Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

dạy tiết luyện tâp, ôn tập như thế nào đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.46 KB, 29 trang )

TÊN CHUYÊN ĐỀ : DẠY TIẾT LUYỆN TÂP, ÔN TẬP NHƯ THẾ NÀO ĐỀ PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 2002-2003 khi cả nước đồng loạt triển khai chương trình giáo
dục phổ thông mới. Cùng với việc ban hành chương trình giáo dục mới
các sách giáo khoa ở tất cả các bộ môn được biên soạn lại theo hướng
lấy học sinh làm trung tâm trong hoạt động dạy – học, phát huy tính tích
cực của học sinh trong học tập. Bên cạnh những đổi mới khá triệt để về
nội dung giáo dục, những nỗ lực về đổi mới quá trình giáo dục được thúc
đẩy tích cực thì vấn đề được nói nhiều nhất là: Đổi mới phương pháp
dạy học. Có thể nói đây đã trở thành vấn đề thời sự hàng ngày khi nói
về giáo dục. Bên cạnh những thành công bước đầu của việc đổi mới
phương pháp giảng dạy: nhận thức của xã hội về đổi mới trong giáo
dục, nhận thức của mỗi thầy cô về nhu cầu cấp thiết của việc đổi mới
phương pháp, phần lớn giáo viên đã quan tâm đến việc tổ chức hoạt động
học tập của học sinh trong tiết học …Tuy nhiên một thực tế đáng lưu tâm
là: Việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở ta hình nh ư di ễn ra r ất ch ậm
chạp và gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân thì rất nhiều nhưng nguyên
nhân lớn nhất là giáo viên rất khó thay đổi cách dạy học đã trở thành thói
quen nếu các Thầy cô chưa thực sự hiểu rõ vấn đề: T ại sao phải đổi mới
phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp như thế nào: Có thầy cô
cho rằng: đổi mới phương pháp giảng dạy là đoạn tuyệt với những
phương pháp giảng dạy truyền thống, phát huy tính tích cực của học
sinh là học sinh phải tự nghiên cứu bài trong SGK, đến tiết học giáo
viên chỉ giải thích những gì học sinh chưa hiểu, phải có thảo luận theo
nhóm nhỏ bất chấp nội dung bài, kiểu bài đó không thể học, không cần
thiết tổ chức hoạt đó … Những vấn đề nêu trên mỗi nơi hiểu theo một
khía cạnh khác nhau và được chỉ đạo chuyên môn theo suy nghĩ khác
nhau của các cấp quản lý giáo dục địa phương đó. Từ đó việc mỗi giáo
viên đổi mới phương pháp giảng dạy của bản thân mình trở nên “ khuôn
mẫu”; “Hình thức” mà chưa quan tâm đến vấn đề quan trọng nhất: chất


lượng tiếp thu và vận dụng kiến thức của học sinh là nh ư thế nào? Cho
nên việc đổi mới phương pháp giảng dạy chúng ta phải thực tâm mà nói
rằng : Chưa đạt hiệu quả như mong đợi .
Vấn đề thứ hai là trong thời gian vừa qua chúng ta hầu như là tập trung
cho việc đổi mới phương pháp truyền thụ kiến thức mà chưa chú trọng
đổi mới phương pháp dạy cho học sinh kỹ năng học, kỹ năng vận dụng
kiến thức đã học, kỹ năng liên kết, hệ thống kiến thức đó. Từ đó học sinh


rất khó nắm bắt kiến thức mới và không vận dụng được kiến thức vào
trong thức tế cuộc sống được. Trong thực tế giảng dạy tại trường đa số
các thành viên trong tổ vẫn dành phần lớn sự quan tâm của mình vào
việc đổi mới phương pháp làm sau cho dạy kiến thức mới được tốt còn
tiết ít được quan tâm đổi mới nhất vẫn là hai tiết : Ôn tập và luyện tập.
Trong khi tiết luyện tập, ôn tập có tầm quan trọng đặc biệt trong các
tiết học các bộ môn khoa học tư nhiên. Đa số các tiết học đều không
thành công với một số lý do sau:
* Học sinh: Do hỏng kiến thức rất lớn từ các lớp dưới trong khi đặc thù
các môn khoa học tự nhiên đòi hỏi tính liên tục và kế thừa rất cao. Nên
học sinh rất ngán ngại tiết luyện tập.
Khả năng hệ thống hóa kiến thức của học sinh bậc trung học cơ sở
thấp, các em chưa tự tìm được mối quan hệ giữa các kiến thức trong
chương nên các tiết ôn tập ở các em chỉ dừng lại việc ghi lại kiến thức
đã học vì thế các em chỉ giải được các bài tập có tính “ khuôn mẫu” còn
các bài tập phải vận dụng kiến thức tổng hợp hoặc hệ thống kiến thức
thì các em không thể thực hiện ( các kỳ thi giải toán trên máy tính; thi h ọc
sinh giỏi kết quả rất thấp ).
* Giáo viên
- Thường sai lầm về phương pháp:
+ Tiết luyện tập: thường biến tiết luyện tập thành tiết sửa bài tập mà

chưa hoàn thiện được các kiến thức vừa cung cấp cho học sinh trong các
tiết học trước, chưa giúp học sinh khắc sâu và nhớ những vấn đề lý
thuyết đã học và trong một chừng mực nào đó chưa hoặc không bao giờ
nâng cao lý thuyết.
+ Tiết ôn tập biến tiết ôn tập thành tiết liệt kê những kiến thức đã học
mà chưa thể giúp học sinh thấy được mối liên hệ giữa các đơn vị kiến
thức trong chương.
+ Chưa nhận thức đây là tiết học quan trọng nhất trong các tiết học của
môn khoa học tự nhiên, mà chỉ tập trung đầu tư cho các tiết dạy lý thuyết.
* Nguyên nhân
+ Học sinh
Chưa thấy được tầm quan trọng của tiết học trong việc củng cố kiến
thức.
Chưa nắm được phương pháp học tập các tiết học luyện tập
hoặc ôn tập.


Tiết luyện tập, ôn tập tổng hợp nhiều kiến thức lại là các kiến
thức đã học rồi nên đa số các em nhất là tiết ôn tập thường không tập
trung cũng như đầu tư nhiều cho tiết học , từ đó dẫn đến các em không
chủ động tư tư duy để giải quyết vấn đề tiết học yêu cầu.
+ Giáo viên
Chưa nhận thấy rõ tầm quan trọng của tiết luyện tập, ôn tập
trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Chưa nắm vững phương pháp giảng dạy đặc trưng của tiết học
luyện tập, ôn tập.
Chưa phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh trong tiết dạy Giáo viên vừa chủ động vừa chủ đạo trong tiết học khiến tiết học trở
thành tiết học chỉ tác động một chiều.
Vì thế chất lượng học tập của học sinh trong các môn học khoa học tự
nhiên của trường chúng ta trong những năm học vừa qua đạt hiệu quả

