Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tiểu luận cnxh, GIAI cấp CÔNG NHÂN VIỆT NAM và sứ MỆNH LỊCH sử của GIAI cấp CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG THÁNG tám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.45 KB, 25 trang )

A. MỞ ĐẦU
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của
chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác. Khẳng
định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng
lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột trong cuộc đấu
tranh từng bước xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội là lập trường chính trị, là ranh giới phân biệt họ với những người cải
lương và những phần tử cơ hội, xét lại. Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều người đã bộc lộ sự dao động
và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bọn cơ hội, xét lại và
các thế lực chống cộng có cơ hội mới để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhất là trong
bối cảnh lịch sử mới đang được đặt ra một cách bức thiết trên cả phương tiện
lý luận lẫn thực tiễn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản
Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa và nội dung căn bản, cụ thể của sứ mệnh lịch sử
giai cấp công nhân Việt Nam thể hiện trong giai đoạn mới là: lợi ích giai cấp
công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai
cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa…”.

1


B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng ghen về giai cấp công nhân.
Mác và Ăng ghen sử dụng các thuật ngữ : “giai cấp công nhân”, “giai


cấp những người lao động làm thuê thế kỷ XIX”, “giai cấp công nhân hiện
đại”… như những từ đồng nghĩa. - Giai cấp công nhân là gì? Vấn đề này đã
được Mác và Ăng- ghen đề cập trong những tác phẩm của mình như: “Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen – “lời nói đâu”, “Gia đình
thần thánh”, “Tình cảnh giai cấp công nhân ở Anh”, “Những gnuyên lý của
Chủ nghĩa cộng sản”, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, v.v…
Theo các ông: “Giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản
sinh ra”; nó là sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, được “tuyển
mộ trong tất cả các giai cấp dân cư”, chủ yếu là nông dân. Trong xã hội tư
bản, “giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất
các rtư liệu sản xuất nên buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống”,
“để đổi lấy những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho cuộc sống của mình” (Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản), họ bị giai cấp những nàh tư bản tước đoạt giá trị
thặng dư, bị bóc lột nặng nề. Đại công nghiệp càng phát triển, thì giai cấp
công nhân cũng phát triển theo cả về số lượng và chất lượng, trong khi các
giai cấp, tầng lớp lao động khác “suy tàn tiêu vong” cùng với sự phát triển đại
công nghiệp. Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần đoàn kết quốc tế, có
tính tổ chức kỷ luật cao, tinh thần triệt để cách mạng.
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của
một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn
luôn phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn
nhất định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số
người vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành
2


giai cấp vô sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công
nhân hiện đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp, nó là sản
phẩm của bản thân nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của

nền đại công nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những
giai cấp cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư
sản tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản
để sống, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể
và có quyền bán sức lao động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động. Đây
là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn
tại của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động, phụ thuộc
vào kết quả lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá
trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng,
“Giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết
tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”.
Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm những công
việc khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn
chỉ có hai tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã
hội khác.
- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là
những người lao động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người
lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất
công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là công nhân hiện
đại thì phải gắn với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại
công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của
mọi tầng lớp công nhân.

3


- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng
ta phải xem xét trong hai trường hợp sau:

+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người
vô sản hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức
lao động cho nhà tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị
thặng dư mà giai cấp công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ
vào tiêu chí này mà những người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi
là giai cấp vô sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai
cấp cầm quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở
thành giai cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể
nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa.
Như vậy họ không còn là những người vô sản như trước và sản phẩm thặng
dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã hội
chủ nghĩa.
1.2. Quan điểm V.I.Lênin về giai cấp công nhân
Lênin khẳng định và làm rõ thêm những luận điểm của Mác và Ăng
ghen về giai cấp công nhân trong những tác phẩm của mình như “Nhà nước
và cách mạng”, “Sáng kiến vĩ đại”,… đồng thời bổ sung thêm những thuộc
tính mới của giai cấp công nhân trong điều kiện giai cấp này đã nắm chính
quyền nhà nươc: giai cấp công nhân là giai cấp thống trị về mặt chínhtrị, giai
cấp lãnh đạo xã hội thông qua đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản, lực
lượng lao động chủđạo trong nền kinh tế quốc dân, giai cấp trung tâm của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. * Trong nền sản xuất hiện đại ngày nay, giai
cấp công nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà còn bao
gồm một bộ phận những người lao động trí óc thực hiện những chức năng của
công nhân lành nghề trong sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất; không chỉ
4


