Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.42 KB, 28 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY
DỰNG CƠ BẢN
1. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh xây lắp ảnh hưởng đến công
tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm:
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất độc lập, giữ vai trò quan trọng trong nền
kinh tế, có chức năng tái tạo và trang bị tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân,
góp phần quan trọng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng và công cuộc công nghiệp
hoá-hiện đại hoá đất nước.
So với các ngành khác, xây dựng cơ bản là ngành sản xuất đặc thù với
những đặc điểm kinh tế rất riêng, chi phối trực tiếp đến việc tổ chức công tác kế
toán nói chung và tổ choc kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói
riêng. Điều này càng thể hiện rõ qua đặc trưng về sản phẩm xây lắp và quá trình
tạo ra sản phẩm đó:
Sản phẩm xây lắp là các công trình, hạng mục công trình, vật kiến trúc…, có
quy mô lớn. Do vậy, việc tổ chức quản lý nhất thiết phải có thiết kế, dự toán và thi
công. Trong suốt quá trình xây lắp giá dự toán trở thành thước đo hợp lý để hạch
toán các khoản chi phí và thanh quyêt toán các công trình .
Mỗi đối tượng đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật, kết cấu hình thức xây dựng thích
hợp được xây dựng cụ thể trên từng thiết kế dự toán. Do tính chất đơn lẻ nên chi
phí bỏ ra để thi công và xây lắp các công trình có nụidung cơ cấu không đồng nhất
như sản phẩm công nghiệp. Từ đặc điểm này, kế toán phải tinh đến việc hạch toán
chi phí, tinh giá thành và tính kết quả thi công cho từng loại sản phẩm xây lắp
riêng biệt (từng công trình, hạng mục công trình, từng nhóm sản phẩm xây lắp nếu
chúng được xây dựng theo cùng một thiết kế mẫu và trên một cùng một địa điểm
nhât định).
Mỗi công trình xây dựng gắn liền với vị trí địa lý nhất định, nó được cố đinh
tại nơi sản xuất (thi công) còn các điều kiện sản xuất khác nhau như : Lao động,
vật tư thiết bị… luôn phải di chuyển theo mặt bằng và vị trí thi công. Do đó sẽ phát
sinh một số chi phí cần thiết khách quan như. Chi phí điều động nhân công, điều
động máy thi công, chi phí xây dựng các công trình tạm phuc vụ công nhân và thi


công nhân… kế toán phải phản ánh chính xác các chi phí này và tổ chức phân bổ
hợp lý. Hơn nữa, mặt bằng thi công thường nằm rải rác khắp nơi và cách xa trụ sở
đơn vị nên tồn tại một khoảng cách lớn giữa nơi trực tiếp phát sinh chi phí và nơi
hạch toán chi phí gây khó khăn cho công tác kế toán xây lắp nếu không quản lý
chặt chẽ dân tới sơ hở, lãng phí lớn.
Quá trình sản xuất sản phẩm xây dựng lại tiến hành ngoài trời, chịu ảnh
hưởng của nhân tố khách quan như thời tiết, khí hậu… nên có thể gặp nhiều rủi ro
tạo nên những thiệt hại bất ngờ như thiệt hại phá đi làm lại, thiệt hại ngừng sản
xuất. Nhưng thiệt hại nay cần được tổ chức theo dõi chặt chẽ và phải có phương
pháp hạch toán phù hợp vơi những nguyên nhân gây ra.
Phương thưc tiêu thụ sản phẩm cũng rất đặc biệt. Sản phẩm xây dựng được
đánh giá và xác định là tiêu thụ trước khi trước khi tiến hành thi công xây lắp, do
đó sảm phẩm xây lắp mang tính chất tiêu thụ trước nên tính chất hàng hoá của no
thể hiện không rõ.
Từ nhưng đặc điểm trên đòi hỏi công tác kế toán vừa phải đáp ứng yêu cầu
chung về chức năng nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp san xuất vừa phải
đảm bảo phù hợp với đặc tính riêng của doanh nghiệp xây lắp. Từ đó cung cấp số
liệu chinh xác, kịp thời đánh giá đúng tình hình kế hoạch sản xuất kinh doanh, cố
ván cho lãnh đạo trong việc tổ chức quản lý để đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh
doanh.
2. Sự cần thiết và nhiệm vụ kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm
xây lắp trong doanh nghiệp xây dựng cơ bản.
2.1. Sự cần thiết phải tổ chúc công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm xây lắp.
Hoạt dông sản xuất của con người là để tạo ra sản phẩm vật chất - một yếu
ttó khách quan để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Khi tiến
hành các hoạt động sản xuất con người phải quan tâm tới hiệu quả của hoạt động
mà hiệu quả của hoạt động là sự so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả mang lại.
Chính vì vậy, trong quá trình sản xuất nhất thiết phải quan tâm đến việc quản lý chi
phí.