không cao . Kết quả các môn học tự nhiên của học sinh chúng ta chỉ ở
mức độ có thể chấp nhận được. Số lượng học sinh giỏi không nhiều.
Việc vận dụng kiến thức của học sinh để giải các bài tập cụ thể trong
môn học không tốt từ đó việc vận dụng kiến thức đã học để giải các
bài toán trong đời sống là không thể thực hiện được. Từ đó học sinh
không ham thích học bộ môn xem bộ môn khoa học tự nhiên là không ích
lợi trong cuộc sống, dễ chán nản và không tích cực học tập. Nhằm nâng
cao hiệu quả công tác giảng dạy, từng bước nâng cao chất lượng học tập
của học sinh, thực hiện cuộc vận động xây dựng trường học thân thiện
học sinh tích cực học tập. Tổ khoa học tự tự nhiên tổ chức chuyên đề :
DẠY TIẾT LUYỆN TÂP, ÔN TẬP NHƯ THẾ NÀO ĐỀ PHÁT HUY TÍNH TÍCH
CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH nhằm nhắc lại phương pháp chung khi
dạy các tiết dạng nầy và định hướng chung về phương pháp giảng dạy
cho các thành viên trong tổ trong thời gian sắp tới
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. PHƯƠNG PHÁP CHUNG
a) Phương pháp chung dạy tiết luyện tập
+ Tồn tại trong việc dạy tiết luyện tập
Như đã nêu ở trên việc giảng dạy tiết luyện tập còn nhiều bất cập,
giáo viên cùng nhiều lúng túng thể hiện qua các mặt sau:
- Chưa xác định được vị trí của tiết luyện tập trong chương trình giảng
dạy


- Chưa xác định mục tiêu của tiết luyện tập.
- Chưa có các phương án cụ thể về phương pháp giảng dạy cho tiết
luyện tập.
- Chưa thống nhất được qui trình soạn tiết luyện tập.
+ Phương pháp chung
Để khắc phục những yếu kém nêu trên trước tiên ta cần nhắc lại

phương pháp chung khi thực hiện tiết luyện tập.
Vấn đề thứ nhất : Trước hết giáo viên cần xác định được vị trí của tiết
luyện tập trong chương trình giáo dục phổ thông.
Tiết luyện tập có tác dụng hoàn thiện các kiến thức cơ bản mà tiết lý
thuyết vừa cung cấp.
Nâng cao lý thuyết trong chừng mực có thể.
Làm cho học sinh nhớ và khắc sâu hơn những vấn đề lý thuyết đã học.
Vấn đề thứ hai : Nắm được mục tiêu chung của tiết luyện tập
Một là: hoàn thiện hoặc nâng cao ở mức độ phổ thông
cho phép đối với phần lý thuyết của tiết học trước thông qua một số
tiết học trước, thông qua hệ thống bài tập đã được sắp xếp hợp lý theo
kế hoạch lên lớp ( Chú ý hệ thống bài tập trong SGK, sách bài tập, các bài
tập tự chọn tự sáng tạo của giáo viên tùy theo mục đích và chủ ý của
từng giáo viên ).
Hai là: rèn luyện cho học sinh các kỹ năng , thuật toán
hoặc các nguyên tắc giải toán trên cơ sở nội dung lý thuyết đã học và
phù hợp với đa số học sinh trong một lớp , thông qua hệ thống bài tập
đã được sắp xếp theo chủ ý của giáo viên.
Ba là: thông qua phương pháp và nội dung cần rèn luyện
cho học sinh nế nếp làm việc có tính khoa học , phương pháp tư duy
cần thiết
* Trong phần nầy ta thấy một vấn đề giáo viên thường thực hiện
không tốt trong tiết luyện tập là: cứ việc giải bài tập theo thứ tự trong
sách giáo khoa mà không sắp xếp theo hệ thống có chủ ý của giáo viên
cho mục tiêu tiết dạy . Vấn đề nầy cần được các thành viên trong tổ quan
tâm lưu ý.
Vấn đề thứ ba : Cấu trúc tiết luyện tập
+ Thứ nhất : Chữa các bài tập kỳ trước
Số bài tập , dự kiến thời gian



Chốt lại vấn đề gì qua các bài tập nầy
+ Thứ hai là: Học sinh là bài tập mới ( giáo viên chọn trong sách giáo khoa
hoặc trong sách bài tập hay là giáo viên soạn ra )
Số bài tập , dự kiến thời gian
Bài tập đưa ra có dụng ý gì ?
+ Thứ ba là: Hướng dẫn học sinh học bài và làm bài sau tiết luyện tập
Hệ thống các bài tập về nhà làm ( giáo viên chọn trong sách giáo khoa
hoặc trong sách bài tập hay là giáo viên soạn ra ).
Gợi ý gì đối với từng bài tập cho học sinh giỏi ? học sinh yếu ?
b) Phương pháp chung dạy tiết ôn tập
+ Tồn tại trong việc dạy tiết ôn tập
Trong chương trình trung học cơ sở các tiết ôn tập và tổng kết ch ương
thường có hai loại hình:
Loại thứ nhất: đã có hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa và gợi ý trả
lời trong sách giáo viên
Loại thứ hai : Loại không có hệ thống câu hỏi , giáo viên phải soạn câu hỏi
ôn tập.
Với hai loại hình ôn tập nầy với những yêu cầu khác nhau về ôn tập kiến
thức chúng ta thường thấy những bất cập sau đây:
Với loại hình thứ nhất ( đa số các tiết ôn tập đều có ) giáo viên thường
tập trung cho việc giải các bài tập ôn tập nhưng chưa hình thành mạch
kiến thức cho học sinh. Cho nên học sinh vẫn chưa thấy được mối liên
hệ giữa các đơn vị kiến thức trong hệ thống kiến thức đó, các em thường
trả lời các câu hỏi một cách máy móc, khó ghi nhớ, khó hệ thống được
kiến thức, không rèn được khả năng tự học . Hoặc là giáo viên chỉ tập
trung ôn tập phần kiến thức bằng cách nhắc nhắc lại toàn bộ kiến thức
của hệ thống mà chưa khắc sâu kiến thức đó bằng cách bài tập có tính
tổng hợp liên quan đến nhiều kiến thức cần ôn tập.
Với loại hình thứ hai: Vì không có hệ thống câu h ỏi s ẳn nên giáo viên

thường rập khuôn với loại hình một nên trong một số trường hợp giáo
viên vẫn lúng túng, bị động.
Từ các bất cập nầy tiết ôn tập thường xảy ra các tình trạng: nặng nề,
không hấp dẫn, dạy khó thành công.