bao gồm những người lao động trong công nghiệp trực tiếp tạo ra các giá trị

vật chất cho xã hội, mà còn bao gồm những người lao động trong các bộ phận
dịch vụ công nghiệp gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Giai
cấp công nhân hiện đạicó những đặc trưng cơ bản sau:
- Lao động trong công nghiệp hoặc dịch vụ công nghiệp với kỹ thuật
và công nghệ hiện đại.
- Là lực lượng cơ bản, chủ lực làm ra của cải vật chất cho xã hội, lao
động thặng dư của họ là nguồn gốc chủ yếu của sự giàu có của xã hội.
- Với hai đặc trưng trên, giai cấp công nhân đồng thời là lực lượng cơ
bản, tiên tiến trong cải tạo các quan hệ xã hội, động lực chính của tiến trình
lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tóm
lại, giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội hình thành và phát triển cùng
với cách mạng công nghiệp, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến trong sản
xuất vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội, động lực chính của tiến trình lịch
sử chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp công nhân như sau: Giai
cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát
triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực
lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản
xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng
sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
II. NỘI DUNG VÀ TÍNH KHÁCH QUAN SỨ MỆNH LỊCH SỬ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
II.1. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến
vĩ đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã
chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ
5



nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên
tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử:
xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi
sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân
chỉ có thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai
cấp tư sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết
lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân
vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải
phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng dân
tộc và giải phóng toàn thể nhân loại.
II.2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế - xã
hội khách quan của nó quy định:
- Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai
cấp công nhân ra đời và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận
quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa
cao. Đây là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây
dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong thời đại
ngày nay.
- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư
liệu sản xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ
bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao
6



động. Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì người chủ của nó
(người vô sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số
phận của nó tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa sức lao động trên thị
trường làm thuê và phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai
cấp tư sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất
lẫn đời sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp
tư sản là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội tư bản
chủ nghĩa. Xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần
cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Những điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể
giải phóng mình bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ tư bản
chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và
được cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân
trở thành giai cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện
được sứ mệnh lịch sử đó. Đó là khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Đó là khả năng đoàn kết
với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng đoàn
kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế
chống chủ nghĩa đế quốc.
Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện
đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng. Các
giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công
nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”.
Toàn bộ nhiệm vụ mà lịch sử giao phó cho một giai cấp nào đó để thực
hiện chuyển biến cách mạng từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một
hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, được người ta gọi là sứ mệnh lịch sử
hay vai trò lịch sử của giai cấp đó.
7



Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử, nói một cách khái quát là: lãnh
đạo các tầng lớp, nhân dân lao động xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, từng
bước xây dựng xã hội mới - chủ nghĩa xã hội và tiến lên chủ nghĩa cộng sản,
giải phóng mình, đồng thời giải phóng toàn xã hội thoát khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, khỏi tình trạng phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là khách quan, không phải do
ý muốn chủ quan của họ và cũng không phải do sự áp đặt của các nhà tư
tưởng, chính địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân quy định một cách
khách quan sứ mệnh lịch sử của nó. Mác và Ăng ghen viết: “Sự phát triển của
đại công nghiệp đã phá sập dưới chân giai cấp tư sản, chính ngay cái nền tảng
trên đó giai cấp tư sản đã xây dựng nên chế độ sản xuất và chiếm hữu của
nó… Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu
như nhau”.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải xây
dựng thành chính đảng, phải có đường lối chính trị, chiến lược, sách lược và
phương hướng cách mạng đúng đắn và phải lôi cuốn đông đảo quần chúng
nhân dân lao động đi theo làm cách mạng, đánh đổ giai cấp tư sản, giành lấy
chính quyền, thiết lập chính quyền của giai cấp mình, sử dụng chính quyền
làm công cụ chủ yếu từng bước xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã
hội chủ nghĩa và tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
So với sứ mệnh lịch sử của giai cấp khác trong các thời đại trước, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có những điểm khác căn bản sau: Một là,
về kinh tế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là chuyển từ
một chế độ tư hữu này sang một chế độ tư hữu khác, nhằm thay một hình thức
bóc lột khác, mà là xoá bỏ chế độ tư hữu để xoá bỏ mọi hình thức bóc lột
người. Hai là, phong trào của giai cấp công nhân là “phong trào độc lập của
tuyệt đại đa số, mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số”, giai cấp công nhân không thể
triệt để giải phóng mình: “nếu không đồng thời giải phóng vĩnh viễn toàn thể

