Tải bản đầy đủ (.docx) (134 trang)

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÁC BÀI TẬP PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHO VẬN ĐỘNG VIÊN KARATEDO LỨA TUỔI 16 18 ĐỘI TUYỂN QUẬN GÒ VẤP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SAU 06 THÁNG TẬP LUYỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.61 MB, 134 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

--------  --------

LÊ HÀ THUẬN

“NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÁC BÀI TẬP
PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHO VẬN ĐỘNG VIÊN KARATEDO LỨA
TUỔI 16 - 18 ĐỘI TUYỂN QUẬN GÒ VẤP THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH SAU 06 THÁNG TẬP LUYỆN”

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

--------  --------



LÊ HÀ THUẬN

“NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÁC BÀI TẬP
PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHO VẬN ĐỘNG VIÊN KARATEDO LỨA
TUỔI 16 - 18 ĐỘI TUYỂN QUẬN GÒ VẤP THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH SAU 06 THÁNG TẬP LUYỆN ”

Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Mã số: 60140103

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học
TS. VŨ VIỆT BẢO

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2016


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Người cam đoan

LÊ HÀ THUẬN



4

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý thầy cô cùng toàn thể cán bộ công
chức, viên chức trường ĐH TDTT thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ biết ơn chân thành và sâu sắc đến quý thầy cô giảng dạy lớp cao học
19, đã dành nhiều thời gian, tâm huyết truyền thụ cho chúng tôi những kiến thức quý báu
làm cơ sở nghiên cứu luận văn cũng như làm hành trang trong công tác mai sau.
Xin cảm ơn Ban giám đốc Trung tâm huấn luyện Quận Gò Vấp, Ban huấn luyện và
tập thể VĐV đội tuyển Karatedo Quận Gò Vấp đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi thu thập số liệu
để thực hiện đề tài này.
Xin cảm ơn quý thầy cô đã dành những thời gian quý báu đọc và góp ý giúp tôi hoàn
thiện luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã quan tâm động viên và tạo mọi
điều kiện về tinh thần cũng như vật chất để tôi hoàn thành tốt chương trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vũ Việt Bảo đã tận tình động
viên, giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn
này.
Học viên
Lê Hà Thuận


5

MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT
VIẾT TẮT


THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT

TDTT

Thể dục thể thao

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

HCV

Huy chương vàng

HCB

Huy chương bạc

HCĐ

Huy chương đồng

XPC

Xuất phát cao

VĐV

Vận động viên


CLB

Câu lạc bộ

GDTC

Giáo dục thể chất

HLTT

Huấn luyện thể thao

TN

Thực nghiệm

ĐC

Đối chứng

NXB

Nhà xuất bản

XPC

Xuất phát cao

VIẾT TẮT


ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG

cm

Centimet

kg

Kilogram

m

Met

ml

Mililit


6

s

Giây

p

Phút


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Bảng 1.1
Bảng 2.1
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6
Bảng 3.7
Bảng 3.8
Bảng 3.9
Bảng 3.10
Bảng 3.11
Bảng 3.12

Tên bảng
Các yêu cầu thể lực ở một số môn võ thuật.
Đánh giá kết quả dựa bảng phân loại của Ruffier
Kết quả phỏng vấn lựa chọn các test đánh giá thể lực của nam VĐV
Karatedo lứa tuổi 16-18 quận Gò Vấp.
Kết quả kiểm định Wilconxon giữa 2 lần phỏng vấn
Kết quả tính độ tin cậy các test đánh giá thể lực của namVĐV
Karatedo lứa tuổi 16-18 quận Gò Vấp
Thực trạng thể lực của nam VĐV đội tuyển Karatedo lứa tuổi 16-18
quận Gò Vấp
So sánh thực trạng thể lực qua một số test giữa nam VĐV Karatedo
lứa tuổi 16-18 quận Gò Vấp năm 2015 và nam VĐV Karatedo Bình
Định năm 2014

Kết quả phỏng vấn lựa chọn hệ thống bài tập thể lực cho nam VĐV
Karatedo lứa tuổi 16-18 quận Gò Vấp.
Kết quả kiểm định Wilconxon giữa 2 lần phỏng vấn bài tập
So sánh các test thể lực trước thực nghiệm của 2 nhóm thực nghiệm
và đối chứng.
Nhịp tăng trưởng các test thể lực sau thực nghiệm của nhóm thực
nghiệm.
Nhịp tăng trưởng các test thể lực sau thực nghiệm của nhóm đối
chứng.
So sánh test đánh giá thể lực sau thực nghiệm của 2 nhóm thực
nghiệm và đối chứng
So sánh sự phát triển thể lực ở một số test giữa nam VĐV Karatedo
lứa tuổi 16-18 Gò Vấp và nam VĐV Karatedo Bình Định sau 6 tháng
tập luyện.

Trang
22
38
57
58
59
65
66
70
84
86
89
94
100


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
54
Biểu đồ 3.1 Trình độ người được phỏng vấn.
54
Biểu đồ 3.2 Thâm niên công tác người được phỏng vấn.
Nhịp tăng trưởng các test chức năng sau thực
93
Biểu đồ 3.3
nghiệm của 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng.
94
Biểu đồ 3.4 Nhịp tăng trưởng các test sức nhanh, sức bền, mền


7

dẻo, khéo léo sau thực nghiệm của 2 nhóm thực

Biểu đồ 3.5

nghiệm và đối chứng.
Nhịp tăng trưởng test sức mạnh sau thực nghiệm
của 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng.
Nhịp tăng trưởng các test thể lực chuyên môn sau

Biểu đồ 3.6 thực nghiệm của 2 nhóm thực nghiệm và đối
chứng.