+ Phương pháp chung
Cũng như trong tiết luyện tập giáo viên cần xác định lại phương pháp
chung trong tiết ôn tập.
Trước hết là cần xác định đúng mục đích của tiết ôn tập trong
chương trình giáo dục phổ thông: Tiết ôn tập nhằm tổ chức, điều khiển
học sinh ôn tập, tổng kết, hệ thống hóa và khái quát hóa tri thức, kỹ
năng sau khi học xong một chương, một phần hay toàn bộ chương trình
học.
Thứ hai là cần phải nắm vững cấu trúc của một tiết ôn tập loại bài
nầy thường có cấu trúc như sau ( chú ý không phải phải ôn tập nào cũng
đều phải làm như thế )


Định hướng mục đích và nhiệm vụ học tập.
- Tổ chức cho học sinh hệ thống hóa kiến thức, khái quát hóa kiến
thức trên cơ sở đã được chuẩn bị từ trước nhằm xây dựng nên
những bảng tổng kết , các sơ đồ biểu đồ ….
- Bài tập hóa những kiến thức cơ bản vừa ôn tập.
- Tổng kết bài học.
- Hướng dẫn công việc học ở nhà.
2. DẠY LUYỆN TẬP –ÔN TẬP TÍCH CỰC
a) Dạy tiết luyện tập thế nào để phát huy tính tích cực học tập
của học sinh
+ Chuẩn bị của giáo viên

Việc chuẩn bị của giáo viên trong tiết luyện tập là cực kỳ quan trọng
có thể nói việc chuẩn bị quyết định đến ba phần tư việc thành bại
của tiết học. Đa số giáo viên trong tổ nhất là giáo viên toán thường
chủ quan trong vấn đề nầy :giải bài tập trong sách giáo khoa là có gì
là khó. Thật như vậy các bài toán trong sách giáo khoa là không khó
với giáo viên nhưng truyền tải đến học sinh , hướng dẫn học sinh
tích cực hoạt động để tìm ra cách giải và tự mình giải các bài tập
nầy chính là vấn đề quan trọng để chúng ta nghiên cứu.
Trước hết là
* Phương pháp giảng dạy : Hệ thống câu hỏi, chọn phương pháp;
chọn bài tập cho tiết luyện tập…


Theo tôi để xây dựng phương pháp đúng cho từng tiết giảng dạy luy ện
tập công việc đầu tiên của mỗi giáo viên là nghiên c ứu lại phần kiến
thức mà học sinh đã học. Qua đó xác định kiến thức nào là kiến thức
cơ bản trọng tâm, kiến thức nào cần liên hệ lại, kiến th ức nào cần
nâng cao và mở rộng cho phép.
Có thể một số anh em cho rằng việc nầy không cần thiết vì đã có
trong tiết học lý thuyết. Nhưng theo tôi phần lớn giáo viên chúng ta
đã nắm kiến thức tổng quát, kiến thức chung cho chuyên môn; khi
giải vận dụng kiến thức tổng quát nhưng đối với từng tiết luyện tập
khác nhau có những yêu cầu khác nhau về hệ thống kiến thức nên
chúng ta rất dễ sai lầm về phương pháp: tự giáo viên thực hiện giải,
học sinh chưa thấy được vấn đề về kiến thức cần được luyện tập
mà chỉ thực hiện máy móc theo giáo viên.
Mặt khác giáo viên không nghiên cứu lại lý thuyết mà học sinh được
học sẽ không thể nào xây dựng được các nhóm bài tập giải theo chủ
đích luyện tập mà giải bài tập dàn trải: giải từ bài đầu đến bài cuối
mà không để lại dấu ấn kiến thức gì cho học sinh qua tiết luyện tập.

Thí dụ: Tiết luyện tập quy đồng mẫu nhiều phân số ( tiết 76 tuần 24
– Số học 6)
Nếu không nghiên cứu lại hệ thống kiến thức thì giáo viên chỉ thuần
túy xây dựng kỹ năng quy đồng mẫu theo tiết lý thuyết chứ không
rèn luyện cho học sinh việc rút gọn phân số ( Bài 35) vận dụng tính
chất cơ bản của phân số ( bài 36) để quy đồng mẫu số các phân số
nhanh hơn và sau đó khi qui đồng mẫu nhiều phân số học sinh chỉ
biết húc đầu vào việc giải theo qui tắc mà không biết làm cho công
việc đó giản đơn hơn
Sau khi nghiên cứu lại lý thuyết mà học sinh được học, công việc
thứ hai không kém phần quan trọng là giáo viên cần nghiên cứu các
bài tập trong sách giáo khoa, sách bài tập theo các yêu cầu sau:
+ Cách giải bài tập nầy như thế nào?
+ Có bao nhiêu cách giải bài tập nầy?
+ Cách giải thường gặp là gì ? Cách giải nào là cơ bản?
+ Ý đồ của tác giả đưa ra bài toán nầy là gì?
+ Mục tiêu và tác dụng của từng bài tập là như thế nào?
Trong các yêu cầu trên thực tế giảng dạy và qua dự giờ theo dõi về
chuyên môn trong tổ thì yêu cầu 4 và yêu cầu 5 là vấn đề các thành


viên trong tổ thường không quan tâm tới nhiều nhất, trong khi đây là
các yêu cầu quan trọng nhất trong việc xây dựng phương pháp giảng
dạy “ tích cực ” ( Không cần số lượng bài làm mà cần thiết dạy học
sinh phương pháp làm bài ) nhất là trong tình trạng học sinh của
chúng ta hỏng kiến thức khá nhiều.
Thí dụ: Tiết luyện tập giải hệ phương trình bậc nhất hai ẩn số bằng
phương pháp thế
Bài tập 15: Giải hệ phương trình


trong mỗi trường hợp

sau:
a)a=-1

b) a=0

c) a=1

Ngoài việc rèn luyện cách giải hệ bằng phương pháp thế giáo viên
cần thấy được ý đồ của tác giả giúp học sinh thấy được số nghiệm
của hệ phương trình. Cách giải các hệ phương trình khi phương
trình bậc nhất có vô số nghiệm hoặc vô nghiệm.
Như thế chỉ cần giải thêm ở bài tập 16-17 mỗi bài một bài tập đơn vị
tiêu biểu mà không cần giải tất cả các bài tập thành phần
Công việc tiếp theo thứ ba: trong tình trạng hiện nay một công việc
không thể thiếu là giáo viên cần nghiên cứu sách tham khảo, sách
giáo viên thật kỹ sau đó mới tập trung xây dựng nội dung tiết ôn tập
và phương pháp luyện tập. Thực tế một số giáo viên trong tổ vẫn
chưa nghiên cứu kỹ sách giáo viên khi chuần bị cho tiết luyện tập,
kể cả tiết lý thuyết, sách giáo viên chỉ được giáo viên xem phần mục
tiêu tiết dạy mà không xem phần hướng dẫn cách dạy mặc dù các
hướng dẫn chỉ mang tính tổng quát nhưng nếu nghiên cứu kỹ chúng
ta vẫn rút ra những phương pháp phù hợp cho tình hình học sinh c ủa
mỗi lớp mà không sai lạc quá nhiều về phương pháp.
Kính thưa quý thầy cô: phát huy tính tích cực của học sinh thông qua
hàng loạt tác động của giáo viên để đổi mới phương pháp gi ảng dạy
chính là bản chất của phương pháp giảng dạy mới. Trong giai đoạn
hiện nay hệ thống câu hỏi của giáo viên trong tiết học có vai trò rất
quan trọng . Trong tiết luyện tập hệ thống câu hỏi hợp lý khoa học

sẽ kích thích được tâm lý muốn khám phá, giải quyết được bài toán
của học sinh, vì theo nhà giáo dục học Polya.G thì người giáo viên tốt
là người biết đề ra cho học sinh đúng lúc, kịp thời những câu hỏi
gợi sâu sắc và đúng trình độ. Vì vậy chuẩn bị trước hệ thông câu hỏi
hợp lý sẽ giúp giáo viên tự tin hơn trong việc triển khai phương