Trong quản lý, người ta sử dụng nhiều công cụ khác nhau nhưng kế toán
luôn dược coi là công cụ quản lý có hiệu quả nhất. Tổ chức công tác kế toán chi
phí sản xuất, đảm bảo xác định đúng nội dung, phạm vi cấu thành trong giá thành
sản phẩm, lượng giá trị trong các yếu tố chi phí đã dịch chuyển vào sản phẩm. Đặc
biệt, trong điều kiện hiện nay, chi phí sản xuất và gía thành sản phẩm là vấn đè
trọng tâm mà các doanh nghiệp quan tâm, nó quyết định sự thắng thế trong cạnh
tranh là tăng chất lượng công trình và hạ giá thành sản phẩm.
Để đạt được mục tiêu hàng đầu là thu được lợi nhuận, các doanh nghiệp cần
phải tăng cường công tác quản lý kinh tế mà trước hết là quản lý chi phí sản xuất,
giá thành sẩn phẩm.
Trong đó trọng tâm là công tác hạch toán chi phí sản xuất. Kế toán tập chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ngày càng có vai trò quan trọng, ý nghĩa
thiết thực đối với các doanh nghiệp.
2.2. Nhiệm vụ của công tác quản lý hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp kế
toán phải đáp ứng những nhiệm vụ sau:
-Xác định đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng giá
thành sản phẩm xây lắp.
-Tổ chức kế toán chi phí xây lắp theo đúng đối tượng và phương pháp đã
được xác định trên sổ sách kế toán.
-Xác định đúng chi phí xây lắp dở dang làm căn cứ để tính giá thành.
-Thực hiện tính giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thanh trong kỳ một cách
đầy đủ chính xác.
-Phân tích tình hình thực hiện định mác chi phí và giá thành xây lắp để có
quyết định trước mắt và lâu dài phù hợp.
3. Lý luận chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp
3.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
3.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp lớn hay nhỏ

muốn sản xuất kinh doanh dều phải bỏ ra những chi phí nhất định. Chi phí sản xuất
xây lắp phát sinh từ hoạt động xây lắp. Hoạt động xây lắp cần phải có vật tư, lao
động, máy móc, công cụ, dụng cụ (đây chính là tư liệu lao động) đối tượng lao
động và sức lao động. Quá trình sản xuất là quá trình sử dụng ba yếu tố đó dẫn đến
các hao phí tương ứng. Các hao phí về đối tượng lao động , tư liệu lao động hình
thành nên hao phí lao động vật hoá, hao phí tiền lương, tiền công hình thành hình
thành nên hao phí lao động sống. Trong nền sản xuất hàng hoá, các hao phí trên
được biểu hiện bàng tiền gọi là chi phí sản xuất.
Vậy chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp là là biểu hiện bằng tiền của
của toàn bộ về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí khác mà các doanh
nghiệp đã bỏ ra để tiến hành sản xuất thi công trong một thời kỳ nhất định.
Ngoài ra, chi phí sản xuất còn bao gồm một số khoản mà thực chất là một
phần giá trị mới sáng tạo ra (VD: các khoản trích theo lương bảo hiểm xã hội bảo
hiểm y tế, kinh phí công đoàn; các loại thuế không được hoàn trả như thuế giá trị
gia tăng không được khấu trừ, thuế tài nguyên…).
3.1.2. Phân loại chi phí sản xuất :
Trong xây dựng cơ bản, việc quản lý chi phí sản xuất không chỉ dựa vào các
số liệu tổng hợp về chi phí sản xuất mà còn căn cứ vào số liệu cụ thể của từng loại
chi phí theo từng công trình, hạng mục công trình trong từng thời điểm nhất định.
Do vậy,phân loại chi phí sản xuất là yêu cầu tất yếu cho công tác quản lý và hạch
toán ở doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xây lắp nói riêng. Tuỳ theo
yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp thông tin và gốc độ xem xét chi phí… mà chi
phí sản xuất được sắp xếp, phân loai theo cách thức khác nhau.
Thông thường, trong các doanh nghiệp xây lắp,chi phí sản xuất thường được
phân loại theo các tiêu thức sau:
3.1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
:
Theo cách phân loại này, các chi phí có nội dung, tính chất kinh tế giống
nhau được sắp xếp vao một yếu tố, không phân biệt chi phí đó phát sinh trong lĩnh
vực nào. Theo cách nay, toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp được chia