8


xã hội khỏi ách bóc lột, áp bứ và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp”. Ngược
lại, những giai cấp, tầng lớp lao động khác, do địa vị “trung gian” của mình,
dưới ách áp bức của tư sản, không thể triệt để giải phóng mình nếu không đi
theo giai cấp công nhân (Tuyên ngôn Đảng cộng sản). So với thời Mác và
Ăng ghen, giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa ngày nay đã có
những giến đổi quan trọng về cơ cấu, về chất lượng cuộc sống.

Nhưng

không phải vì thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không còn, giai cấp
công nhân không triệt để cách mạng như trước, và đã biến mất cùng với vai
trò lịch sử của nó, v.v… như luận điệu của một số học giả của giai cấp tư sản.
Trái lại, giai cấp công nhân ngày càng trở nên đông đảo, chất lượng ngày càng
tăng, vị trí vai trò của xã hội của nó ngày càng quan trọng. Giai cấp công nhân
đã là và vẫn luôn luôn là giai cấp tiên tiến, chủ đạo trong sản xuất và cải tạo
các quan hệ xã hội. Có quan điểm cho rằng trí thức là người lãnh đạo xã hội
tương lai. Điều này không phù hợp với sự phát triển của lịch sử, vì trí thức
không phải là một giai cấp, không có hệ tư tưởng độc lập, không đại biểu cho
một phương thức sản xuất nhất định nào.
III. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ SỨ MỆNH LỊCH
SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM
3.1 - Những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân
quốc tế. Do vậy, nó cũng mang những đặc trưng hay đặc điểm của giai cấp
công nhân quốc tế và có sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân quốc tế. Tuy
nhiên, do điều kiện lịch sử hình thành, điều kiện sinh sống và nguồn gốc xuất

thân, nên ngoài những đặc điểm chung, giai cấp công nhân Việt Nam còn có
những đặc điểm riêng nổi bật sau:
Một là, so với giai cấp công nhân các nước Châu Âu và các nước phát
triển, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn, phát triển chậm, số lượng
9


còn ít, chiếm tỉ lệ thấp trong dân cư và trong lực lượng lao động xã hội. Giai
cấp công nhân Việt Nam mới hình thành vào đầu thế kỷ XX, gắn liền với quá
trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (1898 - 1930). Trước chiến tranh
thế giới lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân Việt Nam đã trở thành
giai cấp “tự mình: và lúc đó môics khoảng trên dưới 10 vạn người. Giai đoạn
1918 - 1930, giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục tăng lên về số lượng, chất
lượng và chuyển dân từ giai cấp “tự mình” sang giai cấp “cho mình”. Sự ra
đời của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930, đánh dấu sự chuyển hoá về chất
của giai cấp công nhân và phong trào công nhân Việt Nam: từ giai cấp “tự
mình” sang giai cấp “cho mình”, từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác.
Từ khi hình thành cho đến nay đã gần một thế kỷ, nhưng số lượng của giai
cấp công nhân Việt Nam vẫn còn ít. Hiện nay mới có gần 6 triệu người, chiếm
khoảng 8,65% dân số và 15,7% lao động xã hội.
Hai là, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp có tinh thần triệt đệ
cách mạng do sinh ra trong một dân tộc có truyền thống yêu nước, truyền
thống đấu tranh chống ngoại xâm kiên cường, bất khuất, ra đời trong một
nước thuộc địa, nửa phong kiến, giai cấp công nhân cũng như nông dân có hai
mối thù sâu sắc: mối thù dân tộc do bị áp bức và mối thù giai cấp do bị bóc lột
nặng nề. Chính điều này đã làm cho số phận, lợi ích của giai cấp công nhân
ngay từ đầu đã gắn bó chặt chẽ với số phận và lợi ích dân tộc; ý thức giai cấp
và ý thức dân tộc hoà quyện vào nhau, lòng yêu nước hoà quyện với lý tưởng
xã hội chủ nghĩa; sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân gắn bó với sự
nghiệp giải phóng dân tộc, lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi

ích dân tộc, khátvọng tiến lên chủ nghĩa xã hội gắn chặt với mục tiêu độc lập
dân tộc. Vì thế, ngay từ đầu giai cấp công nhân đã đại biểu cho lợi ích dân
tộc, vai trò lãnh đạo của nó được cả dân tộc thừa nhận, sức mạnh, động cơ
nghị lực cách mạng của nó được nhân lên gấp bội.
Ba là, tuy sinh trưởng ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến với một
nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, đại công nghiệp chưa phát triển, đa số dân
10


cư là nông dân, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam ra đời vào lúc phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ, được cách mạng Tháng
Mười Nga soi sáng, ít bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh trong
Quốc tế II, nhận được sự tác động tích cực của quốc tế cộng sản, v.v… nên
giai cấp công nhân Việt Nam sớm tiếp thu và dễ dàng tiếp thu chủ nghĩa MácLênin; sớm gắn ý thức dân tộc với chủ nghĩa quốc tế vô sản; từ khi có chính
đáng của mình đến nay luôn giữ được truyền thống cách mạng, thống nhất
về tư tưởng và tổ chức trong phạmvi cả nước; sớm tỏ ra là một đội ngũ kiên
cường trong qua trình đấu tranh cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, nêu tấm gương sáng về chủ nghĩa quốc tế vô sản, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng chung của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.
Bốn là, giai cấp công nhân Việt Nam chẳng bao lâu sau khi ra đời đã có
một vị trí lãnh tụ sáng suốt, vừa là lãnh tụ dân tộc, vừa đưa đường chỉ lối. Đó
là Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đại biểu tập trung được ý chí, tình cảm và trí
tuệ của dân tộc, sớm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và đưa ra được con đường
duy nhất đúng đắn để giài phong dân tộc, con đường gắn độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội trong khi con đường cứu nước của các giai cấp, tầng lớp
khác bị phá sản. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy ra đời muộn, số lượng ít
nhưng lại sớm có chính đảng độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
rèn luyện, có cương lĩnh đường lối, chiến lược, sách lược đúng đắn, vì vậy đã
nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị độc lập, tự giác, thống nhất, và

sớm vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam và độc tôn lãnh đạo
từ đó đến nay. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân được hình thành trong
lịch sử, được quần chúng nhân dân thừa nhận và cả dân tộc suy tôn.
Năm là giai cấp công nhân Việt Nam, do nguồn gốc xuất thân, có mối
liên hệ tự nhiên rất mật thiết với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác. Mối liên hệ giai cấp cùng mối liên hệ đồng bào ruột thịt của
người dân Việt Nam mất nước là cơ sở tình cảm để xây dựng khốiliên minh
11