pháp giảng dạy của mình. Tuy nhiên cần tránh xu hướng giản đơn
hay cực đoan. Có thầy cô thay cho việc “ đọc chép” bằng việc hỏi quá
nhiều cái gì cũng hỏi vì nghĩ rằng càng hỏi nhiều thì càng đổi mới
trong khi đó phần lớn các câu hỏi lại không tạo được “ tình huống có
vấn đề” đối với học sinh, từ đó làm triệt tiêu khả năng tư duy, sáng
tạo của học sinh. Tóm lại hệ thống câu hỏi là rất quan trọng trong tiết
luyện tập tuy nhiên giáo viên cần nghiêm túc trong việc xây dựng hệ
thống câu hỏi .
Về phương pháp cho từng tiết luyện tập cũng không kém phần quan
trọng việc chọn lựa phương pháp giảng dạy cho từng nội dung luyện
tập, từng đối tượng học sinh trong các tiết luyện tập sẽ giúp tiết học
sinh động hơn, học sinh tích cực hoạt động hơn. Các phương pháp
giảng dạy thường dùng hiện nay cho tiết luyện tập là : đàm thoại
gợi mở, dạy học bằng tình huống có vấn đề, vấn đáp tìm tòi, dạy h ọc
bằng hợp tác nhóm nhỏ…Chúng ta cần biết phối hợp linh hoạt các
phương pháp nầy, tránh đơn điệu và cứng nhắc trong phương pháp.
Thí dụ: Khi luyện tập về hệ thức về cạnh và đường cao trong tam
giác vuông ( hình học 9)
Tính x,y trong hình vẽ sau:

Khi hướng dẫn học sinh giải bài toán nầy giáo viên có thể thực hiện
hệ thống câu hỏi và hoạt động của học sinh như sau
-Bài toán đã cho những yếu tố gì ? Cần xác định yếu tố nào ? ( học

sinh hoạt động cá nhân )


-Nên tính đại lượng nào trước ? vì sao ? ( Học sinh có thể trao đổi
nhóm đôi )
-Tính được y bằng cách nào ? Sử dụng hệ th ức nào ? ( H ọc sinh th ực
hiện cá nhân )
-Tính được x bằng cách nào ? Sử dụng hệ thức nào ?
-Có cách nào khác để tính x? ( trao đổi tự do )
Vấn đề cuối cùng trong công việc chuẩn bị cho tiết luyện tập là
giáo viên cần lựa chọn và sắp xếp hệ thống bài tập mà học sinh sẽ
thực hiện trong tiết học. Một vấn đề thường thấy trong các tiết
luyện tập của chúng ta là giáo viên sẳn sàng lao vào việc giải hết các
bài tập trong phần luyện tập theo thứ tự của sách giáo khoa v ới
những lý do có thể là: giáo viên quá tham vọng về việc giải nhiều bài
tập đối với học sinh cũng có thể là giáo viên lo là sẽ bị đánh giá là
không trình bày hết kiến thức của sách giáo khoa khi bị đánh giá tiết
dạy hoặc kiểm tra tay nghề…Từ đó tiết luyện tập thực sự đã trở
thành tiết giải bài tập thuần túy: vào tiết là giải hết bài tập nầy đến
bài tập khác. Tiết học trở nên chai cứng học sinh trở nên sợ tiết luyện
tập. Vì vậy việc chọn lựa bài tập nào để thầy “ luyện” và trò “tập” là
rất quan trọng. Cần sắp xếp các nhóm bài tập theo mục đích luyện
tập của giáo viên . Có thể chia các n hóm bài tập như sau
Nhóm bài tập mà cần giáo viên làm mẫu để học sinh bắt chước ( Cần
chỉ rõ cho học sinh chương trình hành động: bước một làm gì, bước
hai làm gì …) Học sinh tái hiện công việc vừa thực hiện qua các bài tập
tương tự.
Nhóm bài tập mà giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi ý cho học sinh
( hoạt động cá nhân hoặc trao đổi nhóm nhỏ) tự tìm ra hướng giải
quyết bài toán.

Nhóm bài tập học sinh tự lực làm bài trên cơ sở các bài tập đã thực
hiện.
Tùy vào tình hình thực tế của các lớp học mà giáo viên cần có những
nhóm bài tập thích hợp không cần phải giải quyết tất cả các bài tập
như nói ở trên.
Thí dụ: Tiết luyện tập dãy tỉ số bằng nhau ( tiết 12 – đại số 7 )
Có thể chia các bài tập thành các nhóm sau
Nhóm bài tập học sinh tự lực làm bài : Bài tập 59, bài tập 64


Nhóm bài tập mà giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi ý cho học
sinh: Bài tập 61; bài tập 62.
Bài tập 61 : Cho

Tìm x,y,z

Giáo viên cần gợi ý cho học sinh :
Để tìm được x, y, z ta cần có những yếu tố nào theo lý thuyết đã học ?
( Có dãy tỉ số bằng nhau và x+y-z=10 )
So sánh với dữ kiện ta còn thiếu yếu tố nào? ( dãy tỉ số bằng nhau )
Phải làm gì để có yếu tố nầy ? ( Làm xuất hiện dãy tỉ số bằng nhau )
Nhóm bài tập mà cần giáo viên làm mẫu để học sinh bắt chước: bài
tập 60
Giáo viên cần hướng dẫn từng bước thực hiện trên cơ sở các câu
hỏi gợi mở


Các đẳng thức trên còn có tên gọi là gì ?




Tỉ lệ thức có tính chất gì ?



Vậy để tìm trung tỉ ( ngoại tỉ ) ta cần là gì ?



Bước 1 làm gì ? ( lập tích trung tỉ , ngoại tỉ )
- Bước 2 làm gì ? ( Lấy tích trung tỉ chia cho ngoại tỉ kia nếu tìm
ngoại tỉ; lấy tích ngoại tỉ chia cho trung tỉ kia nếu tìm trung tỉ )
Từ đây giáo viên xác định công việc đầu tiên của việc giải bài tập cho
học sinh ( xác định bộ phận của tỉ lệ thức chứa x) ; công việc thứ hai
….
+ Đồ dùng dạy học: tranh ảnh , hệ thống sơ đồ , biểu mẫu …
Một giáo viên trong tổ chúng ta có quan niệm về đồ dùng dạy học
trong tiết luyện tập như sau : Cần gì đồ dùng dạy học cho tiết luyện
tập : Môn toán chỉ cần cây thước và compa, ê ke, thước đo góc là đủ
rồi, các môn học khác cũng vậy. Quan niệm trên chỉ đúng khi chúng ta
vận dụng phương pháp giảng dạy cũ. Còn để phát huy tính tích c ực
hoạt động của học sinh trong tiết luyện tập thì một sơ đồ một hình
vẽ tốt được chuẩn bị sẽ giúp học sinh nắm bắt vấn đề tốt hơn tự tin
hơn trong việc giải quyết các bài tập.


