Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo công tác xã hội hóa giáo dục trong trường mầm non tam dương vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.31 KB, 31 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Như chúng ta đã biết sự nghiệp Giáo dục luôn được Đảng và nhà nước ta
đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển. Trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
luôn nêu cao vai trò quan trọng của nền giáo dục nước nhà, tại Hội Nghị Ban
chấp hành Trung ương 2 Khóa VIII đã ban hành Nghị quyết thực hiện các chủ
trương của Đảng, nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và Đào
tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), lĩnh vực Giáo dục
và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào
sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ Quốc, cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo
dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất
thiết bị giáo dục đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa.
Ở nước ta Giáo dục và Đào tạo đã được coi là quốc sách hàng đầu.Tại Hội
nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị Quyết
số 29- NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế. Tại Nghị quyết này một lần nữa khẳng
định quan điểm của Đảng ta là Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho Giáo dục là đầu tư
cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội. Tại quan điểm thứ sáu của Nghị quyết khẳng định: "Chủ động
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển Giáo dục và đào tạo.
Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo"phát triển Giáo dục
và đào tạo Đảng đã coi xã hội hóa giáo dục (XHHGD) không chỉ là giải pháp
mang tính chất tình thế mà còn là tư tưởng của thời đại, là giải pháp chiến lược
đưa Giáo dục và Đào tạo lên tầm cao mới. Nghị quyết TW4 (khoá VII) khẳng
định “huy động toàn xã hội làm Giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp
1



sức xây dựng nền Giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước ”.Tiếp đó
các nghị quyết văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII chỉ rõ “các vấn đề chính sách
xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá” cụ thể hơn Nghị quyết đại hội
Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX nhấn mạnh“Thực hiện chủ trương
XHHGD”, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục - đào tạo” và nhắc nhở rằng “ Việc đổi
mới cơ chế quản lý và thực hiện xã hội hoá trong các lĩnh vực này triển khai
chậm ”. Các quan điểm, định hướng đó lại được thể chế hoá bằng luật Giáo dục
2005, Điều lệ trường mầm non.Trong giai đoạn hiện nay việc làm tốt XHHGD
cũng là thực hiện một trong năm tiêu chuẩn cần đạt và là giải pháp nòng cốt để
xây dựng và duy trì trường mầm non đạt chuẩn quốc gia.
Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, Nhà nước có chính sách huy động các
nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục – đào tạo, khuyến khích và tạo điều
kiện cho các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế tích cực tham gia các hoạt
động phát triển giáo dục. Xây dựng cơ chế quản lý, giám sát mọi nguồn đầu tư
của xã hội cho giáo dục.
Để hiểu rõ hơn về Xã hội hóa giáo dục, thì thuật ngữ này cho dù ở cấp
độ nào đó đồng nghĩa với thuật ngữ “Xã hội học tập”. Hai thuật ngữ này lần đầu
tiên xuất hiện trong báo cáo của UNESCO có tựa đề “Học để tồn tại; Giáo dục
hôm nay thế giới ngày mai”. Nội dung của nó bao gồm hai khía cạnh song hành,
quan hệ mật thiết với nhau. Thứ nhất: Mọi tổ chức, mọi tập thể, mọi cá nhân
theo khả năng của mình đều có thể cung ứng cơ hội học tập cộng đồng. Thứ hai:
Mọi người dân trong cộng đồng đều có thể tận dụng cơ hội để có thể có cơ hội
học tập và tham gia phát triển giáo dục cộng đồng, nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống cho bản thân
Xã hội hoá giáo dục không phải là một giải pháp tình thế nhất thời chỉ
được tổ chức thực hiện trong một thời gian nhất định mà là một tư tưởng cách
mạng chiến lược lâu dài.
Bản chất xã hội của Xã hội hoá giáo dục là tổ chức thực hiện xây dựng
một nền giáo dục xã chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Giảm bớt được gánh

nặng và sự “khoán trắng” về đầu tư ngân sách cho giáo dục. Bên cạnh đó, xã hội
2


hoá giáo dục chính là “giáo dục cho tất cả mọi người; tất cả mọi người cho sự
nghiệp giáo dục”, đó là đưa giáo dục gắn với xã hội, với cộng đồng; giáo dục
phục vụ mục tiêu xã hội, phục vụ cộng đồng. Cơ sở tư duy của xã hội hoá giáo
dục là đặt giáo dục vào đúng vị trí của nó. Giáo dục là bộ phận không thể tách
rời của hệ thống xã hội. Giáo dục cùng với khoa học công nghệ là động lực phát
triển kinh tế xã hội.
Phát triển giáo dục luôn đi liền với quá trình xã hội hoá giáo dục. Đối với
giáo dục mầm non, xã hội hoá là nhu cầu, là qui luật tồn tại và phát triển của bậc
học. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xã hội hoá giáo
dục mầm non là một trong những nhân tố hàng đầu để nâng cao chất lượng
chăm sóc, giáo dục trẻ, đáp ứng yêu cầu huy động tối đa trẻ em đến trường, phục
vụ mục tiêu hình thành nhân cách trẻ em, tạo tiền đề để thực hiện phổ cập và
nâng cao chất lượng giáo dục. Công tác xã hội hoá giáo dục mầm non đã và
đang phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu với nhiều hình thức
phong phú và đa dạng.
Trước thực trạng cơ sở vật chất của nhà trường. Là một cán bộ quản lí trong
trường mầm non, tôi rất băn khoăn trăn trở: Làm thế nào để xây dựng cơ sở vật
chất, mua sắm trang thiết bị đồ dùng đồ chơi cho cô và trẻ trong các hoạt động
dạy và học được tốt hơn. Từ những thực trạng trên, khó khăn về cơ sở vật chất
tôi xây dựng kế hoạch phối hợp với phụ huynh, các ban ngành đoàn thể…..trong
việc xã hội hóa giáo dục giúp nhà trường tăng cường cơ sở vật chất nhằm xây
dựng một môi trường học tập xanh, sạch, đep; “trường học thân thiện, học sinh
tích cực”, văn minh và sáng tạo. Với mục tiêu chung của giáo dục mầm non.
Giúp cho trẻ phát triển ngày càng khỏe mạnh và thông minh để mai này làm
những chủ nhân trong tương lai góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
thì việc xây dựng cơ sở vật chất nhà trường là vấn đề hết sức quan trọng.

