Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.09 KB, 7 trang )

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ
1.Quá trình hình thành phát triển của tổng công ty:
Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị là doanh nghiệp nhà nước trực
thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội.Tiền thân của tổng công ty là công ty san
nền thuộc sở xây dựng Hà Nội được thành lập ngày 6/10/1971.Ban đầu chỉ là một
công trường nền đất bé nhỏ với lực lượng 100 cán bộ công nhân viên chủ yếu là
lao động thủ công với những công cụ thô sơ, thực hiện những công việc chính
được giao là đào hố, đắp nền ở các công trường như công trường hồ Bẩy Mẫu, Kim
Liên, Trung Tự…tạo mặt bằng xây dựng các tiểu khu nhà ở Hà Nội.
Trong khoảng thời gian đó, công ty luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của
Thành uỷ, HĐND, UBND thành phố, Sở xây dựng Hà Nội, bộ máy quản lý của
công ty dần được thay đổi, củng cố.Đầu những năm 80, cùng với nhiệm vụ chính
là san nền, công ty được giao thêm chức năng làm đường giao thông nội bộ,
phương tiện thiết bị được bổ xung ngày càng nhiều.Đến năm 1996, tổng số thiết bị
của công ty đã lên đến con số 216 đồng thời cũng tiếp nhận 200 cán bộ công nhân
viên từ công ty xây dựng cầu đường bổ sung về.Tháng 7/1987, 199 người thuộc xí
nghiệp thi công cơ giới xây dựng thuộc Sở xây dựng Hà Nội được sát nhập với
công ty san nền theo quyết định của UBND thành phố Hà Nội.Năng lực sản xuất
của công ty do vậy được nâng cao và tổng số cán bộ công nhân viên thời kỳ này
đạt xấp xỉ 900 người, biên chế thành 7 phòng ban và 9 đơn vị sản xuất trực
thuộc.Đây cũng là thời điểm các cơ sở sản xuất kinh doanh đang thực hiện bước
chuyển dần từ cơ chế quản lý bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN, tự
chủ, tự lo tìm nguồn việc cho cán bộ công nhân viên.
Khoảng thời gian 1988 – 1990 là những năm tháng khó khăn nhất của công ty
với một tổ chức có biên chế lớn, chỉ thi công chuyên sâu về san nền cộng với chất
lượng thiết bị máy móc lạc hậu, cũ nát, công ty gặp nhiều khó khăn trong việc tìm
kiếm việc làm do khối lượng được giao theo kế hoạch bao cấp hàng năm không
còn và những diễn biến phức tạp của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của người lao động.Tuy vậy công ty thường xuyên hoàn thành đạt và
vượt kế hoạch được giao, thực hiện đầy đủ chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước hàng


năm.
Giai đoạn 1991 – 2001 có thể nói là giai đoạn công ty tự khẳng định mình với
sức vươn mạnh mẽ, giành thế chủ động, đứng vững và phát triển trong kinh tế thị
trường.Ngày 13/4/1990 theo quyết định số 1740/QĐ-UB của UBND Thành phố Hà
Nội đổi tên công ty san nền thành công ty xây dựng công trình kỹ thuật hạ tầng và
cho phép công ty hoạt động sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề mới.Ngày
05/01/1996 theo quyết định số 47/QĐ- UB của UBND Thành phố Hà Nội cho
phép đổi tên thành công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị. Trên cơ sở quy tụ các
công ty hoạt động trong nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh (chủ yếu là các
công ty xây dựng thuộc sở xây dựng Hà Nội), Tổng công ty đầu tư phát triển hạ
tầng đô thị - UDIC đã được thành lập theo quyết định số 111/2004/QĐ-UB ngày
20/7/2004 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, trong đó công ty được chỉ định
là công ty mẹ.
2.Những khó khăn thuận lợi và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
tổng công ty:
Sau những lần được đổi tên và bổ xung nhiều ngành sản xuất kinh doanh mới
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tổng công ty đầu tư phát triển
hạ tầng đô thị được thừa hưởng nhiều thành tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi
mới của đất nước, của thủ đô trên tất cả các lĩnh vực.Đó là sự ổn định chính trị xã
hội, là sự phát triển của lực lượng sản xuất, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu và mức tăng trưởng liên tục, tăng cường mức đầu tư cải tạo,
xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng thành phố theo hướng đồng bộ hiện đại, quan
hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín của thủ đô được nâng cao trên trường quốc tế…
Bên cạnh đó là những thuận lợi do chính tập thể cán bộ công nhân viên tạo nên sau
20 năm xây dựng, trưởng thành.Đó là sự đoàn kết nhất trí của tập thể lãnh đạo
công ty, là đội ngũ quản lý các phòng, ban, xí nghiệp nhiệt tình sáng tạo, tâm huyết
với sự nghiệp của công ty, là đội ngũ công nhân có tay nghề cao và kỷ luật lao
động tốt.
Song song với những thuận lợi cơ bản trên, công ty cũng phải đối mặt với
những khó khăn thử thách lớn bao gồm cả những vấn đề nội tại của công ty cũng