công nhân - nông dân - trí thức và khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc. Đó là
điều kiện thuận lợi, cơ sở xã hội đảm bảo cho sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân trong quá trình cách mạng.
Sáu là do đặc điểm của sự hình thành, điều kiện sinh sống, giai cấp
công nhân Việt Nam so với giai cấp công nhân quốc tế, còn nhiều mặt hạn chế
như: tính tổ chức kỷ luật chưa cao; còn bị ảnh hưởng nhiều của tâm lý, thói
quen, tập quán của những người sản xuất nhỏ, giác ngộ giai cấp còn hạn chế;
trình độ văn hoá, học vấn, trí tuệ, nghề nghiệp còn thấp, tính tích cực xã hội
và năng động chưa cao v.v… Những đặc điểm riêng của giai cấp công nhân
Việt Nam nêu trên qui định những mặt mạnh và mặt hạn chế của nó, đồng
thời cũng cắt nghĩa vì sao giai cấp công nhân nước ta tuy còn tương đối non
trẻ, chưa phát triển về số lượng, trình độ nhiều mặt chưa đạt được trình độ của
giai cấp công nhân quốc tế, nhưng nó đã nhanh chóng vươn lên đảm đương
vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đã lãnh đạo thành công cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và có đủ khả năng lãnh đạo thành công sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.2. Những khả năng và điều kiện đảm bảo thực hiện sứ mệnh
Lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là lãnh đạo cách
mạng Việt Nam thông qua chính đảng của mình là Đảng cộng sản Việt Nam.

Giai cấp công nhân Việt Nam đã lãnh đạo thực hiện thành công cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân đem lại độc lập cho dân tộc, thống nhất đất nước, tự
do hạnh phcú cho nhân dân, đưa cả nước bước vào giai đoạn cách mạng mới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng mới, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam là: thông qua chính đảng của mình, lãnh đạo
nhân dân và dân tộc xây dựng và phát triển đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Vấn đề đặt ra là liệu giai cấp công nhân Việt Nam có đủ điều kiện và khả
năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang, nhưng vô cùng khó khăn, phức tạp
12


này hay không? Giai cấp công nhân Việt Nam tuy số lượng còn ít, nhiều mặt
còn hạn chế nhưng nó vẫn có đủ khả năng, điều kiện để đảm nhận và hoàn
thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Những khả năng, điều kiện chủ yếu đó là:
Thứ nhất, trong bản chất cũng như trong tựhc tiễn, giai cấp công nhân
Việt Nam là giai cấp kiên quyết nhất, triệt để nhất trong cuộc đấu tranh nhằm
xoá bỏ mọi áp bứ, bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng văn minh, vì hạnh
phúc ấm no của giai cấp mình và của nhân dân lao động.
Thứ hai, trong các giai cấp ở Việt Nam hiện nay, giai cấp công nhân là
lực lượng xã hội tiên tiến nhất. Nó đại diện cho phương thức sản xuất tiên
tiến, lại được vũ trang bằng một lý luận cách mạng và khoa học, đó là chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vai trò tiên phong lãnh đạo của
nó đã được thể hiện trong thực tiễn sản xuất, cải tạo xã hội. Giai cấp công
nhân là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát
nước; là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng và Nhà nước, là hiện thân và hạt nhân
của khối liên minh công nông và khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ ba, những mục đích và những mục tiêu, khát vọng giải phóng của
giai cấp công nhân phù hợp với những lợi ích, khát vọng của đông đảo các
giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động nên được đông đảo nhân dân đồng tình,
ủng hộ.

Thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ chặt chẽ, máu thịt
với nông dân, khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thứ ngày càng được củng cố, tăng cường. Đây là cơ sở xã hội
vững chắc bảo đảm cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Thứ năm, giai cấp công nhân Việt Nam có đội tiên phong là Đảng cộng
sản Việt Nam dày dạn kinh nghiệm, có bản lĩnh chính trị vững vàng, được thử
thách, tôi luyện và trưởng thành trong quá trình đấu tranh cách mạng; biết vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và hoàn cảnh
13