Hiện nay, trường mầm non Đạo Tú cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị,
đồ dùng đồ chơi phục vụ cho nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ còn thiếu thốn
đặc biệt là khối phòng học; phòng chức năng. Phòng học thếu 3 phòng còn học
3


nhờ ở phòng âm nhạc, phòng y tế; phòng nhân viên; đồ dùng đồ chơi thiếu 10 bộ
theo thông tư 02; Tủ đựng đồ dùng đồ chơi, đồ dùng cá nhân thiếu 19 tủ. đồ chơi
ngoài trời còn thiếu ở khu lẻ.
Với vai trò của người Hiệu trưởng, tôi xác định ngoài việc thúc đẩy mọi
hoạt động của nhà trường, việc quan tâm đến chất lượng giáo dục thì việc xây
dựng cơ sở vật chất nhà trường ngày một khang trang, đầy đủ là hết sức quan
trọng, góp phần hoàn thành nhiệm vụ từng năm học. Để thực hiện nhiệm vụ này,
tôi đã tìm hiểu thực trạng của công tác xã hội hóa giáo dục ở địa phương, rút ra
nguyên nhân của những tồn tại cũng như những ưu điểm trong công tác kêu gọi
các lực lượng trong và ngoài nhà trường đóng góp xây dựng cơ sở vật chất nhà
trường nói chung và xây dựng trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia nói riêng.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên với trách nhiệm của người cán bộ
quản lý tôi chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo công tác xã hội hóa giáo dục

trong trường mầm non Tam Dương Vĩnh Phúc”
2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp chỉ đạo công tác xã hội hóa giáo
dục trong trường mầm non Tam Dương Vĩnh Phúc”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Lại Thị Vân
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường MN Đạo Tú, huyện Tam Dương, tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0962.294.111
- Email:
4. Chủ đầu tư sáng kiến: Lại Thị Vân

5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Công tác quản lý chỉ đạo, các điều kiện và thực trạng cơ sở vật chất, công
tác tham mưu xã hội hóa giáo dục trong trường mầm non.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Tháng 02/2018 – 2/2019
4


7. Mô tả bản chất sáng kiến
7.1. Cơ sở lý luận và thực trạng của vấn đề chỉ đạo thực hiện xã hội hóa
giáo dục để xây dựng cơ sở vật chất trong trường mầm non
7.1.1. Cơ sở lý luận
Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Nghị
quyết Trung ương II khoá VIII, một Nghị quyết chuyên đề về giáo dục đầu tiên
của Đảng khẳng định: "Phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà
nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình và mỗi công dân; kết hợp tốt giáo dục
học đường với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội . Các tổ chức kinh tế, xã hội,
các gia đình và các cá nhân đều có trách nhiệm tích cực, góp phần phát triển sự
nghiệp đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho GD-ĐT". Xã hội
hóa giáo dục là con đường để xây dựng hệ thống giáo dục lành mạnh, có chất
lượng đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo nên động lực xây dựng thành
công một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Việc chăm sóc giáo dục trẻ mầm non là nhiệm vụ chung của các trường,
lớp mầm non, của cả gia đình trẻ và cộng đồng. Cần huy động và tạo điều kiện
để gia đình và cộng đồng tham gia.
Trước hết là làm cho xã hội nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của giáo dục,
thực trạng của giáo dục địa phương, nhận thức rõ trách nhiệm của xã hội đối với
giáo dục. Vấn đề này được đặt ra ở nhiều nước trên thế giới vì giáo dục là một
hoạt động mang tính xã hội cao. Giáo dục liên quan đến mọi người, mọi cộng
đồng. Đối với gia đình đó là lợi ích của những đứa con và của cả gia đình. Đối
với xã hội đó là lợi ích của công dân và của cả xã hội.

Xã hội hoá công tác giáo dục giúp cho xã hội hiểu rõ thực trạng của giáo
dục địa phương, thấy được vị trí, vai trò, lợi ích của giáo dục, hiểu sâu sắc hơn
quan điểm giáo dục của Đảng về đổi mới sự nghiệp giáo dục, qua đó nâng cao
trách nhiệm của các cấp, các ngành, của nhân dân trong xây dựng và phát triển
sự nghiệp giáo dục của địa phương. Từ đó xây dựng được cơ chế liên kết, hợp
5


đồng trách nhiệm hợp lí giữa các lực lượng xã hội, gia đình và nhà trường trong
xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển đó. Đặc biệt là kế hoạch huy động trẻ
trong độ tuổi đến trường, huy động tối đa sự ủng hộ về vật chất và tinh thần cho
sự nghiệp giáo dục của địa phương.
Trong năm học vừa qua nhà trường cũng đã làm tốt công tác xã hội hoá
giáo dục ngoài việc huy động được sự ủng hộ của các cấp các ngành còn huy
động sự ủng hộ vật chất của phụ huynh học sinh nhằm tăng cường cơ sở vật chất
phục vụ cho công tác nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ. Tháng 12 năm 2018
trường được công nhận lại trường chuẩn Quốc gia mức độ 1. Để giữ vững và
phấn đấu trường chuẩn Quốc gia mức độ 2, năm học 2018-2019 nhà trường triển
khai chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm”.
Để phấn đấu xây dựng trường mầm non Đạo Tú đạt trường chuẩn Quốc gia
mức độ 2, bên cạnh sự đầu tư cơ sở vật chất của Huyện, Phòng GD&ĐT, UBND
xã thì việc huy động sự ủng hộ từ công tác xã hội hoá và các lực lượng xã hội trong
đó có phụ huynh là rất quan trọng và cần thiết. Chính vì vậy việc tìm ra các giải
pháp hữu hiệu nhằm tăng cường thực hiện xã hội hoá giáo dục nhằm phát huy tài
lực, trí lực, vật lực đóng góp cho công tác chăm sóc giáo dục phát triển toàn diện
cho trẻ, góp phần xây dựng nhà trường ngày càng đầy đủ về cơ sở vật chất, tôi băn
khoăn suy nghĩ với quyết tâm xây dựng nhà trường khang trang sạch sẽ, các trang
thiết bị đồ dùng dạy học đáp ứng được với yêu cầu của bậc học.
7.1. 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
a. Thực trạng trường mầm non Đạo Tú- Tam Dương- Vĩnh Phúc

Năm học 2018- 2019 trường mầm non Đạo Tú có tổng số 16 nhóm lớp
với 448 trẻ trong đó 14 lớp mẫu giáo với tổng số trẻ là 398 cháu và 2 nhóm trẻ
với 50 cháu. Quy mô lớp ở hai điểm trường không tập trung một địa điểm. Khu
trung tâm nhà trường có 14 nhóm lớp; khu lẻ có 2 nhóm lớp.
Tỷ lệ trẻ ra lớp đạt 100% ( trong đó có cả trẻ ra lớp Tư thục)
Tình hình đội ngũ giáo viên năm học 2018- 2019 như sau:
6


- Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường là: 32 người
+ Ban giám hiệu : 03 người
+ Giáo viên : 27 người
+ Nhân viên: 2 người
- Trình độ đào tạo:
+ Đại học: 24/27 đạt tỷ lệ 88,8%
+ Trung cấp: 3/27 đạt tỷ lệ 11,2% (trong đó đang học đại học 1)
* Thuận lợi:
Trường mầm non Đạo Tú ở khu phố Bê Tông xã Đạo Tú, là khu vực đông
dân cư, đa số người dân có trình độ dân trí cao, có điều kiện về kinh tế.
100% cán bộ giáo viên, nhân viên đạt chuẩn đào tạo. Đội ngũ giáo viên nhà
trường tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và
năng lực sư phạm cho bản thân.
Nề nếp, kỷ cương trong nhà trường được giữ vững, được thể hiện qua các
hoạt động của các tổ chức, đoàn thể trong đó có hoạt động của Ban đại diện cha
mẹ học sinh. Ngay từ đầu năm học các nhóm lớp thành lập được 16 Ban đại diện
của 16 nhóm lớp; Ban đại diện phụ huynh nhà trường đã xây dựng kế hoạch
hoạt động và chỉ đạo Ban đại diện phụ huynh các nhóm lớp thực hiện, cùng nhà
trường quản lý tốt việc nuôi dưỡng- chăm sóc- giáo dục trẻ, theo dõi sát chương
trình học, đến từng bữa ăn, giấc ngủ cùng các hoạt động vui chơi của trẻ
Trường có đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình, có trình độ chuyên môn đạt

chuẩn 100%, có 88,8% giáo viên có trình độ trên chuẩn và hiện có 1 giáo viên
đang theo học các lớp đại học sư phạm mầm non hệ tại chức.
100% trẻ đến trường được tổ chức ăn bán trú tại trường, được tổ chức các
hoạt động học tập đúng chương trình độ tuổi.
Ban giám hiệu nhà trường đồng lòng nhất trí cao trong công việc, luôn
khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
7


Cơ sở vật chất của nhà trường đã được địa phương quan tâm đầu tư, hàng
năm phòng GD&ĐT Tam Dương đều có hỗ trợ các trang thiết bị phục vụ cho
các hoạt động học tập và vui chơi của nhà trường.
Công tác xã hội hóa giáo dục của nhà trường được lãnh đạo địa phương
và phần lớn phụ huynh học sinh quan tâm ủng hộ.
* Khó khăn
Năm học 2018 -2019, cơ sở vật chất của trường đã có nhiều chuyển biến
tích cực, xong là năm học nhà trường phấn đấu đạt các tiêu chí của trường mầm
non công nhận lại trường chuẩn Quốc gia. Chính vì vậy mà nhà trường còn gặp
rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định của trường
chuẩn Quốc gia.
Sân trường chưa được nát gạch đồng bộ còn ảnh hưởng đến môi trường và
các hoạt động vui chơi của trẻ.
Các phòng học chưa đảm bảo về ánh sáng làm ảnh hưởng đến giấc ngủ
của trẻ.
Một số lớp học chưa được trang bị đầy đủ đồ dùng, đồ chơi theo thông tư
02, và một số đồ dùng cơ sở vật chất bán trú…
Đội ngũ giáo viên còn thiếu về số lượng, chưa đồng bộ về chất lượng, số
lượng giáo viên hợp đồng ngắn hạn còn nhiều.
Việc quan tâm chăm sóc con em của một số phụ huynh chưa đáp ứng với
nhu cầu giáo dục ngày càng cao hiện nay. Nhu cầu về kinh tế, mưu sinh được

quan tâm nhiều hơn nhu cầu học tập. Phụ huynh học sinh chưa nắm rõ quan
điểm giáo dục hiện nay, thái độ hợp tác giáo dục trẻ chưa rõ ràng, chưa thống
nhất với nhà trường.
Công tác xã hội hóa giáo dục, tuyên truyền về bậc học còn gặp nhiều khó
khăn vì phần lớn phụ huynh làm nông nghiệp chưa, quan tâm đúng mức đến bậc
học và phó thác việc học tập của con em mình cho nhà trường.
8


Số lượng giáo viên còn thiếu theo quy định của điều lệ trường mầm non
nhiều (10 người)
Số giáo viên trẻ mới được bổ sung hàng năm hầu hết trong độ tuổi sinh đẻ
chính vì vậy mà hàng năm số giáo viên nghỉ thai sản theo quy định của nhà trường
nhiều phần nào ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
Từ những thuận lợi và khó khăn nêu trên tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện
pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đơn vị theo hướng đi của riêng mình
nhằm giúp đơn vị đạt được mục tiêu đã đưa ra.
Qua khảo sát lần đầu (tháng 8/2018) kết quả như sau:
Bảng 1: Cơ sở vật chất
Phòng học nhờ

Phòng học kiên

Lớp có đủ

Sân có đồ chơi

Số bảng biểu

cố


TTB-ĐDĐC

ngoài trời

tuyên truyền

13

6

1

7

3

Nhìn vào bảng trên ta thấy nhà trường vẫn còn phòng học nhờ, so với số
nhóm lớp còn thiếu 03 phòng.
Số nhóm lớp có đủ đồ dùng đồ chơi theo quy định còn thiếu 10 so với tổng
số nhóm lớp.
Số lượng bảng biểu tuyên truyền còn ít chưa phong phú hấp dẫn..
Bảng 2: Trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi
Bàn ghế

175 bộ

Phản

Tủ để chăn


Tủ để đồ dùng

Tủ giá đồ

Đồ dùng đồ

gối

cá nhân

chơi góc lớp

chơi tự làm

8

10

40

90

170

Số trang thiết bị đồ dùng so với số lượng nhóm lớp, học sinh còn thiếu rất
nhiều, đồ dùng đồ chơi chưa đa dạng và phong phú.
* Đối với phụ huynh
Phụ huynh học sinh của nhà trường có mức thu nhập chênh lệch, sự hiểu
9



biết của phụ huynh còn chưa đồng đều nên việc huy động sự đóng góp tăng
cường cơ sở vật chất, mua sắm các trang thiết bị, tài liệu, học liệu cho trẻ còn
gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó phần lớn phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của trẻ ở
trường mầm non mà cho rằng trẻ đến trường chỉ để vui chơi, có những phụ
huynh còn mải làm kinh tế xa nhà phó mặc việc nuôi dạy trẻ cho nhà trường.
Công tác truyên truyền về bậc học cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Từ những kết quả khảo sát trên tôi luôn suy nghĩ và trăn trở xem mình
phải làm gì và làm thế nào để chỉ đạo một số biện pháp làm tốt công tác xã hội
hóa giáo dục.
b.Thực trạng về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi của
trường mầm non Kim Long
* Thuận lợi:
Trường mầm non Kim Long nằm ở thôn Đồng Ăng xã Kim Long, là khu
vực trung tâm của xã thuận tiện cho việc các bậc phụ huynh đưa đón con đến
trường. 100% cán bộ giáo viên, nhân viên đạt chuẩn đào tạo. Đội ngũ giáo viên
nhà trường tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
và năng lực sư phạm cho bản thân.
Nề nếp, kỷ cương trong nhà trường được giữ vững, được thể hiện qua các
hoạt động của các tổ chức, đoàn thể trong đó có hoạt động của Ban đại diện cha
mẹ học sinh. Đầu năm học các nhóm lớp thành lập được 28 Ban đại diện của 28
nhóm lớp; Ban đại diện phụ huynh nhà trường đã xây dựng kế hoạch hoạt động
và chỉ đạo Ban đại diện phụ huynh các nhóm lớp thực hiện, cùng nhà trường
quản lý tốt việc nuôi dưỡng- chăm sóc- giáo dục trẻ, theo dõi sát chương trình
học, đến từng bữa ăn, giấc ngủ cùng các hoạt động vui chơi của trẻ
Trường có đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình, có trình độ chuyên môn đạt
chuẩn 100%, có 90% giáo viên có trình độ trên chuẩn và hiện có 4 giáo viên
đang theo học các lớp đại học sư phạm mầm non hệ tại chức.