+ Chuẩn bị của học sinh
* Kiến thức
Một nguyên nhân quan trọng có thể nói là khá cơ bản khiến học sinh
không thể tích cực học tập trong tiết luyện tập ở các môn học của

chúng ta là các em hỏng kiến thức khá lớn mà như nói ở trên các môn
học khoa học tự nhiên lại đòi hỏi tính liên tục và kế thừa rất cao
cho nên việc học sinh chuẩn bị kiến thức cho tiết luyện tập là rất
quan trọng.
- Về học sinh cần tự chuẩn bị: cần học kỹ kiến thức trước của tiết
luyện tập (Các kiến thức nầy giáo viên cần giao cho học sinh về
chuẩn bị trong phần hướng dẫn học tại nhà của tiết học trước tiết
luyện tập vì vậy khi sắp xếp tiết dạy giáo viên Toán cần chú ý
không sử dụng tiết đôi để dạy một phân môn nhằm tránh tình trạng
vừa học xong tiết lý thuyết thì tiết tiết theo trong ngày liền có tiết
luyện tập).
Thí dụ: Luyện tập “ Công thức nghiệm của phương trình bậc hai – Đại
số 9”
Học sinh cần chuẩn bị :
Định nghĩa phương trình bậc hai một ẩn số ( Chủ yếu là xác định
chính xác hệ số a,b,c).
Biết chính xác
Công thức nghiệm
Hoặc luyện tập “Trường hợp bằng nhau thứ ba của tam giác :góc –
cạnh – góc
Học sinh cần chuẩn bị :
Tính chất trường hợp bằng nhau góc- cạnh – góc
Các trường hợp bằng nhau của tam giác vuông ( hệ quả 1,2)
Định nghĩa hai tam giác bằng nhau
Tổng số đo ba góc của một tam giác
- Về giáo viên chuẩn bị cho học sinh : cần nhắc lại cho học sinh kiến
thức có liên quan ( kiến thức của các lớp cũ. các chương cũ , các môn
học có liên quan): có thể ở phần hướng dẫn học ở tiết trước, hoặc
giáo viên thực hiện ở đầu tiết dạy luyện tập.



Thí dụ: Luyện tập liên hệ giữa phép nhân và phép khai phương
Kiến thức cần chuẩn bị :
Qui tắc nhân hai căn bậc hai, qui tắc khai phương một tích ( đầu tiết
luyện tập
Hằng đẳng thức : Hiệu hai bình phương , bình phương một tổng –
một hiệu ( học sinh được yêu cầu học ở tiết trước )
* Đồ dùng học tập: trong giai đoạn hiện nay khó có thể yêu cầu các
tiết học đều có đồ dùng học tập một cách hoàn hảo tuy nhiên học
sinh cần có đồ dùng học tập một cách tối thiểu : thước; viết; compa; ê
ke, máy tính bỏ túi và giấy nháp trong tiết luyện tập.
* Bài tập cho tiết luyện tập
Như chúng ta đã nói ở trên tiết luyện tập không chỉ là tiết giải các bài
tập đã cho học sinh làm ở nhà hay sẽ làm ở trên lớp mà cần phải
xác định rõ: Thầy cần “luyện” cái gì? Trò phải “ tập” cái gì ? Vì vậy
bài tập cho học sinh là rất quan trọng.
Hiện nay trong sách giáo khoa đã thể hiện rất rõ vấn đề nầy: Bài tập
và luyện tập. Theo tôi bài tập trong tiết lý thuyết cần được giáo viên
chọn lựa kỹ để phục vụ cho việc củng cố kiến thức. Chỉ chọn lựa
các bài đặc trưng mang tính khái quát kiến thức cao , không cần thực
hiện tất cả các bài tập trong phần nầy và cần chừa lại những bài
tập để học sinh làm và “ tiêu hóa” kiến thức mà không cần thiết
phải dặn học sinh về làm bài tập phần luyện tập. Chúng ta cần chú ý
trong tiết luyện tập, phần nào đó giáo viên được “tự do” trong việc
lựa chọn nội dung dạy học so với tiết học lý thuyết sao cho đạt
được mục đích yêu cầu đề ra. Vì vậy cần lựa chọn bài tập, nhóm bài
tập sau cho phù hợp với trình độ học sinh của từng lớp, từng đối
tượng học sinh là rất quan trọng đòi hỏi mỗi người giáo viên có đầu
tư nghiêm túc cho công việc nầy.
+ Tổ chức dạy tiết luyện tập

* Các phương án cho tiết luyện tập tích cực:
Đây là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm nhất . Xin nêu ra một số
phương án để chúng ta xem xét và thống nhất thực hiện trong giảng
dạy:


Phương án thứ nhất :
Bước 1 : Giáo viên thông qua việc kiểm tra bài cũ để nhắc lại một
cách cóhệ thống các nội dung lý thuyết đã học, cần chú ý đến
phương pháp của các dạng bài tập.
Sau đó giáo viên có thể mở rộng phần lý thuyết ở những mức độ
phổ thông cần thiết.
Bước 2: Cho học sinh trình bày các bài tập làm ở nhà mà giáo viên
qui định, nhằm kiểm tra sự vận dụng lý thuyết trong việc giải các
bài tập của học sinh.
Cho học sinh nhận xét ưu khuyết điểm trong lời giải, đánh giá đúng
sai hoặc đưa ra cách giải khác hơn ( Cần chú ý trình độ học sinh
trong hoạt động nầy).
Giáo viên cần chú ý kiểm tra những vấn đề sau: tính toán, diễn đ ạt
bằng ngôn ngữ, ký hiệu, cách trình bày lời giải của học sinh.
Giáo viên cần chốt lại vấn đề theo các nội dung sau
sai lầm đó.
sinh.

- Phân tích các sai lầm và nguyên nhân dẫn đến
- Khẳng định những chổ làm đúng, làm tốt của học

- Đưa ra các cách giải khác ngắn gọn hơn hay hơn
hoặc vận dụng lý thuyết linh hoạt hơn.
Bước ba : Giáo viên cho học sinh làm một số bài tập mới (có trong

hệ thống bài tập mà học sinh chưa làm hoặc do giáo viên biên soạn
theo mục tiêu đề ra của tiết học ) của các tiết luyện tập nhằm mục
đích:
- Kiểm tra ngay sự hiểu biết của học sinh phần lý thuyết mà giáo
viên mở rộng ngay đầu tiết học ( nếu có ).
- Khắc sâu hoàn thiện lý thuyết qua các bài tập có tính chất phản ví
dụ ( đòi hỏi giáo viên cần biên soạn đầu tư rất kỹ )
Phương án thứ hai :
Bước 1 : Cho học sinh trình bày lời giải các bài tập cũ đã cho học sinh
làm ở nhà nhằm kiểm tra:


Học sinh hiểu lý thuyết đến đâu



Kỹ năng sử dụng lý thuyết trong việc giải bài tập




Học sinh mắc những sai phạm gì
- Cách học sinh trình bày lời giải bằng ngôn ngữ , bằng ký hiệu có
chính xác chưa
Bước 2: Giáo viên chốt lại những vấn đề có tính chất trọng tâm
Những vấn đề chủ yếu về lý thuyết mà học sinh chưa vận
dụng được khi giải bài tập




Chỉ ra những sai sót của học sinh thường mắc phải mà giáo viên
tích lũy được qua quá trình giảng dạy

Bước ba : Giống như phương án 1
Giáo viên cho học sinh làm một số bài tập mới nhằm đạt được yêu
cầu
- Hoàn thiện lý thuyết , khắc phục sai lầm của học sinh thường mắc
phải.
- Rèn luyện một số thuật oán cơ bản mà học sinh cần ghi nhớ trong
quá trình học tập
- Rèn luyện phương pháp phân tích bài toán , tìm h ướng giải quyết
bài toán.
Tóm lại cả hai phương án dạy tiết luyện tập trên đều có mặt
mạnh và mặt yếu khác nhau giáo viên có thể tùy vào trường hợp cụ
thể của tiết dạy mà vận dụng một cách linh hoạt tuy nhiên phải có
3 phần chủ yếu:


Hoàn thiện về mặt lý thuyết
- Rèn luyện kỹ năng thực hành ( giáo viên không thể làm thay cho h ọc
sinh )



Phát huy tích tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.

