BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THU HOẠCH CUỐI KHÓA
LỚP BỒI DƯỠNG THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH
NGHIÊN CÔNG NGHỆ: KỸ SƯ CHÍNH (HẠNG II)
KHÓA IV
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP TRONG NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC
Học viên: Nguyễn Văn Thịnh
Đơn vị công tác: Viện Khoa học công nghệ Xây dựng
Hà Nội, 2017
1
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THU HOẠCH CUỐI KHÓA
LỚP BỒI DƯỠNG THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH
NGHIÊN CÔNG NGHỆ: KỸ SƯ CHÍNH (HẠNG II)
KHÓA IV
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP TRONG NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC
Học viên: Nguyễn Văn Thịnh
Đơn vị công tác: Viện Khoa học công nghệ Xây dựng
Hà Nội, 2017
2
MỤC LỤC
2.1. Khái niệm khoa học.........................................................................................................6
Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới,
… về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này, tốt hơn, có thể thay thế
dần những cái cũ, không còn phù hợp. Như vậy, khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về
quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, và
tư duy. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở
thực tiễn xã hội........................................................................................................................6
2.2. Khái niệm nghiên cứu khoa học.......................................................................................6
Nghiên cứu khoa học là một họat động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa
trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt được từ các thí nghiệm nghiên cứu khoa học để
phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội; để sáng tạo
phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn.............................................6
2.3. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp.......................................................................................6
2.4. Khái niệm chuẩn mực đạo đức.........................................................................................6
2.5. Thực trạng, lý luận và giải pháp đạo đức nghiên cứu khoa học.....................................10
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.........................................................................11
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
3
Con người muốn làm nghiên cứu khoa học phải có kiến thức nhất định về
lĩnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có
phương pháp từ lúc ngồi trên ghế nhà trường. Nghiên cứu khoa học gắn liền với
khía cạnh đạo đức, nó được hiện trong mỗi bước của chu trình nghiên cứu khoa
học. Một trong những tiêu chuẩn để đánh giá một câu hỏi nghiên cứu là đạo đức;
một câu hỏi không đáp ứng tiêu chuẩn đạo đức không thể xem là câu hỏi tốt.
Trong quy trình làm thí nghiệm hay thu thập dữ liệu, những tiêu chuẩn đạo đức
khoa học đòi hỏi nhà nghiên cứu phải tuân thủ theo các nguyên tắc như tôn
trọng quyền của đối tượng tham gia nghiên cứu và trung thực. Trong giai đoạn
công bố kết quả nghiên cứu, quy định đạo đức đòi hỏi nhà nghiên cứu phải báo
cáo đầy đủ và chính xác dữ liệu thu thập được và phải tôn trọng các tiêu chuẩn
về đứng tên tác giả bài báo khoa học. Những chuẩn mực đạo đức khoa học vừa
nêu là nguyên tố quan trọng cho sự tồn tại của khoa học và văn hoá khoa học.
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn xảy ra nhiều trường hợp vi phạm đạo đức khoa học.
Những vi phạm đạo đức trong khoa học thường là nguỵ tạo dữ liệu, thay đổi dữ
liệu cho phù hợp với giả thuyết của nhà khoa học, tra tấn dữ liệu, báo cáo một
cách chọn lọc, đạo văn, trích dẫn thiếu trung thực, công bố bài báo theo dạng
“cắt nem”. Một trường hợp vi phạm đạo đức khoa học nghiêm trọng nhất mới
được tiết lộ: đó là trường hợp một nhà nghiên cứu Nhật nguỵ tạo dữ liệu và làm
nghiên cứu không có sự ưng thuận của bệnh nhân. Hệ quả là nhà khoa học này
có thể bị yêu cầu rút lại 123 bài báo khoa học, một con số kỉ lục trong lịch sử
khoa học. Không ai biết có bao nhiêu nhà khoa học vi phạm những tiêu chuẩn
đạo đức, nhưng vài nghiên cứu gần đây cho thấy con số có thể lên đến 30%.
Những vi phạm đạo đức khoa học cũng thỉnh thoảng xảy ra ở Việt Nam, dù
trong thực tế, số người vi phạm có lẽ nhiều hơn so với những gì được giới
truyền thông tiết lộ.