cụ thẻ của Việt Nam; được đông đảo nhân dân tin yêu; đã hình thành được về
cơ bản con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của Việt
Nam.
Thứ sáu, giai cấp công nhân Việt Nam đã nắm chính quyền nhà nước
trong tay, đã xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc. Sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân được sự đồng tình ủgn hộ của giai cấp
công nhân quốc tế, của các lực lượng cách mạng và tiến bộ của thời đại. Để
lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới đất nưcớ theo con đường xã hội chủ
nghĩa, giai cấp công nhân Việt Nam cần phải nâng cao giác ngộ về chínhtrị,
trình độ học vấn, năng lực, trí tuệ, tay nghề; đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; củng cố tăng cường khối liên minh công
nhân - nông dân - trí thức và khối đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Đảng và
Nhà nước vững mạnh; chăm lo xây dựng tổ chức công đoàn v.v…
3.3. Phương hướng xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt
Nam ngang tầm với sứ mệnh lịch sử của nó trong giai đoạn cách
mạng mới.
Từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân đã trở thành
giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, giai cấp công nhân đã đi đầu trong cuộc đấu tranh lâu dài, đầy hy

sinh gian khổ vì độc lập dân tộc, vì thống nhất đất nước và vì tự do hạnh phúc
của nhân dan, đã góp phần quan trọng có ý nghĩa quyết định làm nên thắng lợi
trọn vẹn của cách mạng giải phóng dân tộc, đưa nước ta bước vào một kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên độc lập - tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đổi mới đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn tiếp tục phát huy được truyền thống
cách mạng kiên cường của mình, đi đầu trong công cuộc đổi mới, không lùi
bước trước mọi khó khăn thử thách, đã có những đóng góp quan trọng làm
14


nên những thành tựu của công cuộc đổi mới trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước sang
một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp.
Bên cạnh những ưu điểm, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay còn
nhiều hạn chế về số lượng, về cơ cấu và về chất lượng; số lượng còn ít, chiếm
tỉ lệ thấp trong dân cư và lực lượng lao động xã hội, phát triển còn chậm; cơ
cấu còn có sự mất cân đối giữa đội ngũ công nhân các thành phần, các ngành
kinh tế, các địa bàn dân cư và giữa số lượng với chất lượng, trình độ văn hoá,
khoa học, kỹ thuật nghề nghiệp còn thấp; số đông còn chưa được đào tạo nghề
nghiệp; trình độ giác ngộ, tính tiên phong, ý thức làm chủ không đồng đều,
một bộ phận thoái hoá, tiêu cực, giảm sút ý chí phấn đấu; tính năng động xã
hội, tích cực xã hội chưa cao, còn ảnh hưởng của tâm lý, thói quen của người
nông dân, của người sản xuất nhỏ, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luận thiếu tác
phong công nghiệp, tỉ lệ đảng viên, đoàn viên thanh niên và đoàn viên công
đoàn còn thấp, nhất là ở khu vực ngoài quốc doanh v.v…
Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, giai cấp công nhân cũng

đã chịu ảnh hưởng tiêu cực ủa việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển dịch lao
động và mặt trái của nó; hàng chục vạn công nhân (chủ yếu là khu vực nhà
nước) không có việc làm, thu nhập không đủ sống; một bộ phận trên nhiễm
phải những mặt tiêu cực, tệ nạn xã hội không phù hợp với bảnchất giai cấp
công nhân, trình độ kỹ thuật, tay nghề, tác phong công nghiệp, sức khoẻ của
nhiều công nhân không đáp ứng được yêu cầu của công nghệ mớivà đòi hỏi
của thị trường sức lao động, v.v… có thể nói số lượng, cơ cấu cũng như trình
độ nhiều mặt của giai cấp công nhân nước ta hiện nay chưa đáp ứng được nhu
cầu, đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trước hết là sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam chưa
ngang tầm với sứ mệnh lịch sử của nó trong giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy,
15


việc xây dựng và phát triển giai cấp công nhân nước ta để nó xứng đáng với
vị trí của nó là một yêu cầu cơ bản vừa cấp bách.
Đảng ta, trong nhiều văn kiện của mình đã nêu rõ: trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa, Đảng phải chăm lo xây dựng gc không ngừng lớn mạnh về số
lượng và chất lượng, xứng đáng với vai trò giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh
đạo và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng (1996) đã khẳng định, cần phải “xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng
cao trình độ học vấn và tay nghề, có năng lực vận dụng và sáng tạo công nghệ
mới, có tác phong công nghiệp và ý thức tổ chức, kỷ luật, lao động đạt năng
suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, làm nòng cốt trongviệc xây dựng
khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức và tăng cường khối đại đoàn kết
dân tộc. Đồng thời Đảng ta cũng khẳng định rằng xây dựng giai cấp công
nhân vững mạnh là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
Để đạt được mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân mà đại hội đại biểu lần thứ
VII của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra, trong những năm trước mắt, cần phải

