đó làm giảm lợi nhuận của các ngân
hàng (khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP giảm xuống, thậm chí là âm).
1.4.2.2 Tốc độ lạm phát
Tác động của môi trường kinh tế vĩ mô lên lợi nhuận của ngân hàng đã được
nghiên cứu khá rộng rãi, trong đó tỷ lệ lạm phát là yếu tố tiêu biểu. Mối liên hệ giữa

lợi nhuận ngân hàng và tỷ lệ lạm phát đã được đề cập đến trong nghiên cứu của
Revell (1979). Ông ấy đã chứng minh rằng lạm phát tác động lên lợi nhuận ngân
hàng thông qua mối liên hệ giữa tốc độ tăng của tiền lương và các chi phí hoạt động
với tỷ lệ lạm phát. Khả năng quản lý hiệu quả chi phí hoạt động của các ngân hàng
phụ thuộc vào khả năng dự báo lạm phát trong tương lai, mà mức độ chính xác của
các dự báo này phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện của môi trường kinh tế vĩ mô.
Tương tự, Perry (1992) đã chỉ ra tác động của lạm phát kỳ vọng lên lợi nhuận ngân
hàng. Cụ thể, trong trường hợp các nhà quản lý có thể đưa ra một mức lạm phát kỳ
vọng tương đối chính xác, ngân hàng cần điều chỉnh các mức lãi suất một cách thích
hợp để doanh thu tăng nhanh hơn chi phí.


×