* Vai trò và công việc của giáo viên trong tiết luyện t ập:
Một sai lầm thường thấy trong tiết luyện tập của các thành viên
trong tổ là với trình độ hiện tại của học sinh trường chúng ta, để
không mất thời gian tránh việc cháy giáo án đa số giáo viên thường



làm thay tất cả các công việc của học sinh. Nên nhớ rằng tiết luyện
tập thì giáo viên cần “luyện” phương pháp giải các bài tập cho học
sinh và học sinh phải “ tập” vận dụng các phương pháp vừa “ luyện”
để giải các bài tập của giáo viên đề ra. Vì vậy vai trò của giáo viên
phải là chủ đạo điều phối các hoạt động học tập của học sinh. Công
việc của giáo viên là phải hướng dẫn học sinh tìm ra con đường giải
quyết các bài tập trên cơ sở giải quyết những vấn đề cần phải giải
quyết và học sinh chính là người giải quyết những vấn đề đó chứ
không phải là giáo viên.
Trong tiết luyện tập công việc chính của giáo viên là hướng dẫn học
sinh vận dụng các kiến thức đã học, các phương pháp giải để giải
các bài tập vì vậy chúng ta cần nắm vững các phương pháp dạy học
sinh giải bài tập: giải bài tập đơn giản; giải bài tập bằng angorit…và
quan trọng là hướng dẫn học sinh tìm ra phương pháp giải.
* Công việc của học sinh trong tiết luyện tập:
- Cá nhân
Trong tiết luyện tập theo tôi vai trò cá nhân của học sinh cần được
giáo viên đặt lên hàng đầu: chính các em là người vận dụng kiến
thức, phương pháp giải để giải các bài tập đặt ra chứ không ai làm
thay cho các em.
Các công việc của học sinh trong tiết học nầy là
+ Chuẩn bị kiến thức cho tiết ôn tập: có thể là kiến thức của tiết lý
thuyết trước hoặc các kiến thức có liên quan.
+ Thực hiện các bài tập – Khắc sâu các kiến thức vận dụng, các
phương pháp giải cơ bản cho từng loại bài tập.
+ Trao đổi và cùng làm việc với các học sinh khác trong hoạt động
nhóm nhỏ.
- Nhóm

Phần lớn các hoạt động học tập theo nhóm nhỏ đều được giáo viên
tập chung cho tiết dạy kiến thức mới, trong tiết luyện tập rất ít
giáo viên trong tổ thực hiện vì một lý do rất tế nhị: s ợ cháy giáo án.
Trong khi đó hợp tác để cùng giải quyết một vấn đề được coi như là
phương án tiên tiến trong học tập của như trong lao động hiện đại
cần được ưu tiên phát triển. Tuy vậy chúng ta cần nghiên cứu thật
kỹ khi nào thì chúng ta sử dụng nhóm trong việc luyện tập: các bài
tập tổng hợp đòi hỏi nhiều thành viên làm cùng lúc trên nhiều khía


cạnh, các bài tập có thể có nhiều cách thực hiện … Cần tránh xu
hướng: phải có hoạt động nhóm bằng bất cứ giá nào.
Các công việc của học sinh trong hoạt động nhóm trong tiết luyện
tập :
+ Thu thập thông tin: Yêu cầu của bài tập; Các dữ kiện đã có hoặc
cần tìm.
+ Phân công công việc trong nhóm
+ Phối hợp cá nhân trong nhóm
+ Báo kết quả , so sánh rút ra kinh nghiệm
* Bài tập xây dựng kiến thức mới trong tiết luyện tập
Trong một số tiết luyện tập hiện nay vì lý do sư phạm và lý do
chương trình một số kiến thức mới và cơ bản được trình bày dưới
dạng bài tập . Nếu không nghiên cứu kỹ và thực hiện tốt thì các em
sẽ gặp rất nhiều khó khăn sau nầy Vì vậy khi gặp các dạng bài tập
nầy giáo viên cần thực hiện các công việc sau :



Phân tích thật kỹ các dữ kiện
Các bước giải bài tập phải thực hiện hoàn chỉnh , tránh đơn giản

hóa
- Khẳng định tính đúng đắn của kiến thức và cách vận dụng kiến
thức đó .
Thí dụ: Tiết 7 hình học 9 tuần 4 : Tỉ số lượng giác của góc nh ọn
Bài tập 14: sử dụng định nghĩa của tỉ số lượng giác của một góc
nhọn để chứng minh : Với góc nhọn tùy ý , ta có
a)

d)

b)

c)


- Phân tích kỹ các định nghĩa của các dữ kiện sin ; cos ; tg ;
cotg
- Thực hiện hướng dẫn giải
- Khẳng định với học sinh được phép sử dụng các kết quả nầy
trong giả toán.
+ Các phương án xử lý
* Đối với đối tượng học sinh khá giỏi chăm ngoan
- Cần xây dựng các em thành hạt nhân trong quá trình tổ chức các
hoạt động học tập luyện tập nhất là giúp các em trở thành các “
đầu máy kéo” các đối tượng học sinh còn lại khác tích cực hoạt động
học tập . Tránh biến các em thành các “cỗ máy giải bài tập” trong các
tiết luyện tập.
- Mạnh dạn cho các em giải các bài tập đòi hỏi có tư duy cao. Bên
cạnh đó cũng cần thiết cho các em thực hiện các bài tập cơ bản để
tránh hiện tượng các em có thể làm được tất cả các bài tập ngoại tr ừ

bài tập cơ bản và đơn giản nhất.
* Đối với học sinh thụ động
- Luôn tác động đến các em, lôi cuốn các em vào hoạt động luyện
tập, bắt đầu từ các hoạt động nhóm nhỏ.
- Giao công việc trực tiếp cho các em thực hiện.
- Động viên khen ngợi nếu các em hoàn thành nhưng tránh phê bình
nếu các em chưa hoàn thành hoặc thực hiện sai yêu cầu.
* Đối với học sinh lười học không chịu làm bài tập
Đây là đối tượng giáo viên tổ chúng ta rất ngán ngại các em phần
lớn đều hỏng kiến thức rất nặng lại lười học. Việc vận dụng được
kiến thức để làm các bài tập trong chương trình hầu như là không
tưởng. Vì vậy theo tôi cần có một số biện pháp sau đây để lôi cuốn
các em vào hoạt động của tiết luyện tập :
- Trước hết giáo viên cần giao cho các em các bước giải bài tập có
tính chất cơ bản, đơn giản nhất (nhằm tạo cho các em có niềm tin là
minh có thể góp phần giải bài tập được ).
- Thứ hai là khắc sâu ngay kiến thức các em vừa thực hiện, nếu các
em thực hiện tốt thực hiện tốt thì chuyển đến kiến thức có liên quan .