10


Ban giám hiệu nhà trường đồng lòng nhất trí cao trong công việc, luôn
khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Cơ sở vật chất của nhà trường đã được địa phương quan tâm đầu tư, hàng
năm phòng GD&ĐT Tam Dương đều có hỗ trợ các trang thiết bị phục vụ cho
các hoạt động học tập và vui chơi của nhà trường.
Công tác xã hội hóa giáo dục của nhà trường được lãnh đạo địa phương
và phần lớn phụ huynh học sinh quan tâm ủng hộ.
* Khó khăn
Năm học 2018 -2019, cơ sở vật chất của trường đã có nhiều chuyển biến
tích cực, xong nhà trường có 3 điểm trường. Chính vì vậy mà nhà trường còn
gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định của trường
chuẩn Quốc gia.
Các phòng học chưa đảm bảo về ánh sáng làm ảnh hưởng đến giấc ngủ
của trẻ.
Một số lớp học chưa được trang bị đầy đủ đồ dùng, đồ chơi theo thông tư
02, và một số đồ dùng cơ sở vật chất bán trú…
Đội ngũ giáo viên còn thiếu về số lượng, chưa đồng bộ về chất lượng, số
lượng giáo viên hợp đồng ngắn hạn còn nhiều.
Việc quan tâm chăm sóc con em của một số phụ huynh chưa đáp ứng với
nhu cầu giáo dục ngày càng cao hiện nay. Nhu cầu về kinh tế, mưu sinh được
quan tâm nhiều hơn nhu cầu học tập. Phụ huynh học sinh chưa nắm rõ quan
điểm giáo dục hiện nay, thái độ hợp tác giáo dục trẻ chưa rõ ràng, chưa thống
nhất với nhà trường.
Công tác xã hội hóa giáo dục, tuyên truyền về bậc học còn gặp nhiều khó
khăn vì phần lớn phụ huynh làm nông nghiệp chưa, quan tâm đúng mức đến bậc
học và phó thác việc học tập của con em mình cho nhà trường.


11


Số giáo viên trẻ mới được bổ sung hàng năm hầu hết trong độ tuổi sinh đẻ
chính vì vậy mà hàng năm số giáo viên nghỉ thai sản theo quy định của nhà trường
nhiều phần nào ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
Từ những thuận lợi và khó khăn nêu trên tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện
pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đơn vị theo hướng đi của riêng mình
nhằm giúp đơn vị đạt được mục tiêu đã đưa ra.
Qua khảo sát lần đầu (tháng 8/2018) kết quả như sau:
Bảng 3: Cơ sở vật chất trường MN Kim Long
Phòng học nhờ

Phòng học kiên

Lớp có đủ

Sân có đồ chơi

Số bảng biểu

cố

TTB-ĐDĐC

ngoài trời

tuyên truyền

26


10

2

25

2

Nhìn vào bảng trên ta thấy nhà trường vẫn còn phòng học nhờ, so với số
nhóm lớp còn thiếu 02 phòng.
Số nhóm lớp có đủ đồ dùng đồ chơi theo quy định còn thiếu 18 so với tổng
số nhóm lớp.
Số lượng bảng biểu tuyên truyền còn ít chưa phong phú hấp dẫn..
Bảng 4: Trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi
Bàn ghế

300 bộ

Phản

290

Tủ để chăn

Tủ để đồ dùng

Tủ giá đồ

Đồ dùng đồ


gối

cá nhân

chơi góc lớp

chơi tự làm

20

20

80

155

Số trang thiết bị đồ dùng so với số lượng nhóm lớp, học sinh còn thiếu rất
nhiều. Số lượng đồ dùng đồ chơi tự làm chưa đa dạng phong phú hấp dẫn trẻ.
* Đối với phụ huynh
Phụ huynh học sinh của nhà trường có mức thu nhập chênh lệch, sự hiểu
biết của phụ huynh còn chưa đồng đều nên việc huy động sự đóng góp tăng
cường cơ sở vật chất, mua sắm các trang thiết bị, tài liệu, học liệu cho trẻ còn
12


gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó phần lớn phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của trẻ ở
trường mầm non mà cho rằng trẻ đến trường chỉ để vui chơi, có những phụ
huynh còn mải di làm kinh tế xa nhà phó mặc việc nuôi dạy trẻ cho nhà trường.

Công tác truyên truyền về bậc học cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Từ những kết quả khảo sát trên tôi luôn suy nghĩ và trăn trở xem mình
phải làm gì và làm như thế nào.
c. Thực trạng các biện pháp thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục về
cơ sở vật chất của 2 nhà trường mầm non Đạo Tú, trường mầm non Kim
Long
Qua những biện pháp tôi đã đưa vào nghiên cứu và thực hiện nhưng hiệu
quả chưa cao. Như biện pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao về công
tác xã hội hóa;; Biện pháp làm tốt công tác tham mưu với các cấp lãnh đạo cùng
tham gia vào công tác XHHGD; Biện Pháp lập kế hoạch cụ thể việc XHHGD
của nhà trường. Thực hiện tốt các quy trình huy động XHH giáo dục. Tôi đã
mạnh giạn tìm hiểu và cải tiến những biện pháp đó và đưa thêm một số biện
pháp mới để đạt được kết quả nghiên cứu của tôi cao hơn trong công tác xã hội
hóa giáo dục.
7.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến
Xuất phát từ thực tế cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường trong những
năm gần đây chưa đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và giáo dục trong giai đoạn mới.
Đề tài nhỏ này của tôi nhằm mục đích phân tích thực trạng, nguyên nhân, đề ra cơ sở
lý luận, giải pháp giải quyết thực trạng, làm tốt công tác tham mưu, công tác xã hội
hóa giáo dục, làm tốt công tác quản lý cơ sở vật chất trường học, đặc biệt là vấn đề
xây dựng cơ sở vật chất, công tác quản lý chỉ đạo, nâng cao chất lượng giáo dục của
nhà trường duy trì trường chuẩn quốc gia mức độ 1. Trong phạm vi đề tài của mình tôi
đã Cải tiến, bổ sung một số biện pháp trong chỉ đạo công tác xã hội hoa giáo dục trong
trường mầm non sau:
13