thực hiện một số nhiệmvụ, phương hướng giải pháp sau đây:
Thứ nhất: xây dựng và hoàn thiện một hệ thống chính sách xã hội đối
với giai cấp công nhân theo hướng bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân
cả về số lượng và chất lượng để xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; chính sách việc làm, tiền lương, nhà ở,
đào tạo, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, chăm sóc sức khoẻ v.v…
Thứ hai: Phát triển lực lượng sản xuất ứng dụng các thành tựu khoa
học công nghệ và sản xuất, phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định để phát triển số lượng,
đa dạng hoá cơ cấu và nâng cao chất lượng giai cấp công nhân, nhất là về mặt
trình độ văn hoá, nghề nghiệp, ý thức, kỷ luật, tác phong công nghiệp, kinh
nghiệm quản lý.
16


Thứ ba: Đổi mới và tăng cương công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
trong giai cấp công nhân, nhằm nâng cao giác ngộ giai cấp, ý thức chính trị, ý
thức tự lực tự cường, tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể, lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào về truyền thống dân tộc và truyền
thống cách mạng của giai cấp công nhân.
Thứ tư: Đổi mới và đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo nhằm nâng
cao trình độ văn hoá, học vấn, trí tuệ, tay nghề cho giai cấp công nhân. Phát
triển các trường, các cơ sở đào tạo nghề cho công nhân, đa dạng hoá các hình
thức đào tạo, tạo điều kiện cho mọi công nhân có nhu cầu đào tạo nghề đều
được đào tạo.
Thứ năm: Đảng và Nhà nước càn có những giải pháp có hiệu quả giải
quyết những vấn đề về vừa cơ bản, vừa cấp bách đối với giai cấp công nhân
hiện nay, đó là vấn đề việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội.
Thứ sáu: Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu lực của hệ thống chính trị,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề có ý nghĩa quyết định để xây dựng

giai cấp công nhân vứng mạnh, ngang tầm với sứ mệnh lịch sử của nó.
IV. ĐẢNG CỘNG SẢN LÀ NHÂN TỐ ĐẢM BẢO CHO GIAI
CẤP CÔNG NHÂN HOÀN THÀNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA
MÌNH. LIÊN HỆ VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
4.1. Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố đảm bảo cho giai cấp công
nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử.
Đảng cộng sản là đội tiên phong, là tổ chức cao nhất của giai cấp công
nhân. Đảng cộng sản bao gồm những phần tử ưu tú nhất, tiên tiến nhất của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng cộng sản mang bản chất cảu
giai cấp công nhân. Đảng cộng sản ra đời đáp ứng dòi hỏi của phong trào
công nhân và làm cho phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác.
Đảng cộng sản là tổ chức bao gồm những người ưu tú tiếp thu lý luận
chủ nghĩa Mác-Lênin, năm được quy luật vận động phát triển khách quan của
17


lịch sử, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ “hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình và kết quả chúng của phong vào vô sản”.
Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Nhờ có lý luận tiên phong, Đảng cộng sản đã vận dụng vào điều
kiện cụ thể đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược, nhiệm vụ của
quá trình cách mạng cũng như từng giai đoạn . Tập hợp, giáo dục, thuyết
phục, tổ chức, động viên giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện,
nhằm biến chủ trương đường lối của Đảng thành hiện thực.
Đảng cộng sản là bộ phận tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động: là người tổ chức, chỉ huý, bố trí cán bộ lãnh đạo quá
trình cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động có sự thống nhất về tư tưởng và hành động, tập trung được
sức mạnh của giai cấp và dân tộc. Để thực hiện được vai trò của mình theo
Lênin: không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Chỉ