thành 5 yếu tố:
-Chi phí nguyên vật liệu: Gồm toàn bộ các chi phí về các loại nguyên vật liệu
chính, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu, thiết bị xây dựng cơ bản. Chú ý, các
yếu tố này phải được loại trừ giá trị vật liệu đung không hết nhập kho, phế liệu thu
hồi và không bao gồm các thiết bị do chủ đầu tư bàn giao.
-Chi phí nhân công: Gồm toàn bộ tiền lương, tiền công phải trả và các khoản
trích theo lương tính vào chi phí của công nhân viên(công nhân sản xuất trực tiếp
và nhân viên quản lý phục vụ ở các đội xây dựng)
-Chi phí khấu hao tài sản cố định: Gồm toàn bộ số khấu hao các tài sản cố
định dùng cho hoạt động ản xuất và quản lý sản xuất như các loại may thi
công(máy xúc, máy trộn bê tông…)nhà xưởng ô tô,…
-Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là số tiền trả về các loại dịch vụ mua ngoài,
thuê ngoài phục vụ sản xuất, quản lý sản xuất: tiền nước, điện điện thoại…
-Chi phí bằng tiền khác: Là các chi phí bằng tiền không thuộc các yếu tố chi
phí trên mà doanh nghiêp đã chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế giúp nhà
quản lý biết được kết cấu, tỉ trọng từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra
trong quá trình sản xuất kinh doanh để lập được báo cáo chi phí sản xuất theo yếu
tố của bản Thuyết minh báo cáo tài chính phục vụ yêu cầu thông tin giá thành sản
phẩm và quản trị doanh nghiệp. Hơn nữa, cách phân loại này còn giúp doanh
nghiệp phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí và lập dự toán chi phí cho kỳ
sau.
3.1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí:
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích công dụng của chi phí sản
xuất để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi một khoản mục chi phí chỉ
bao gồm những chi phí có cùng mục đích và cùng công dụng, không phân biệt chi
phí đó có nội dung kinh tế nào. Vì vậy, cách phân loại này còn gọi là phân loại chi
phí theo khoản mục. Toàn bộ chi phí phát sinh phát sinh trong kỳ được chia làm
các khoản mục chi phí sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu sử

dụng trực tiếp cho thi công công trình mà đơn vị xây lắp bỏ ra (vật liệu chính, vật
liệu phụ, các cấu kiện, các bộ phận kết cấu công trình, vật liệu luân chuyển) tham
gia cấu thanh thực thể công trình xây lắp hoặc giúp cho việc hoàn thành khối lượng
xây lắp. Chi phí này không bao gồm các thiết bị do chủ đầu tư ban bàn giao, không
bao gồm chi phí về mặt vật tư phục vụ máy thi công ( xăng, dầu…)
-Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm toàn bộ tiền lương, tiền công phải trả cho
số ngày công lao động của công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng công tác xây
lắp, công nhân phục vụ xây lắp, kể cả công nhân vận chuyển, bốc dỡ vật liệu trong
phạm vi mặt bằng thi công và công nhân chuẩn bị, kết thúc thu dọn hiện trường thi
công, không phân biệt công nhân trong danh sách hay công nhân thuê ngoài.
- Chi phí sử dụng máy thi công: Gồm toàn bộ các chi phí về vật liệu, nhân
công và các chi phí khác có liên quan đến sử dụng máy thi công và được chia
thành hai loại: Chi phí thường xuyên và chi phí tạm thơi.
+ Chi phí thường xuyên: Là những chi phí phát sinh trong quá trinh sử dụng
mxe máy thi công, được tính thẳng vào giá thành ca máy như: Tiền lương của công
nhân trực tiếp điều khiển hay phục vụ xe máy, chi phí về nguyên liệu, động lực, vật
liêụ dùng cho xe máy thi công, khấu hao và sữa chữa thường xuyên xe máy thi
công, tiền thuê xe máy thi công…
+Chi phí tạm thời: Là chi phí phải phân bổ dần theo thời gian sử dụng máy
thi công như: Chi phí tháo lắp, vận chuyển, chạy thử máy thi công từ công trường
này đến công trường khác, chi phí về tháo dỡ công trình tạm thời loại nho như lều
lán… phục vụ cho máy thi công. Những chi phí có thể phân bổ dần hoặc trích
trước cho nhiều kỳ.
- Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí có liên quan đến việc tổ chức,
phục vụ và quản lý thi công của các đội xây lắp ở các công trường xây dựng. Chi
phí sản xuất chung là chi phí tổng hợp bao gồm nhiều khoản chi phí khác nhau
thường có mối quan hệ gián tiếp với các đối tượng xây lắp như: Tiền lương quản lý
đội xây dựng; khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn được
tính theo tỉ lệ quy định trên tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp và
nhân viên quản lý đội (thuộc biên chế của doanh nghiệp); Khấu hao tài sản cố định