Biện pháp1: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về
xã hội hoá.
Như phần trên đã trình bày, bản chất xã hội hoá giáo dục là quá trình vận

động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của mọi người cùng làm
giáo dục để giáo dục phục vụ cho mọi người. Trách nhiệm của ngành giáo dục
và nhà trường mầm non là phải làm cho mọi người thấy rõ vai trò.
Nâng cao nhận thức về xã hội hoá giáo dục cho mọi người có rất nhiều
con đường, nhiều hình thức tổng hợp. Để làm được điều này, tôi đã quan tâm tới
các vấn đề sau:
Trước hết cần làm tốt công tác tham mưu với cấp uỷ Đảng, chính quyền
địa phương, lãnh đạo phòng giáo dục và đào tạo để đề xuất kế hoạch xã hội hóa
giáo dục của nhà trường, tranh thủ mọi sự đồng thuận của lãnh đạo ngành và
chính quyền địa phương; Sau đó phổ biến quán triệt đến toàn thể cán bộ, giáo
viên trong nhà trường về chủ trương kế hoạch vận động xã hội hóa của nhà
trường, lấy ý kiến đóng góp chỉnh sửa kế hoạch cho phù hợp với tình hình thực
tế của nhà trường. Tạo được sự nhất trí đồng thuận của toàn thể cán bộ giáo
viên, sau đó xây dựng kế hoạch mở rộng công tác tuyên truuyền đến toàn phụ
huynh học sinh và nhân dân dưới nhiều hình thức như: Tổ chức buổi họp phụ
huynh học sinh; Tuyên tryền trên loa đài của nhà trường vào thời gian đón trả trẻ
trong ngày... Tổ chức học tập, quán triệt các văn bản, nghị quyết, chỉ thị có liên
quan đến giáo dục và xã hội hoá sự nghiệp giáo dục để mọi người đều nắm vững
chủ trương, đường lối, chính sách, kêu gọi mọi người vận dụng vào thực tiễn.
Xây dựng các góc tuyên truyền ở các lớp và ở cộng đồng: chọn một góc
thuận lợi (vị trí mà mọi người dễ trông thấy) tại trường làm góc tuyên truyền cho
các bậc cha mẹ học sinh. Tại đó, chúng tôi có các tài liệu, tranh ảnh…với những
nôị dung thiết thực như tổ chức nuôi dạy con, những yêu cầu mà các bậc cha
mẹ, cộng đồng cấn phối hợp với nhà trường, tuyên truyền các điển hình tham gia
đóng góp xây dựng giáo dục… Nội dung các tài liệu trưng bày cần được biên
soạn ngắn gọn, thiết thực, luôn thay đổi, cập nhật thông tin, hình thức hấp dẫn;
14


Kết hợp việc cung cấp thông tin ở các góc tuyên truyền, nhà trường bố trí “Hòm

thư góp ý” để các bậc phụ huynh và người dân có thể tham gia đóng góp ý kiến
với ngành giáo dục và nhà trường về những vấn đề như: nội dung, phương pháp
giáo dục, tìm hiểu phương pháp nuôi dạy con, hay về các vần đề mà cha mẹ các
cháu chưa rõ…
Tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng: Phối hợp với đài
truyền thanh tổ chức tuyên truyền sâu rộng, thiết thực trong nhân dân và cha mẹ
học sinh thông qua hệ thống phát thanh hàng ngày nhằm tạo chuyển biến trong
nhận thức và hành động của nhân dân trong công tác tham gia xã hội hoá giáo
dục… để mọi người dễ xem, dễ ghi nhớ.
Những việc chúng tôi đã làm chỉ là một trong nhiều "kênh" thông tin góp
phần nâng cao nhận thức của đông đảo quần chúng nhân dân về giáo dục.
Nhưng không thể phủ nhận những kết quả mà chúng tôi nhận được từ những
biện pháp đã tiến hành. Trong nhiều năm trở lại đây sự nhận thức của phụ
huynh về công tác XHHGD của nhà trường đã được nâng cao rõ rệt. Cha mẹ học
sinh nhiệt tình, thẳng thắn hơn, quan tâm hơn đến công tác giáo dục của nhà
trường, sẵn sàng góp phần hợp tác với nhà trường để xây dựng nhà trường có
chất lượng cao hơn. Từ những tham mưu, tuyên truyền tích cực như vậy, các
cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương, cũng đã có nhận thức đúng đắn về
công tác xã hội hoá giáo dục, họ đã hiểu rằng xã hội hoá giáo dục là trách nhiệm
của các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương trước nhân dân. Từ đó phát huy
vai trò lãnh chỉ đạo trong thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác XHHGD trong những năm
qua Ban giám hiệu trường mầm non Đạo Tú luôn quan tâm, coi đây là nhiệm vụ
song hành với nhiệm vụ đổi mới phương pháp để nâng cao chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục trong nhà trường. Trong quá trình thực hiện nhà trường đã
tìm ra một số giải pháp hữu hiệu để thực hiện tốt công tác XHHGD, huy động
mọi người tham gia làm giáo dục từng bước có hiệu quả.

15



Trên cơ sở cấp uỷ, chính quyền giữ vai trò lãnh đạo, quản lý chỉ đạo, nhà
trường thành lập Ban XHHGD, thống nhất trách nhiệm huy động nguồn lực cho
mọi thành viên. Các loại quỹ huy động từ cha mẹ học sinh đóng góp, các nguồn
động viên trong xã hội đều được Ban giám hiệu công khai rõ ràng trước các
cuộc họp phụ huynh toàn trường. Nhờ vậy các nhà tài trợ, các bậc cha mẹ học
sinh đều tin tưởng khi họ tham gia đóng góp xây dựng nhà trường.
Để thực hiện có hiệu quả công tác XHHGD hàng năm nhà trường phải
xây dựng kế hoạch thật cụ thể, được thống nhất trong cấp uỷ, Ban giám hiệu và
hội đồng sư phạm nhà trường sau đó triển khai đến cuộc hop phụ huynh học sinh
toàn trường cần làm rõ, mục đích và đối tượng hưởng lợi và được sự đồng thuận
cao từ phụ huynh thì công tác XHH mới có hiệu quả cao.
Biện pháp 2: Lập kế hoạch cụ thể việc XHHGD của nhà trường
Để thực hiện XHHGD, nhà trường phải giữ vai trò nòng cốt trong việc
xây dựng và triển khai kế hoạch, tạo ra các nội dung cho các hoat động
XHHGD.
Thành phần tham gia lập kế hoạch bao gồm: BGH nhà trường, Ban đại
diện cha mẹ học sinh các đoàn thể chủ chốt trong nhà trường. Muốn bộ máy chỉ
đạo XHHGD trong nhà trường phát huy sức mạnh của mình, muốn kế hoạch chỉ
đạo hoạt động XHHGD khoa học, thiết thực có hiệu quả, Hiệu trưởng cần thực
hiện các biện pháp sau:
Tổ chức cho giáo viên, toàn thể trong trường tham gia kế hoạch khảo sát
thực tế nhận định những khó khăn vướng mắc của nhà trường, nhằm hình thành
cho họ những kĩ năng đánh giá thực tế từ đó định hướng chương trình hành
động, tìm kiếm nguồn lực và điều kiện XHHGD để mọi người tham gia xây
dựng mục tiêu, nội dung, hình thức triển khai kế hoạch.
Cùng với đội ngũ giáo viên xây dựng chương trình, lập kế hoạch tổng thể
trong một thời gian (một năm hoặc một vài năm) và phải được thông qua hội