có Đảng nào có lí luận tiên phong hướng dẫn mới làm tròn nhiệm vụ của
người chiến sĩ tiên phong.
4.2. Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (2-1930) là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào yêu nước và phong trào công nhân.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã tạo ra bước ngoặt trong phong troà cách
mạng Việt Nam, chấm dứt giai đoạn khủgn hoảng đường lối cách mạng. Đảng
cộng sản Việt Nam đã đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn và lãnh đạo giai
cấp công nhân dân lao động nước ta thực hiện, đưa tới thắng lợi trong cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn. Xây dựng cơ sở vật chất
ban đầu của chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, từng bước
nâng cao đời sống nhân dân…

18


Đảng cộng sản Việt Nam đã đề xướng và lãnh đạo nhân dân ta thực
hiện công cuộc đổi mới nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
và bước vào thời kỳ phát triển mới. Dưới sự lãnh đạo cảu Đảng, sự nghiệp đổi
mới đã và đang thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, tình hình
kinh tế - xã hội ổn định, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao. Trong
giai đoạn hiện nay, để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ mà đại hội VIII đã nêu ra.
“Đảng ta phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến
đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các khuyết điểm, các
biểu hiện tiêu cức và yếu kém. Đảng phải mạnh từ Trung ương đến cơ sở, ở cả
các cấp các ngành” (Văn kiện Đại hội VIII).

19



C. KẾT LUẬN
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình, giai cấp công nhân Việt Nam phải được phát triển về số lượng và chất
lượng, vươn lên khắc phục những hạn chế, từng bước đáp ứng những yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hội nghị Trung ương VII khoá VII đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ
xây dựng giai cấp công nhân: - Nhiệm vụ của giai cấp công nhân là đoàn kết
hợp tác các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong xã hội đề hoàn thành công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước vững bước tiến lên
theo con đường xã hội chủ nghĩa. - Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng,
giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị tư tưởng, có trình độ học vấn và
tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt
năng suất, chất lượng hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh của mình.

20


21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đề cương bài giảng trong trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà
Nội 1996.
2. Gia đình chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội 1999.
3. Gia đình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
4. Đảng cộng sản Việt Nam :Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc.
5. V.I.Lênin : toàn tập T23, Nxb, TB, M, 1980.
6. Các Mác - Ph.Ăng ghen : Tuyển tập, T1, ST, Hà Nội, 1980.

7. Tổng liên đoàn Kao động Việt Nam : Những bài giáo dục chính trị cơ bản
trong công nhân lao động, Nxb Lao động, Hà Nội 1998.
8. Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

22


MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU...........................................................................................................................................1
B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN..........................................................................2
1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng ghen về giai cấp công nhân......................................2
1.2. Quan điểm V.I.Lênin về giai cấp công nhân......................................................................4
II.. NỘI DUNG VÀ TÍNH KHÁCH QUAN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN..............................................................................................................................................5
2.1.Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.............................................................5
2.2.Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:........6
III. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM......................................9
3.1 - Những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân Việt Nam..........................................9
3.2. Những khả năng và điều kiện đảm bảo thực hiện sứ mệnh Lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam.............................................................................................................................12
3.3. Phương hướng xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam ngang tầm với
sứ mệnh lịch sử của nó trong giai đoạn cách mạng mới.......................................................14
IV. ĐẢNG CỘNG SẢN LÀ NHÂN TỐ ĐẢM BẢO CHO GIAI CẤP CÔNG NHÂN HOÀN THÀNH
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA MÌNH. LIÊN HỆ VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM......................17
4.1. Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mệnh lịch sử.................................................................................................................................17
4.2. Đảng cộng sản Việt Nam.....................................................................................................18

C. KẾT LUẬN..............................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................22

23


HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TRIẾT HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NÂNG CAO

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

Học viên

: Nguyễn Thị Minh Trang

Lớp

: Cao học Triết học K20

HÀ NỘI - 2015
24


25



×