4
Đứng trước thực tế trên việc đi tìm ra một số giải pháp để ngăn ngừa hoặc
giảm những vi phạm đạo đức khoa học trong thời kỳ hiện nay và tương lai là
điều cấp bách.
5
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
2.1. Khái niệm khoa học
Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức
mới, học thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết
mới này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp. Như vậy,
khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự vận động
của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ thống tri thức
này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã
hội.
2.2. Khái niệm nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là một họat động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc
thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt được từ các thí
nghiệm nghiên cứu khoa học để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật,
về thế giới tự nhiên và xã hội; để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật
mới cao hơn, giá trị hơn.
2.3. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức nghề nghiệp là một nhánh trong hệ thống đạo đức xã hội, là một
loại đạo đức đã được thực tiễn hoá. Lương tâm nghề nghiệp là sự tự phán xét, tự
ý thức về trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp. Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp và
lương tâm nghề nghiệp có quan hệ mật thiết với nhau. Đánh mất ý thức về nghĩa
vụ đạo đức là đánh mất ý thức về bản thân mình, làm mất ý nghĩa làm người
cũng như giá trị động lực của lao động. Do vậy, giáo dục đạo đức nghề nghiệp
chính là để hình thành nhân cách nghề nghiệp của mỗi chủ thể; hướng con người
vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ trong hoạt động nghề nghiệp.
2.4. Khái niệm chuẩn mực đạo đức
Mỗi ngành, nghề trong xã hội, nhất là những nghề có liên quan đến sự an
sinh của con người hay có ảnh hưởng đến một quần thể lớn, đều có những chuẩn
mực về đạo đức hành nghề. Hoạt động khoa học nói chung và nghiên cứu khoa
6
học nói riêng có ảnh hưởng lớn đến xã hội và con người, cho nên các chuẩn mực
đạo đức đóng một vai trò rất cơ bản đối với các nhà khoa học.
Chuẩn mực đạo đức không phải là luật pháp, mà là những quy ước hay
điều lệ về hành xử được các thành viên trong ngành nghề chuyên môn chấp
nhận như là những kim chỉ nam cho việc hành nghề. Các quy ước này cho phép,
nghiêm cấm, hay đề ra thủ tục về cách hành xử cho các tình huống khác nhau.
Trong hoạt động khoa học, hai chữ “hành xử” ở đây bao gồm các lĩnh vực
chuyên biệt như thí nghiệm, xét nghiệm, giảng dạy và huấn luyện, phân tích dữ
liệu, quản lý dữ liệu, chia sẻ dữ liệu, xuất bản ấn phẩm, trình bày công trình
nghiên cứu trước công chúng và quản lý tài chính.
Vậy các chuẩn mực đạo đức khoa học cụ thể là gì? Khó có câu trả lời cho
câu hỏi này, bởi vì hoạt động khoa học cực kỳ đa dạng, do đó các chuẩn mực
đạo đức thường tùy thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể. Chẳng hạn, các tiêu chuẩn
đạo đức cho ngành khoa học nông nghiệp khác với các bộ môn khoa học liên
quan đến động vật như y sinh học. Tuy nhiên, theo tôi, có thể tóm lược các tiêu
chuẩn đạo đức khoa học qua 6 nguyên tắc cơ bản sau đây:
Nguyên tắc thứ nhất là thành thật tri thức (intellectual honesty). Sứ mệnh
của khoa học là khai hóa, quảng bá và phát triển tri thức. Tri thức khoa học dựa
vào sự thật, mà sự thật đó phải được quan sát hay thu thập bằng những phương
pháp khách quan. Khoa học dựa vào những sự thật có thể nhìn thấy, có thể nghe
thấy, có thể sờ được, chứ không dựa vào kinh nghiệm cá nhân hay suy luận theo
cảm tính. Do đó, khoa học đặt sự thật khách quan trên hết và trước hết. Không
có sự khách quan và không có sự thành thật thì khoa học không có ý nghĩa gì cả.
Nhà khoa học phải khách quan và thành thật. Nguyên tắc thành thật tri thức
được xem là một cột trụ cơ bản nhất trong các nguyên tắc về đạo đức khoa học.