16



đồng giáo dục nhà trường, các cấp Uỷ đảng, chính quyền, hội đồng nhà trường.
Chương trình kế hoạch phải được thực hiện nghiêm túc, rõ ràng.
Trên cơ sở tình hình thực tế của nhà trường, tôi bám sát các văn bản
hướng dẫn của ngành để xây dựng kế hoạch các khoản cần huy động xã hội hóa
trong năm học. Căn cứ theo văn bản hướng dẫn số 1018/SGDĐT - KHTC ngày
08/9/2017 của Sở GD&ĐT Vĩnh phúc V/v hướng dẫn các khoản thu trong
trường học.
Căn cứ văn bản hướng dẫn số 290/ PGDĐT- KTr ngày 22/9/2017 của
phòng GD&ĐT Tam Dương V/v triển khai văn bản hướng dẫn thực hiện các
khoản thu trong trường học
1. Dự toán chi tiết các khoản thu
2. Họp chi bộ nhà trường
3. Họp ban giám hiệu mở rộng
4. Họp hội đồng sư phạm nhà trường
5. Họp phụ huynh học sinh các lớp
6. Lập kế hoạch triển khai các khoản thu (Trình cấp trên)
7.Quyết định, thông báo niêm yết công khai các khoản thu.
Để duy trì trường chuẩn quốc gia mức độ 2 và phấn đấu đạt trường chất
lượng cao ngoài việc nỗ lực của nhà trường, sự lãnh đạo của ngành chủ quản cấp
trên, chủ trương xã hội hóa giáo dục trong việc xây dựng và phát triển nhà trường
là yếu tố vô cùng quan trọng.
Biện pháp 3: Huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội
tham gia công tác xã hội hoá giáo dục.
Như chúng ta đã biết, xã hội hoá giáo dục là huy động và tổ chức các lực
lượng của toàn xã hội cùng tham gia vào quá trình giáo dục. Thực hiện liên kết
các lực lượng xã hội hưởng ứng tích cực đối với giáo dục, tập hợp các lực lượng
xã hội đóng góp, ủng hộ, tham gia xây dựng môi trường nhà trường từ cơ sở hạ
17



tầng, cảnh quan, nề nếp giáo dục chăm sóc trẻ đến các mối quan hệ bên trong
nhà trường, quan hệ nhà trường với xã hội để nhà trường thực sự trở thành trung
tâm văn hoá, môi trường giáo dục lành mạnh.
Các hình thức phối hợp làm công tác XHHGD cũng có những khía cạnh,
mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ, sự tự nguyện, tự giác, khả năng điều
kiện riêng của các lực lượng xã hội và tính chất của từng hoạt động xã hội.
Như vậy, người hiệu trưởng cần ý thức rõ được yêu cầu phù hợp để điều
hành các hoạt động ở đơn vị mình, có sự liên kết, thoả thuận, hợp đồng trách
nhiệm để cụ thể hoá từng công việc sao cho đạt được hiệu quả cao. Để huy động
sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội tham gia công tác xã hội hoá giáo
dục, tôi quan tâm làm tốt những vấn đề sau:
Một là: Xây dựng cơ chế phối hợp giữa nhà trường, gia đình và các lực
lượng xã hội trong việc tổ chức tham gia cùng làm giáo dục
Để huy động được tiềm năng của cộng đồng hỗ trợ cho quá trình tổ chức
giáo dục cần phải xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình và các lực
lượng xã hội. Xây dựng mối quan hệ, liên kết, tập hợp tất cả các lực lượng, các
tổ chức xã hội cùng nhau tham gia vào quá trình giáo dục của nhà trường. Trong
cơ chế này, bên cạnh nhà trường, gia đình là một đơn vị giáo dục trẻ cực kỳ quan
trọng (bởi từ lúc lọt lòng mẹ, trẻ chịu ảnh hưởng vô cùng lớn của giáo dục gia
đình). Chính vì vậy, Giáo dục tại các nhà trường phải tiếp nối và phối hợp với
giáo dục gia đình, mối liên kết này đòi hỏi phải chặt chẽ tạo nên một quan hệ hỗ
trợ và phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở thống nhất về mục đích.
Hai là: Tổ chức các hoạt động, phong trào tạo động lực trong việc huy
động tiềm năng của cộng đồng để phát triển giáo dục.
Để tạo được bước đột phá trong việc huy động cộng đồng tham gia giáo
dục thì công tác tổ chức xã hội hoá giáo dục cần hướng vào việc tổ chức các
hoạt động, các phong trào thi đua, các ngày hội để cộng đồng có cơ hội thể hiện
sự quan tâm của mình đối với giáo dục. Vị thế của giáo dục cần quan tâm tổ

chức các ngày lễ, ngày hội trong năm như “ Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường”,
18


tổ chức “Tháng hành động vì trẻ em”, ngày hội bé vào hè một cách sôi động và
thường xuyên đổi mới các hình thức sao cho phù hợp tình hình thực tế bên cạnh đó
cần chú ý đến nhu cầu xã hội và nguyện vọng của cha mẹ học sinh để có cách thực
biện pháp vận động tạo sự chú ý, lôi cuốn được cha mẹ học sinh quan tâm chăm sóc
sức khoẻ, giáo dục và tạo điều kiện tốt nhất có thể cho con em học tập, vui chơi; có
trách nhiệm cùng nhà trường chăm sóc, nuôi dạy con tốt. Đây cũng là dịp vận động
nhân dân, các cơ quan, các tổ chức xã hội cùng tham gia xây dựng giáo dục như giúp
xây dựng, sửa chữa trường lớp, mua sắm trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi phục vụ việc
dạy học…
Bên cạnh đó, bằng việc tổ chức các hội thi trong từng năm học như: Tổ
chức Trung thu, Liên hoan đàn và hát dân ca, hội diễn văn nghệ chào mừng các
ngày lễ ... chúng tôi đã thu hút được sự quan tâm đông đảo các lực lượng xã hội,
mọi thành phần kinh tế, mọi người dân ở địa phương. Trong các cuộc thi này
không chỉ đơn thuần có sự tham gia của cô và trò mà còn huy động được sự
tham gia của các bậc cha mẹ, ông bà, Hội cha mẹ học sinh, Hội phụ nữ, đặc biệt
có sự tham gia tài trợ của nhiều tổ chức, cá nhân, trên địa bàn. Ngoài ý nghĩa về
tài chính thì việc tuyên truyền làm cho xã hội hiểu rõ vai trò của giáo dục, vị trí
của giáo dục, về những công việc mà ngành thực hiện để nâng cao chất lượng
chăm sóc, nuôi dạy trẻ, để từ đó có sự phối hợp thực hện tốt mục tiêu đào tạo.
Như vậy, từ việc xác định các nhóm đối tượng, vai trò, tiềm năng của các lực
lượng xã hội cần phải biết cách tổ chức, tạo được sự quan tâm thì mới có thể lôi cuốn
tham gia của các lực lượng xã hội vào giáo dục một cách có hiệu quả. Và việc khai
thác huy động tiềm năng của cộng đồng hỗ trợ cho giáo dục rất cần thiết được tiến
hành một cách có kế hoạch, tránh tình trạng tuỳ tiện kém hiệu quả.
Biện pháp 4: Làm tốt công tác tham mưu với các cấp lãnh đạo cùng
tham gia vào công tác XHHGD.