như những nhân tố bất lợi từ bên ngoài bắt nguồn từ những khó khăn vốn có cũng
như những điểm mới phát sinh của nền kinh tế xã hội.Trong những năm đầu hoạt
động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường nhưng về mặt pháp lý, thị trường
Việt Nam chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, chưa có thị trường tài chính tiền tệ, chứng
khoán, thị trường kinh doanh bất động sản…Năm 1996 bắt đầu cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản của khu vực Đông
Nam Á và lan ra cả châu lục đã có tác động xấu, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty.Cùng với những khó khăn khách quan là những
yếu kém chủ quan của công ty, đó là cơ chế quản lý sản xuất kinh doanh nội bộ của
công ty chậm sửa đổi, không tạo được hành lang pháp lý thông thoáng mà chặt
chẽ, không đáp ứng được nhu cầu khắc nghiệt của thị trường.Cán bộ chuyên gia
làm A và làm B còn thiếu và yếu, bộ máy quản lý cồng kềnh, hoạt động kém hiệu
quả…
Trước những khó khăn, thuận lợi trong suốt quá trình hình thành và phát triển,
dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của Thành uỷ, HĐND, UBND Thành phố Hà Nội, bộ xây
dựng và trực tiếp là sở xây dựng Hà Nội, sự giúp đỡ của các cấp các ngành từ trung
ương đến địa phương, các bạn hành, khách hàng…toàn thể cán bộ công nhân viên
công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị đã đoàn kết nhất trí xung quanh Đảng uỷ,
Ban giám đốc công ty hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trên ba
ngành nghề chính : tư vấn đầu tư, đầu tư xây dựng và thi công xây lắp.
Về tư vấn đầu tư: ngoài việc thực hiện công việc tư vấn đầu tư cho các dự án
đầu tư xây dựng của công ty như: Khu đô thị Trung Yên, Nhà 21 tầng Huỳnh Thúc
Kháng…Công ty đã ký và thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn đầu tư cho các công
trình đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh như khu công nghiệp Hà Nội – Đài Tư
của Đài Loan, Khu siêu thị Bourbon, tư vấn xin giấy phép hợp đồng hợp tác kinh
doanh cho công ty bất động sản Úc tại Việt Nam.
Về đầu tư xây dựng:Xác định việc lập và thực hiện các dự án đầu tư góp phần
phát triển đô thị theo quy hoạch xây dựng của thành phố, tạo công ăn việc làm, ổn
định đời sống cho cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện cho công ty chuyển dần từ
vai trò làm thuê sang làm chủ là định hướng sản xuất kinh doanh lâu dài của công

ty.Bằng thực tế thành công trong việc tạo lập những mặt bằng xây dựng đầu tiên
của thành phố có hạ tầng kỹ thuật đồng bộ gồm: nền, đường, cấp thoát nước, cấp
điện, chiếu sáng, trường học, vườn hoa, cây xanh để xây dựng nhà ở và kinh doanh
nhà tại khu A Nam Thành Công, khu nhà bán Yên Hoà đã tạo tiền đề thuận lợi cho
công ty vươn lên lập và tổ chức thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở, xây
dựng các khu đô thị mới có quy mô lớn hơn nhiều về diện tích đất đai và vốn đầu
như: dự án khu phố mới Trung Yên với diện tích 37,05ha, vốn đầu tư riêng phần hạ
tầng là 281 tỷ đồng, liên doanh với tập đoàn Ciputra(Indonesia) đầu tư xây dựng
khu đô thị mới Nam Thăng Long với diện tích 392 ha và tổng mức đầu tư 2,1 tỷ
USD, dự án nhà ở cao tầng kết hợp nhà ở văn phòng và dịch vụ tại 27 Huỳnh Thúc
Kháng _ một trong những công trình nhà ở có chiều cao và chất lượng chung cư
cao nhất ở Hà Nội thời điểm này.Ngoài ra công ty còn liên doanh, thực hiện tiếp
nhiều dự án đầu tư xây dựng khác.
Về thi công xây lắp công trình:để nâng cao năng lực thi công xây lắp công
trình công ty đã đầu tư 20 tỷ đồng mua sắm máy móc thiết bị thi công.Công ty đã
thắng thầu và tìm kiêm được hàng trăm công trình xây dựng trong và ngoài địa bàn
Hà Nội như: san nền và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp Sài Đồng B, Trung tâm
thương mai dịch vụ DEAHA, Đại sứ quán Nhật Bản, khu công nghiệp kỹ thuật
NOMURA(Hải Phòng ), khu di dân Thủ Lệ…
Hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề trên đã đem lại kết quả là
giá trị sản lượng, doanh thu hàng năm tăng từ 15-22%, trích nộp ngân sách nhà
nước vượt chỉ tiêu ít nhất là 1,349 tỷ đồng, có năm lên tới 9,271 tỷ đồng, vốn chủ
sở hữu của công ty đến năm 2000 đã có 24,618 tỷ đồng, thu nhập bình quân của
cán bộ công nhân viên tăng từ 10-20%
Năm 2004 toàn Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị gồm Công ty mẹ
và 19 Công ty thành viên đã hoàn thành các chỉ tiêu SXKD được giao với:
- Tổng giá trị sản lượng: 1.670,57 tỷ đồng đạt 103,88% so với kế hoạch năm
2004
- Nộp ngân sách : 48,54 tỷ đồng đạt 118,87% so với KH 2004
- M2 sàn nhà ở: 106.796 m2 đạt 148,98% so với KH 2004

Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty mẹ năm 2004
TT Chỉ tiêu ĐVT
KH giao năm
2004
TH năm
2004
Tỷ lệ TH/KH
đạt(%)
So với năm
2003
(%)
1 Giá trị sản lượng sản xuất
kinh doanh
Tỷ
đồng
320 340,858 106,5 123,5
2 Giá trị doanh thu Tỷ
đồng
386,545 160,4
3 Sản lượng xây lắp và
SXVLXD
(-Xây lắp: 224 tỷ đồng
-SX VLXD:16tỷ đồng
Tỷ
đồng
240 240 139
4 Kinh doanh khu đô thị và
nhà bán
Tỷ
đồng

101 101
5 Xây dựng nhà ở M2 25.000 26.500 106 48,2
6 Nộp ngân sách nhà nước Tỷ
đồng
12,8 19,1 149 138,3
Trong đó:

×