Theo đó, nhà khoa học phải tuyệt đối thành thật với những gì mình quan sát hay
nhận xét. Nói cách khác, nhà khoa học không nên gian lận trong nghiên cứu,
không giả tạo dữ liệu, không thay đổi dữ liệu, và không lừa gạt đồng nghiệp.
7
Nguyên tắc thứ hai là cẩn thận. Nhà khoa học phải phấn đấu hết mình để
tránh các nhầm lẫn và sai sót trong tất cả các hoạt động khoa học. Họ có nghĩa
vụ phải báo cáo đầy đủ, chi tiết những kết quả đạt được trong quá trình nghiên
cứu để các nhà khoa học khác có thể thẩm định hay xác nhận (nếu cần thiết). Bất
cứ một thay đổi về số liệu, dữ liệu thu thập được đều phải có chú thích rõ ràng
(ví dụ, ghi rõ ngày tháng sửa, ai là người chịu trách nhiệm và tại sao thay đổi).
Khi làm việc như thế, việc sử dụng các phương pháp phi chính thống hay
phương pháp phân tích và cách diễn dịch có thể dẫn đến những tiến bộ khoa
học. Tuy nhiên, nếu cách làm việc này chỉ nhằm vào mục đích đạt được kết luận
mà nhà khoa học muốn có thì rất dễ dẫn tới vi phạm đạo đức khoa học.
Nguyên tắc thứ ba là tự do tri thức. Nói một cách ví von, khoa học không
bao giờ dừng lại trong hành trình đi tìm sự thật, vì đây là một hành trình liên tục.
Nhà khoa học cần được tạo điều kiện để theo đuổi những ý tưởng mới và phê
phán những ý tưởng cũ. Họ cũng có quyền thực hiện những nghiên cứu mà họ
cảm thấy thú vị và đem lại phúc lợi cho xã hội.
Nguyên tắc thứ tư là cởi mở và công khai. nghiên cứu khoa học mang tính
tương tác rất cao, do đó thường phụ thuộc lẫn nhau. Nhà khoa học có trách
nhiệm chia sẻ dữ liệu, kết quả và phương pháp nghiên cứu, lý thuyết, thiết bị…
với đồng nghiệp, cho họ tiếp cận dữ liệu của mình, nếu cần thiết. Ngoài ra,
nghiên cứu khoa học là một cuộc tranh tài về ý tưởng và các khái niệm mới nhất
không nằm trong mô thức (paradigm) hiện hành. Cuộc “tranh tài” này có thể dẫn
đến những xung đột nghiêm trọng. Do đó, cởi mở và thành thật trong tranh luận
là những yếu tố đạo đức đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy các tiến
bộ khoa học. Quy trình bình duyệt công trình nghiên cứu là một bước quan trọng
trong việc thực hiện các nghiên cứu khoa học. Những thói ganh tị, thành kiến
hay mâu thuẫn cá nhân có thể làm cho hệ thống này bị thất bại. Do đó, khi phê
bình một nghiên cứu của đồng nghiệp, nhà khoa học nên tập trung vào tính hợp
lý khoa học và logic của nghiên cứu, chứ không nên dựa vào những cảm nhận cá
nhân.
8
Nguyên tắc thứ năm là ghi nhận công trạng thích hợp. Nhà khoa học phải
ghi nhận những đóng góp của các nhà khoa học đi trước và tuyệt đối không lấy
nghiên cứu của người khác làm thành tích của mình. Tri thức khoa học mang
tính tích lũy và được xây dựng dựa vào những đóng góp của nhiều nhà khoa học
trong quá khứ và hiện tại. Ghi nhận công trạng của họ là một quy ước về đạo
đức khoa học, và hình thức ghi nhận có thể được thể hiện qua tài liệu tham khảo,
lời cảm tạ, hay cho họ cơ hội đứng tên đồng tác giả. Sử dụng công trình hay ý
tưởng của đồng nghiệp mà không ghi nhận là một vi phạm đạo đức khoa học.
Ngày nay, một công trình nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học thực nghiệm, là
thành quả của nhiều cá nhân. Do đó, ai có tư cách đứng tên tác giả đôi khi trở
thành một vấn đề tế nhị. Theo quy ước chung, nhà khoa học có tư cách đứng tên
tác giả nếu hội đủ tất cả 3 tiêu chuẩn: Một là đã có đóng góp quan trọng trong
việc hình thành ý tưởng và phương pháp nghiên cứu, hay thu thập, phân tích và
diễn dịch dữ kiện; hai là đã soạn thảo bài báo hay kiểm tra nội dung tri thức của
bài báo một cách nghiêm túc; ba là phê chuẩn bản thảo sau cùng để gửi cho tạp
chí.