dùng cho hoạt động của đội và những chi phí liên quan đến hoạt động của đội…
Cách phân loại này phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định
mức; Cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm xây lắp và phân tích
tình hình thực hiện kế hoạch giá thành. Từ đó, lập định mức chi phí sản xuất kế
hoạch giá thành cho kỳ sau.
Do đặc điểm của sảm phẩm xây lắp và phương pháp lập kế hoạch dự toán
trong xây dựng cơ bản là dự toán được cho từng đối tượng xây dựng theo các
khoản mục giá thành nên phương pháp phân loại chi phí theo khoản mục là
phương pháp được sử dụng phổ biến trong các doang nghiệp xây dựng cơ bản.
Trên đây là các cách phân loại chi phí thường dùng trong các doanh nghiệp
xây dựng cơ bản. Ngoai ra, trong kế toán quản trị người ta còn phân loại chi phí
thành định phí và biến phí, chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
3.2. Giá thành sản phẩm xây lắp và các loại giá thành :
3.2.1. Giá thành sản phẩm xây lắp :
Trong sản xuất chi phí chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí. Để đánh giá chất
lượng sản xuất kinh doanh của cá tổ chức sản xuất kinh tế, chi phí sản xuất phải
được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với kết quả sản xuất, đó cũng là một mặt
của quá trình sản xuất. Quan niệm so sánh đó hình thành nên khái niêm giá thành
sản phẩm.
Như vậy, về bản chất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái
niệm giống nhau: Chúng đều là các hao phí về lao động và các chi phí khác của
doanh nghiệp. Tuy vậy giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có sự
khác nhau:
-Nói đến chi phí sản xuất là nói đến hao phí trong một thời kỳ, còn nói đến
giá thành sản phẩm là xem xét, đề cập đến mối quan hệ chi phí đối với quá trình
công nghệ chế tạo sản xuất tạo sản phẩm (và đã hình thành ). Đó là 2 mặt của một
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, như trong doanh
nghiệp xây lắp, để hoàn thành một sản phẩm xây lắp có thể phải mất thời gian dài ,
một năm hoặc hơn nữa đó là đặc điểm của ngành xây dựng
-Về mặt lượng, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể khác nhau khi

có sản phẩm sản xuất dở dang cuối kỳ hoặc đầu kỳ. Sự khác nhau về mặt lượng và
mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thể hiện ở công thức:
Z= D
đk
+ C - D
ck
Trong đó: Z: Tổng giá thành sản phẩm
D
đk
:

Trị

giá sản phẩm làm dở đầu kỳ
C: Tổng chi phí phát sinh trong kỳ
D
ck
:

Trị giá sản phẩm làm dở cuối kỳ
3.2.2.Các loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiêp xây dựng :
Căn cứ vào cơ sở số liệu và thời đIúm tính giá thành, giá thành sản phẩm
xây lắp được chia làm 3 loại:
+Giá thành dự toán: Giá thành dự toán là giá thành được tính trên cơ sở các
dự toán về chi phí hiện hành và chỉ tính cho một đơn vị sản phẩm xây lắp(công
trình…). Việc dự toán giá thành cũng cũng được tiến hành trước khi thi công, xây
lắp. Giá thành dự toán là công cụ quản lý theo dự toán của doanh nghiệp, là thước
đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài sản, vật tư lao động trong sản xuất,
giúp cho đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã
thực hiện trong quá trình hoạt động sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