- Thứ ba là luôn “ tạo việc làm vừa sức ” vì đối các em nầy thì: “ nhàn
cư vi bất thiện”
Một số lưu ý : trong tiết luyện tập các bài tập được nhắc đi nhắc lại
với tốc độ ngày càng nhanh hơn và áp lực lên học sinh cũng mạnh
hơn. Tuy nhiên không nên tạo áp lực quá cao mà chỉ vừa đủ để
khuyến khích học sinh làm bài chịu khó hơn. Thời gian cho luyện tập
cũng không nên kéo dài dễ gây nên sự nhạt nhẽo nhàm chán . Cần
thiết kế các bài tập có sự phân hóa để khuyến khích mọi học sinh
đều tham giá luyện tập phù hợp với năng lực của mình. Có thể tổ
chức các hoạt động luyện tập qua nhiều hoạt động khác nhau, kể cả

tổ chức các trò chơi học tập nhằm cho học sinh hào hứng học tập
hơn, đồng thời qua các hoạt động đó các kĩ năng học sinh cũng được
rèn luyện. ( Và điều nầy cũng là điểm yếu trong th ực hiện giảng dạy
của tổ chúng ta ).
+ Năm lời khuyên khi dạy tiết luyện tập
* Đừng biến tiết luyện thành tiết chữa bài tập. Tiết luyện tập phải
là tiết dạy cách suy nghĩ để tìm cách giải bài tập.
* Đừng đưa quá nhiều bài tập trong một tiết luyện tập. Nên chọn
một số lượng bài tập vừa đủ để có điều kiện để khác sâu các kiến
thức được vận dụng và phát triển các năng lực tư duy cần thiết
trong việc giải bài tập.
* Nên sắp xếp các bài tập thành một chùm bài có liên quan đến
nhau.
* Trong tiết luyện tập có những bài được giải chi tiết và có những bài
được giải vắn tắt.
* Hãy để cho học sinh có thời gian làm quen với bài toán , cùng v ới
học sinh nghiên cứu tìm tòi lời giải bài toán và để cho học sinh được
hưởng niềm vui khi tự mình tìm ra chìa khóa của lời giải.
d) Dạy tiết ôn tập thế nào để phát huy tính tích cực học tập của
học sinh
Với những tồn tại trong các tiết ôn tập hiện nay của các thành
viên trong tổ. Nhằm nâng cao hiệu quả của tiết ôn tập nói riêng và
chất lượng học tập của học sinh nói chung chúng ta cần thực hiện
cải tiến phương pháp giảng dạy trong tiết ôn tập nhằm phát huy
tính cực học tập của học sinh bằng những công việc sau:


+ Chuẩn bị của giáo viên
Thứ nhất cần xác định các kiến thức cơ bản, trọng tâm và mối
liên hệ giữa các kiến thức ( mạch kiến thức ) để xây dựng sơ đồ ôn

tập từ đó soạn các câu hỏi thành hệ thống có chủ đích theo sự xuất
hiện từng ô kiến thức trong sơ đồ.
Thứ hai là dạy học không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri
thức đơn lẽ, rèn luyện những kỹ năng riêng biệt cho h ọc sinh mà ph ải
thường xuyên chú ý những hệ thống tri thức, kỹ năng tạo thành m ạch
xuyên suốt chương trình. Ta được biết rằng một số môn học là nghệ
thuật chuyển đổi ngôn ngữ, ngôn ngữ hình vẽ, ngôn ngữ thông
thường, ngôn ngữ ký hiệu.Nói chung muốn nâng cao kết quả học tập
cho học sinh phải biết kết hợp chặt chẽ hai mặt nói trên. Chính vì vậy
mà trong tất cả tiết học giáo viên phải có những hoạt động nhằm gây
hứng thú cho học sinh và tùy theo từng tiết học cần phải thiết kế
những phương pháp như thế nào cho đạt hiệu quả nhất.Như ta đã
biết để phát triển hứng thú nhận thức của học sinh cần phát triển tối
đa tư duy tích cực của học sinh. Do đó trong các tiết học, đặc biệt là
tiết ôn tập chương giáo viên cần có những “Phiếu học tập” đ ể giao về
nhà cho cá nhân, cho từng tổ nghiên cứu một số chuyên đề rồi báo cáo
trước lớp. Nhằm giúp học sinh chủ động, tích cực hơn trong việc tìm
được “Sợi chỉ” liên kết giữa các kiến thức đã học với nhau.
Thí dụ :
ÔN TẬP CHƯƠNG I HÌNH 7
Đọc hình vẽ và dựa vào các kiến thức đã học hãy điền vào chỗ (......)
những khái niệm, những tính chất tương ứng với các hình vẽ đó..Cho
biết tính chất nào là định lí ?
Các khái niệm
.1)Hai góc đối đỉnh

Hình vẽ

Nội dung
Nếu hai đường thẳng

xx' và yy'cắt nhau tại O
thì :
xÔy =x'Ôy' và xÔx'=yÔy'


2).............................................................
....
.................................................................
...

Nếu hai đường thẳng
xx' và yy'cắt nhau tại O
và xÔy =
900 thì :..................................
.......
.................................................

3)...........................................................
.................................................................
..

d là đường trung trực
của đoạn thẳng AB
thì ............................
..................................................
...................................................

4).............................................................
..


1) Nếu

.................................................................
..

B3 thì :................

.................................

A1=

...................................................
..
...................................................
..
2) Nếu a b thì :
..................................................
...................................................
.

.
5).............................................................
...
.................................
.
6).............................................................
..
.................................
..................................
..................................


..................................................
...................................................
.
..................................................
1)..............................................
....
...................................................
.
2)..............................................
....
...................................................


.
...................................................
.
7)..............................
..................................
..................................

8)..............................
..................................
..................................
.................................

..................................................
...................................................
.
...................................................

.
Nếu On là tia phân giác
của BÔC,
Om là tia phân giác của
AÔC thì:
..................................................
...................................................
.
...................................................
.

* Phương pháp giảng dạy :
- Hệ thống câu hỏi hệ thống hóa kiến thức:
Khi nói đến việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập
chúng ta cần quan niệm là lòng mong muốn hành động được nảy
sinh từ phía học sinh, được biểu hiện ra bên ngoài hay bên trong của
sự hoạt động Học sinh trở thành các cá nhân trong một tập thể
mang khát vọng khám phá. Tuy nhiên ở lứa tuổi học sinh với những
kiến thức hàn lâm của chương trình khoa học tự nhiên nếu giáo viên
mãi căn cứ vào các câu hỏi trong sách giáo khoa hoặc chưa đầu tư
cho hệ thống câu hỏi thì tiết học không thành công nhất là trong
tình trạng hỏng kiến thức trầm trọng hiện nay. Vì vậy chúng ta cần
thay đổi cách nhìn nhận về vấn đề nầy đổi mới phương pháp dạy
học qua hệ thống câu hỏi là thay đổi hình th ức câu hỏi, cách biến đổi
những câu hỏi khô khan thành các câu hỏi gần gũi các em h ơn nhằm
kích thích sự tò mò cho các em.