Nguyên tắc thứ sáu là trách nhiệm trước công chúng. Phần lớn đạo đức
khoa học là do tài trợ từ đóng góp của người dân; do đó, nhà khoa học phải có
nghĩa vụ công bố những gì mình đạt được cho công chúng biết. Hình thức công
bố có thể là những ấn phẩm khoa học hay những trao đổi trên các diễn đàn quần
chúng. Tất cả các cơ sở vật chất sử dụng cho nghiên cứu, kể cả thiết bị, hóa chất,
tài chính… là tài sản chung của xã hội; do đó, chúng cần được sử dụng sao cho
đem lại lợi ích cao nhất cho xã hội. Các động vật và bệnh nhân tham gia vào
nghiên cứu được xem là “vốn xã hội” và cần phải được tuyệt đối tôn trọng.
Mục tiêu quan trọng của khoa học là nhằm mở rộng tri thức con người về
các lĩnh vực như vật lý, sinh học, xã hội... Mở rộng ở đây có nghĩa là đi ra ngoài,
đi xa hơn những gì đã được biết. Nhưng một tri thức mới hay một khám phá mới
chỉ có thể đi vào phạm trù khoa học khi nó đã được thẩm định và lặp lại một
cách độc lập. Quá trình này có thể thực thi bằng nhiều cách: Nhà khoa học thảo
9
luận với cấp trên, với đồng nghiệp, trong các hội nghị quốc tế, hội nghị quốc gia,
seminar, hay thậm chí bên bàn cà phê. Do đó, có thể xem đạo đức khoa học là
một việc làm mang tính xã hội, chứ không phải là một nỗ lực đi tìm sự thật trong
cô đơn, lặng lẽ. Vì mang tính xã hội, nên các chuẩn mực về đạo đức khoa học
phải là một “thể chế” của bất cứ trung tâm khoa học nào, và phải được xem như
là quy ước ứng xử và là một mục tiêu của khoa học.
2.5. Thực trạng, lý luận và giải pháp đạo đức nghiên cứu khoa học
Cho đến nay, chưa có một nghiên cứu nào có hệ thống về những gian lận
trong nghiên cứu khoa học. Vài năm gần đây, không ít các vụ đạo văn đã được
đưa ra ánh sáng. Riêng cuốn sách Bàn phím và Cây búa của Nguyễn Hòa (NXB
Văn học, 2007) đã chỉ ra được 6 trường hợp đạo văn, đạo công trình nghiên cứu
để làm giáo trình, chuyên khảo. Những thợ đạo được chỉ mặt, nêu tên toàn là bậc
danh giá. Nào là PGS.TS.TNT (đạo của GS Trần Quốc Vượng), TS HXL (đạo
của TS Trần Hữu Sơn), TS.TND (đạo của PGS.TS Vũ Tuấn Anh), PGS.TS NCB
(đạo của GS.TSKH Tô Ngọc Thanh), nhà văn VNT (đạo của PGS.TS Trần Ngọc
Vương), TS.CNTT và Thạc sĩ TTA (đạo của GS Trần Ngọc Thêm). Rồi GS.TS
PL đạo của GS Trương Lập Văn (Trung Quốc)… Trường hợp đầu tiên và duy
nhất chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước Việt Nam đã ký quyết định
tước bỏ chức danh Phó giáo sư đối với ông Trịnh Xuân Dũng, Hiệu trưởng
Trường Cao đẳng du lịch Hà Nội, vì đã không trung thực (lấy công trình của
người làm của mình), vi phạm tiêu chuẩn đạo đức của nhà giáo.