Nói đến công tác XHHGD chúng ta đều biết đây là một chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước cùng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Bản thân tôi luôn
xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, chính quyền là hết sức quan trọng, quyết
19


định sự đầu tư CSVC cho nhà trường và tạo cơ chế cho công tác XHH giáo dục
ở điạ phương được triển khai thuận lợi.
Ngay từ đầu năm học, đứng trước thực trạng trên bản thân tôi vô cùng lo lắng
và trăn trở, làm sao để hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao cho trong
điều kiện hiện tại. Cụ thể là việc xây dựng và phát triển nhà trường trở thành nơi mà
nhân dân và phụ huynh tin tưởng gửi con em mình, tạo được niềm tin và sự quan
tâm, ủng hộ của cấp ủy và chính quyền địa phương. Hoàn thành kế hoạch duy trì
trường chuẩn mức độ 2 và phấn đấu đạt trường Mầm non chất lượng cao, để đạt
được mục tiêu này bản thân tôi đã thực hiện như sau:
Trước hết là cùng cấp ủy, chi bộ bàn bạc, xác định mục tiêu và hướng đi
cho nhà trường trong thời gian tới. Sau khi xây dựng được nghị quyết, tổ chức
triển khai đến toàn thể CBGV, NV trong các cuộc họp hội đồng, các tổ chức
trong nhà trường để mọi người được tham gia, đóng góp ý kiến xây dựng thành
kế hoạch chung của nhà trường. Chúng tôi xác định CSVC là điều kiện quan
trọng để nâng cao chất lượng dạy học và xây dựng nhà trường đạt trường Mầm
non chất lượng cao. Chính vì vậy vấn đề quy hoạch tổng thể nhà trường là việc
đầu tiên cần làm.
Trong công tác xây dựng XHH, hiệu trưởng là người trực tiếp với thực tế
nhà trường, nên trong lĩnh vực giáo dục về XHH nhằm tăng cường CSVC,
không ai hiểu và nắm rõ tình hình của đơn vị mình như hiệu trưởng. Cho nên,
hiệu trưởng trong thực thi nhiệm vụ, phải luôn xem mình như là một cán bộ giúp
việc của lãnh đạo địa phương và lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo, phải có ý
kiến, đề xuất để lãnh đạo địa phương và Phòng Giáo dục và Đào taọ quyết định
các vấn đề xây dựng tăng cường CSVC ngoài chức năng nhiệm vụ của mình.

Ngoài việc tham mưu cho lãnh đạo địa phương, bản thân tôi còn tích cực
tham mưu cho lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo đầu tư các hạng mục cơ sở
vật chất: trang thiết bị dạy học, bàn ghế...Cụ thể, trong xây dựng trường Mầm
non chất lượng cao, Phòng Giáo dục và Đào tạo đã tiếp tục đầu tư trang thiết bị
phục vụ cho dạy - học.
20


Trong công tác xã hội hóa giáo dục, bản thân tôi đã tập trung vào các lực
lượng xã hội với nhiều nhóm đối tượng khác nhau để huy động, gồm:
Lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp (lực lượng quan trọng quyết định sự
đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường và cũng là lực lượng tạo cơ chế và tạo điều
kiện cho việc XHHGD triển khai thuận lợi).
Gia đình, cha mẹ học sinh, ban đại diện cha mẹ học sinh (lực lượng có
nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích trực tiếp cùng chia sẻ với nhà trường và cũng là
lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với
học sinh).
Các cơ quan, ban ngành (nhất là các ngành có chức năng, có trách nhiệm
đối với nhà trường như y tế, công an, Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em, các tổ
chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Hội Khuyến học, các
tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện, Hội Cựu học sinh, Hội Cựu giáo chức,…).
Các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ tạo khả năng liên kết trong việc
huy động các nguồn lực vật chất.
Biện pháp 5: Phát huy vai trò của Hội cha mẹ học sinh trong nhà
trường:
CMHS cần có nhận thức đúng đắn và sâu sắc về bản chất của XHHGD;
từ nhận thức đúng đắn về chủ trương XHHGD, Hiệu trưởng phối hợp cùng ban
chấp hành hội cha mẹ học sinh cụ thể hoá nó một cách sáng tạo, phù hợp với
yêu cầu giáo dục và điều kiện thực tế nhiều mặt ở địa phương, đảm bảo tính khả
thi và tính hiệu quả của các hoạt động.

Hiệu trưởng nhà trường cần tranh thủ sự hỗ trợ của hội cha mẹ học sinh
một cách tốt nhất. Trong công tác XHHGD sự đồng thuận của hội cha mẹ học
sinh sẽ là tiếng nói tích cực trong việc nhà trường tổ chức vận động hỗ trợ mọi
sự đóng góp từ dân, sự tham gia của các tầng lớp xã hội cũng phần lớn phải dựa
vào lực lượng này.
Biện pháp 6. Thực hiện tốt dân chủ hoá trong nhà trường:
21