Chọn phương pháp; chọn bài tập cho tiết ôn tập …..
Như đã nói ở trên tiết ôn tập giúp học sinh không những hệ thống
hóa kiến thức đã học trong chương mà còn giúp học sinh thấy được
mối quan hệ giữa các kiến thức đó với nhau một trong các công cụ
quan trọng nhất là bài tập vì vậy bài tập trong tiết luyện phải đảm
bảo tổng hợp các kiến thức đã học nhằm rèn kỹ năng, vận dụng
phân tích chứng minh, tính toán . Bên cạnh đó ở một chừng mực nào
đó có thể thêm phần mở rộng , nâng cao và là cơ sở cho chương mới.
Thí dụ : Bài tập cho tiết ôn tập chương II đại số 9
Cho hàm số y=ax+3
a) Xác định hệ số a của hàm số biết đồ thị của nó song song với
đường thẳng
y= -2x ? ( Điều kiện để hai đường thẳng song song , cắt nhau, trùng
nhau)
b) Vẽ đồ thị hàm số trên ?( Đồ thị hàm số y=ax+b )
c) Tính số đo góc tạo bởi đồ thị trên và trục Ox ( Hệ số góc )
d) Tìm tọa độ giao điểm của đồ tị hàm số trên và đường thẳng y=x+3
(Mở rộng để chuẩn bị cho chương III: minh họa hình học nghiệm
của hệ phương trình bậc nhất hai ẩn số ) .
* Đồ dùng dạy học: tranh ảnh , hệ thống sơ đồ hệ thống hóa kiến
thức:
Ôn tập giữ một vị trí đặc biệt so với các hình thức củng cố. Ôn l ại
không chỉ những gì lĩnh hội được trong bài lý thuyết mà khi cần có thể
nhắc lại cả tri thức đạt được trong luyện tập, đào sâu,ứng dụng và hệ
thống hoá. Trong việc ôn giáo viên phải coi trọng cả hai mặt v ừa nh ớ ý
nghĩa vừa nhớ máy móc, hướng dẫn học sinh phối hợp cả hai cách nh ớ
này. Nếu chỉ nhớ máy móc thì tri thức sẽ được hiểu một cách hình th ức
và khi đột nhiên quên đi chi tiết nhỏ hay toàn bộ thì không có cách nào
khôi phục lại được. Còn nếu chỉ nhớ ý nghĩa thì tri th ức không th ường
trực trong óc, khi cần thiết lại phải mất thời gian tái tạo lại dẫn đến

vận dụng chậm không thành thạo.
Trước tình hình thực tế, với thời gian ít ỏi, trong một số tiết h ọc
giáo viên không thể thực hiện một cách đầy đủ các nội dung c ần
truyền đạt nên giáo viên còn sử dụng phương pháp thuy ết trình hoặc
đàm thoại, ít thu hút sự chú ý của học sinh, học sinh ít có h ứng thú h ọc.


Chính vì vậy cần phải có giải pháp khắc ph ục tình tr ạng trên. Đó là
sử dụng các phương tiện dạy học: bảng phụ, bảng con, phiếu học
tập....Thực tế thì việc học sinh tự tìm thấy chân lí, hiểu và tiếp thu
kiến thức một cách đầy đủ, chính xác là rất khó khăn nếu thiếu t ư li ệu
và sự hướng dẫn.
Từ những điều nêu trên sơ đồ hệ thống hóa kiến thức được
khuyến khích sử dụng trong tiết ôn tập của các thành viên trong
tổ .
Từ đây qua hệ thống câu hỏi giáo viên giúp học sinh tìm ra mối liên
hệ giữa các đơn vị kiến trong chương
* Bài tập cho tiết ôn tập
Để giúp học sinh vận dụng được hệ thống kiến thức trong chương
việc chuẩn bị bài tập của học sinh không kém phần quan trọng . Tuy
nhiện chuẩn bị bài tập ở đây không phải là giáo viên bắt học sinh làm
hết bài tập của tiết ôn tập trước mà là công việc tìm hiểu rà soát lại
các dạng bài tập chính, cơ bản thường gặp trong chương? Nêu đ ược
các bài thuộc dạng đó trong sách giáo khoa ? và quan trọng là cách
giải các bài tập đó.
Thí dụ : Tiết ôn tập chương II Đại số 9
Học sinh cần xác định các dạng bài tập chính của chương là:


Xác định hệ số a,b của hàm số y=ax+b () khi biết một điều kiện




Vẽ đồ thị của hàm số y=ax+b ()



Tìm tọa độ giao điểm của hai đường thẳng trên mặt phẳng tọa độ



Tìm số đo góc tạo bởi đường thẳng y=ax+b và trục Ox

+ Tổ chức dạy tiết luyện tập
ACác phương án cho tiết Ôn tập tích cực
Xin nêu ra một số phương án để chúng ta xem xét và thống nhất thực
hiện trong giảng dạy:
Phương án thứ nhất : Ôn lý thuyết xong làm bài tập
* Chuẩn bị


- Học sinh: Soạn câu hỏi ở sách giáo khoa và bài tập theo hướng dẫn của
giáo viên.
- Giáo viên : Soạn câu hỏi nhưng ở mức độ cao hơn học sinh , chuẩn bị
phần bài tập sắp xếp theo những dạng cơ bản để hướng dẫn học sinh
làm bài tập.
* Lên lớp
- Giáo viên vừa hỏi vừa hệ thống các câu hỏi cùng trả lời của học sinh
để khái quát hóa kiến thức của chương theo một hệ thống, giúp cho học
sinh nắm được nội dung kiến thức của chương.

- Bài tập: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập ở từng dạng, từ đó
dẫn đến cách làm tổng quát của từng dạng .
- Cuối tiết giáo viên rút ra kết luận chung: Ở chương nầy học sinh cần
nắm những kiến thức gì?
Phương án thứ hai : Làm bài tập kết hợp vói kiểm tra lý thuyết
* Chuẩn bị: giống như phương án 1
* Lên lớp
- Giáo viên sắp xếp những bài tập có cùng một dạng hay cùng sử dụng
những kiến thức vào cùng từng nhóm.
- Sau đó giáo viên sửa mẫu ( hoặc hướng dẫn học sinh sửa ). Khi s ửa đ ến
đâu cần kiến thức nào giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh trả lời hoặc giáo
viên nhắc lại các kiến thức đó như thế cho các dạng bài tập.
Phương án thứ ba: Hệ thống hóa kiến thức một cách tổng quát
* Chuẩn bị:
- Giáo viên : Lên sơ đồ các ý chính trong chương và các dạng bài tập cơ
bản đồng thời là sự liên quan lẫn nhau giữa các ý ( Công thức , định lý
…) và các bài toán tổng hợp.
- Học sinh: Tự tóm tắt và thành lập các kiến th ức chính trong ch ương
( có thể là công thức , định lý …) mỗi ý đặt trong 1 hình chữ nhật và tìm
hiểu mối liên quan giữa các đơn vị kiến thức ấy ( bằng dấu mũi tên )
* Lên lớp
-Hệ thống hóa kiến thức một cách tổng quát :
+ Kiểm tra các kết thức đã học theo hệ thống bằng cách cho học sinh
điền vào các ô chữ nhật.


×