Trong bài báo “Chất lượng giáo dục đang ở đâu”, Tuổi trẻ ngày 22/9/2004
có vài đoạn đáng chú ý: “Trong lịch sử giáo dục nước nhà, chưa bao giờ các
dịch vụ làm luận văn, luận án lại được quảng cáo công khai xung quanh các
trường đại học như hiện nay” và “Trong những năm gần đây, sự gian dối trong
học tập ngày càng gia tăng, ở các lớp trên xảy ra nặng và nhiều hơn lớp dưới, ở
người lớn nghiêm trọng hơn thanh thiếu niên. Sự gian dối tuy chỉ ở một bộ phận
người học, nhưng lại có tính phổ biến mà địa phương nào cũng có từ giáo dục
chính quy, tại chức, đến giáo dục thường xuyên đều xảy ra. Các hiện tượng chạy
10
điểm, chạy thầy, quay cóp, mua bán sử dụng phao thi… trước đây rất ít và người
học cảm thấy xấu hổ khi bị phát hiện thì bây giờ không ít người học cho rằng đó
là chuyện bình thường”.
Ở nước ta, tội ăn cắp tài sản trí tuệ đã có những chế tài được đề cập trong
Luật Dân sự (Bản quyền tác giả, Sở hữu công nghiệp và Chuyển giao công
nghệ) nhưng tội gian lận trong hoạt động khoa ọc và công nghệ thì hiện nay, về
cơ bản, chưa có chế tài hữu hiệu để điều chỉnh. Nghiên cứu khoa học là một hoạt
động tốn kém vì thế, khoa học không thể nào dung túng tình trạng thiếu chân
thực và vô liêm chính. Các cơ quan quản lý khoa học cũng cần một chính sách
hay cơ chế bảo vệ an ninh cho các nhà khoa học dám công khai tố cáo các
trường hợp gian lận trong khoa học.
Đứng trước thực trạng trên để ngăn ngừa hoặc giảm những vi phạm đạo
đức khoa học trong tương lai cần thực hiện những biện pháp: dạy về chuẩn mực
đạo đức khoa học cho học sinh và sinh viên ngay từ khi trên ghế nhà trường;
thảo luận về các nguyên tắc học thuật và nghiên cứu khoa học; soạn thảo quy tắc
ứng xử đạo đức khoa học; và qua đó thiết lập một văn hoá khoa học trong đại
học và doanh nghiệp. Mục tiêu quan trọng của khoa học là nhằm mở rộng tri
thức con người. Do đó, có thể xem hoạt động khoa học là một việc làm mang
tính xã hội, chứ không phải là một nỗ lực đi tìm sự thật trong cô đơn, lặng lẻ.
Bởi vì mang tính xã hội, cho nên các chuẩn mực về đạo đức khoa học phải là
một “thể chế” của bất cứ trung tâm khoa học nào, kể cả trường đại học, và phải
được xem như là một mục tiêu của khoa học.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
11
Sân chơi khoa học là một sân chơi dân chủ. Tất cả các nhà khoa học cần
cam kết về các tiêu chuẩn đạo đức và bộ luật về đạo đức cần được thiết lập đối
với nghề nghiệp khoa học. Trong một môi trường tri thức lành mạnh, tất cả
những tác giả lừa gạt thường bị lật tẩy và sửa đổi. Ngược lại, những nghiên cứu
lương thiện và chân thật thường tồn tại lâu dài với thời gian như là những chân lí
khoa học.
Lợi ích mà hoạt động nghiên cứu khoa học là điều không ai có thể nghi
ngờ, nhưng những lợi ích ấy chỉ có thể đạt được trong một môi trường nghiên
cứu lành mạnh, một môi trường bảo đảm cho quá trình tìm kiếm tri thức được
thực hiện với mức độ khả tín cao nhất và phản ánh những giá trị nền tảng của xã
hội mà mọi tổ chức, cá nhân đều có trách nhiệm gìn giữ. Trong bối cảnh các
nước đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu tăng trưởng nhanh trong nghiên
cứu khoa học phải gắn với việc xây dựng nền tảng văn hóa học thuật vững
mạnh; không có cái nền đó thì những thành tựu đạt được chỉ là những lâu đài
xây trên cát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
12
Nguyễn Hòa cuốn sách “Bàn phím và Cây búa” (NXB Văn học, 2007)
Nguyễn Văn Tuấn (2012), Đạo đức trong nghiên cứu khoa học.
Nguyễn Tuấn; Tạp chí Hoạt động Khoa học, số 3/2008 “Đạo đức khoa học”
Luật Khoa học và công nghệ số 29/2013
13