Để thực hiện tốt XHHGD cần thực hiện dân chủ hoá giáo dục. XHHGD
và dân chủ hoá giáo dục là hai quá trình có mối liên hệ mật thiết và biện chứng.
XHHGD sẽ giúp cho quá trình dân chủ hoá giáo dục được thuận lợi. Ngược lại,
nhờ dân chủ hoá giáo dục mà các thành phần tham gia XHHGD trở nên đông
đảo, rộng khắp. Dân chủ hoá giáo dục là động lực thúc đẩy XHHGD.
Dân chủ hoá giáo dục chỉ có thể thực hiện tốt khi Hiệu trưởng và Ban
giám hiệu đóng vai trò nòng cốt để huy động tích cực của các tổ chức chính trị xã hội. Chủ động tạo mối quan hệ tốt với địa phương và các ban ngành, đoàn
thể, vận động mọi lực lượng xã hội đóng góp nhân lực, vật lực và tài lực cho
giáo dục. Cùng với cấp uỷ và chính quyền địa phương tạo cơ hội và điều kiện để
mọi người được đi học theo nhu cầu chính đáng. Làm nòng cốt cho việc thực
hiện phổ cập giáo dục ở địa phương.
Chính vì vậy việc tạo bầu không khí dân chủ trong nhà trường có vai trò hết
sức quan trọng trong vấn đề XHHGD nó sẽ tạo ra bầu không khí làm việc thoải
mái, hăng hái và nhiệt tình cởi mở cho các thành viên trong nhà trường tích cực
trong mọi công việc. Vì thế người Hiệu Trưởng cần làm tốt các vấn đề sau.
Thông báo tình cụ thể về thuận lợi cũng như khó khăn của nhà trường cho
tất cả các thành viên trong nhà trường nắm được và cùng nhau tháo gỡ.
Thông báo mọi chủ trương chính sách của đảng và nhà nước,thực hiện đầy
đủ mọi quyền lợi cho CBCNVC về tinh thần cũng như vật chất. Tổ chức
CBCNVC được tham gia và đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch năm học và
cùng nhau bàn biện pháp thực hiện nhiệm vụ năm học và hoạt động khác của

nhà trường.
Thực hiện tốt phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
trong mọi hoạt động của nhà trường. Tăng cường tổ chức “ dân kiểm tra” bằng
nhiều hình thức phong phú như thông qua ban chỉ đạo thực hiện XHHCTGD,
Ban thanh tra nhân dân, công đoàn...
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
22


Khi nghiên cứu sáng kiến này tôi cần có các điều kiện hỗ trợ để thực hiện
được tốt bản sáng kiến của mình, tôi tìm hiểu đối tượng là giáo viên của trường,
các bậc phụ huynh học sinh, lãnh đạo địa phương, các ban ngành đoàn thể và
nhân dân địa phương.
Toàn bộ việc thống kê cơ sở vật chất, phòng học các trang thiết bị dạy học
hàng năm, việc khảo sát nhu cầu đồ dùng trang thiết bị và có sự so sánh với
trường bạn, giúp tôi xây dựng được kế hoạch đầu tư mua sắm cho năm học này
cũng là một phần quan trọng cho tôi hoàn thành bản sáng kiến của mình.
10. Đánh giá lợi ích thu được
10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của
tác giả
Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền nhận thức về chủ trương xã hội hóa
giáo dục và huy động các lực lượng xã hội tham gia xây dựng nhà trường đã huy
động được nhiều nguồn lực cho việc đầu tư các hạng mục CSVC vì CSVC là
yếu tố quyết định trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ và động
giáo dục khác theo quy định. Kết quả đạt được như sau:
Qua khảo sát lần 2 (tháng 2/2019) kết quả như sau:
Bảng 7: Cơ sở vật chất
Phòng học


Phòng học

Lớp có đủ

Sân có đồ chơi

Số bảng biểu tuyên

nhờ

kiên cố

TTB-

ngoài trời

truyền

2

18

ĐDĐC
2

14

10

Nhìn vào bảng trên ta thấy so với thời điểm khảo sát lần đầu phòng học nhờ

giảm 1 phòng. Số nhóm lớp có đủ đồ dùng đồ chơi theo quy định sau khi được
trang bị từ nguồn xã hội hóa giáo dục tăng thêm số đò dùng cho 10 nhóm lớp.
Số lượng bảng biểu tuyên truyền tăng thêm 11 chiếc và 1 sân chơi khu lẻ đã
được trang bị đồ chơi ngoài trời.
23


Bảng 8: Trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi so với đầu năm
Bàn ghế

Phản

Tủ để chăn

Tủ để đồ dùng

Tủ giá đồ

Đồ dùng đồ

gối

cá nhân

chơi góc lớp

chơi tự làm

225 bộ


192

16

16

64

190

Tăng 50 bộ

Tăng 22

Tăng 8

Tăng 6

Tăng 24

Tăng 100

So với thời điểm khảo sát lần đầu số trang thiết bị đồ dùng được trang bị
thêm rất nhiều, đáp ứng với số lượng học sinh.
Qua khảo sát lần 2 (tháng 2/2019) kết quả như sau:
Thực trạng về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi của trường
mầm non Kim Long
Bảng 9: Cơ sở vật chất
Phòng học nhờ


Phòng học kiên

Lớp có đủ

Sân có đồ chơi

Số bảng biểu

cố

TTB-ĐDĐC

ngoài trời

tuyên truyền

24

21

3

35

2

Nhìn vào bảng trên ta thấy so với thời điểm khảo sát đầu năm số nhón lớp
có đủ đồ dùng đồ chơi theo quy định là 21 nhóm lớp.
Số lượng bảng biểu tuyên truyền tăng thêm 15 và sân chơi ngoài trời ở khu
lẻ đã được tăng thêm thiết bị đồ chơi cho các cháu.

Bảng 10: Trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi
Bàn ghế

Phản

Tủ để chăn

Tủ để đồ dùng

Tủ giá đồ

Đồ dùng đồ

gối

cá nhân

chơi góc lớp

chơi tự làm

375bộ

336

28

28

112


225

Tăng 75

Tăng 46

Tăng 8

Tăng 8

Tăng 32

Tăng 70

Biểu 11: Biểu đối chứng
KQ khảo sát CSVC, trang thiết bị trường MN Đạo Tú
24


Nội dung

Trước khi áp dụng

Sau khi áp dụng

Cấp độ so
sánh

Số


Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

13

81%

14

87%

Tăng 7%

Phòng học nhờ, tạm

3

18,75%

2

12.5%

Giảm 6,25%

Lớp có đủ TTB-


6

37,5%

10

62,5%

Tăng 25%

1

50%

2

100%

Tăng 50%

lượng
Phòng học kiên cố,
bán kiên cố

ĐDĐC
Sân có đồ chơi ngoài
trời
Số bảng biểu tuyên


7

18

Tăng 11 bảng

truyền
Bàn ghế

170 bộ

75%

224

100%

Tăng 28%

Tủ để chăn gối

8

50%

16

100%

Tăng 50%


Tủ để đồ dùng cá

10

62,5%

16

100%

Tăng 50%

40

62,5%

64

100%

Tăng 24%

nhân
Tủ giá đồ chơi góc
lớp
Đồ dùng đồ chơi tự

90 loại


190

Tăng 100

làm

loại

Biểu 12: Biểu đối chứng
KQ khảo sát CSVC, trang thiết bị trường MN Kim Long
Nội dung

Trước khi áp dụng

Sau khi áp dụng

Cấp độ so
sánh

Phòng học kiên cố,

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

26


92,8%

29

92,8%

bán kiên cố

25


×