sản xuất kinh doanh.
+Giá thành kế hoạch: Là giá thành được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế
hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch
của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất,
xây dựng, giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để
sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh
nghiệp
+Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi phí thực tế hoàn thành
khối lượng xây lắp. Giá thành này được tính trên cơ sở số liệu kế toán về chi phí
sản xuất đã tập hợp được cho khối lượng xây lắp thực hiện trong kỳ. Giá thành
công trình lắp đặt không bao gồm giá trị thiết bị đưa vào lắp đặt, bởi vì thiết bị này
do đơn vị chủ đầu tư bàn giao cho doanh nghiệp nhân xây lắp.
So sánh các loại giá thành trên với nhau, ta có thể đánh giá được chất lượng
sản xuất thi công công trình và quản lý chi phí, quản lý giá thành của doanh nghiệp
xây lắp. Về nguyên tắc phải đảm bảo:
Giá thành dự toán > Giá thành kế hoạch > Giá thành thực tế
3.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp :
Chi phí sản xuất là bêu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động sống, lao
động vật hoá và những chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong quá
trình sản xuất trong một thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất sẽ kết tinh dàn trong
giá thành sản phẩm. Kết quả cuối cùng là doanh nghiệp có được các công trình
hoàn thành. Giá thành các công trình, hạng mục công trình hoàn thành (sản phẩm
xây lắp) là toàn bộ chi phí sản xuất tính cho công trình, hạng mục công trình đó.
Như vậy, chi phí sản xuất cấu thành nên giá thành sản phẩm, là cơ sở tính giá thành
sản phẩm.
Chi phí sản xuất đều là biểu hiện bằng tiền của những hao phí về lao động
sống và vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm lại có sự khác nhau thể hiện: Chi phí sản xuất gắn lion với một
thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm gắn với khối lượng xây lắp hoàn thành
được nghiệm thu và chấp nhận thanh toán. Nội dung chi phí và giá thành do đó

cũng có sự khác biệt.
-Xét trên gốc độ toàn doanh nghiệp, chi phí sản xuất bao gồm toàn bộ chi
phí phát sinh trong kỳ trong quá trình sản xuất thi công, trong khi giá thành sản
phẩm bao gồm các chi phí phát sinh trong kỳ nhưng không gồm chi phí sản xuất dở
dang cuối kỳ, chi phí trả trước phát sinh trong kỳ nhưng được phân bổ cho chi
phíáchi phí kỳ sau, phần chi phí thiệt hại (mất mát, hao hụt, chi phí thiệt hại do phá
đi làm lại…) không tính vào giá thành và giá thành gồm chi phí sản xuất dở dang
đầu kỳ, phần chi phí phát sinh từ chi phí kỳ trước được phân bổ cho kỳ này, phần
chi phí được trích vào giá thành.
-Xét đối với từng công trình, hạng mục công trình, chi phí sản xuất bao giá
thành gồm toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ trong quá trình sản xuất sản xuất thi
công xây lắp công trình, hạng muc công trình còn giá thành sản phẩm bao giá
thànhồm chi phí dở dang đầu kỳ, chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ nhưng không
giá thành gồm phần chi phí thiệt hại không tính vào giá thành và chi phí sản xuất
dở dang cuối kỳ.
4. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở doanh
nghệp xây lắp trong điều kiện kế toán trên máy.
4.1. Một số vấn đề chung về kế toán trên máy:
Hiện nay ở nước ta công nghẹ thông tin phát triển mạnh và được ứng dụng
rộng rãi trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
công tác kế toán ngày càng trở nên phổ biến đặc biệt trong mấy năm gần đây. Các
phần mềm kế toán thường có đặc điểm: Tính tự động hoá, tính động ( nhiều phần
mềm cho phép sửa đổi, thêm bớt các chức năng, dữ liệu sẵn có nhằm phù hợp với
điều kiện, đặc điểm cụ thể của doanh ngiệp) tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế
toán. Hiện nay, xu hướng sử dụng phần mềm kế toán rất đa dạng, mỗi doanh
nghiệp thường áp dụng phần mềm kế toán riêng. Tuy nhiên, các phần mềm kế toán
cũng như việc áp dụng tin học vào công tác kế toán trong doanh nghiệp phải đảm
bảo những yêu cầu và nguyên tắc sau:
-Hoàn thành tổ chức công tác kế toán trong điều kiện ứng dụng kế toán máy
phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm, tính chất, mục đích hoạt động, quy mô và

phạm vi hoạt động của đơn vị.
-Đảm bảo phù hợp với chế độ, thể lệ quản lý tài chính nói chung và các
nguyên tắc, chuẩn mực, chế độ kế toán nói riêng.
-Đảm bảo phù hợp với yêu cầu, trình độ quản lý,trình độ kế toá của đơn vị.
-Đảm bảo tính khoa học, đồng bộ và tự động hoá cao trong đó phải tính đến
độ tin cậy, an toàn và bảo mật.

×