94

94


8

LỜI MỞ ĐẦU
Thể dục thể thao là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống hoạt
động văn hóa tinh thần của con người, thể thao còn là chiếc cầu nối cho hòa
bình, đoàn kết hữu nghị giữa các quốc gia với nhau. Trong những năm gần
đây thể thao thành tích cao của Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh
mẽ trong các cuộc tranh tài tại khu vực, Châu lục và thế giới, các kết quả đạt
được còn khiêm tốn nhưng rất đáng khích lệ. Từ thập niên 90 của thế kỉ XX
đến nay một số môn thể thao Việt Nam đã đạt được thành tích trong các cuộc
tranh tài chính thức tại các đấu trường khu vực Đông Nam Á và Thế giới. Những
thành tích bước đầu khiêm tốn nhưng chúng ta có quyền tự hào vào tương lai thể
thao Việt nam sẽ có một vị thế vững chắc trên đấu trường quốc tế.
Cùng với sự đi lên của đất nước với nền kinh tế ngày càng phát triển thì
sự định hướng và đầu tư cho sự nghiệp thể dục thể thao (TDTT ) là hết sức
cấp thiết, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, nhà nước đối với
ngành Thể thao nước nhà.
Không riêng ở nước ta mà hầu như ở khắp các nước trên thế giới “Võ
thuật ” là một trong những môn thể thao hấp dẫn được đông đảo người tham
gia tập luyện, thi đấu. Đối với nển thể thao nước ta thì “Võ thuật” còn là một
trong những môn thể thao mũi nhọn đi tiên phong và giành huy chương cho
thể thao Việt Nam trên đấu trường quốc tế như: Taekwondo, Judo, Pencak
silat, Wushu… và đặc biệt là Karatedo.
Karatedo được du nhập vào Việt Nam từ những năm 50 thế kỷ XX do võ
sư Suzuki Choji (Phan Văn Phúc), người Nhật Bản, sinh sống tại Huế giảng

dạy và tại Sài gòn võ sư Hồ Cẩm Ngạc truyền dạy và có phong trào khá phát
triển. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Karatedo được phát triển mạnh
mẽ lan rộng cả nước và đã sớm khẳng định thế mạnh trên đấu trường khu vực,


9

châu lục và thế giới. Môn Karatedo đã góp phần vào thành tích thể thao nước
nhà tại các kỳ SEA Games và ASIAD.
Gò Vấp là một quận có phong trào Karatedo phát triển khá tốt và được
đánh giá là một trong những đơn vị mạnh trên toàn thành phố Hồ Chí Minh.
Đội tuyển Gò Vấp đã giành nhiều lần giành được các thứ hạng 2 và 3 toàn
thành phố, đồng thời cung cấp cho đội tuyển Karatedo Tp. Hồ Chí Minh
nhiều VĐV tài năng như: Mai Dương Hiền Lương, Vũ Đức Duy, Nguyễn Văn
Trọng Nhân, Nguyễn Minh Nhật, Lê Hà Thuận …. Và đạt được nhiều huy
chương cấp quốc gia ở các giải Trẻ, Cúp, Vô địch, Đại hội TDTT. Tuy nhiên
công tác đào tạo và huấn luyện VĐV Karatedo của quận trong những năm qua
chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm, đánh giá theo cảm tính của HLV mà chưa có
một hệ thống chỉ tiêu , tiêu chuẩn cụ thể nào để đánh giá so sánh. Thể lực, đặc
biệt là thể lực chuyên môn ảnh hưởng rất lớn đến kỹ thuật động tác trên sàn
đấu và đến cả kết quả thi đấu. Vì vậy, việc xây dựng chương trình huấn luyện
phát triển thể lực cho đội tuyển Karatedo quận Gò Vấp là vô cùng quan trọng.
Ban giám đốc trung tâm TDTT quận Gò Vấp đã có ý kiến chỉ đạo bộ môn
Karatedo phải nhanh chóng đổi mới hệ thống các bài tập, và xây dựng
chương trình huấn luyện phát triển thể lực VĐV theo quy trình bài bản và
khoa học. Vì thể lực là một trong những yếu tố quan trọng giúp VĐV chiến
thắng, không có thể lực thì VĐV cũng không phát huy hết kỹ thuật sẵn có để
mang lại kết quả như mong muốn
Bản thân từng là VĐV Karatedo, hiện đang là huấn luyện viên đội
tuyển Karatedo quận Gò Vấp và mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào

công tác đào tạo Karatedo của quận nhà, nên tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu xây dựng hệ thống các bài tập phát triển thể lực cho
Vận Động Viên Karatedo lứa tuổi 16 -18 đội tuyển quận Gò Vấp Tp.Hồ
Chí Minh sau 06 tháng tập luyện ”


10

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Xây dựng hệ thống các bài tập phát triển thể lực cho VĐV đội tuyển
Karatedo lứa tuổi 16 - 18 quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh trong 6 tháng tập
luyện.
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài chúng tôi tiến hành giải
quyết 3 nhiệm vụ sau:
Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng thể lực cho nam VĐV đội tuyển
Karatedo lứa tuổi 16 - 18 quận Gò Vấp, TP. HCM.
Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu xây dựng hệ thống các bài tập phát triển thể
lực cho nam VĐV đội tuyển Karatedo lứa tuổi 16 - 18 quận Gò Vấp, TP.
HCM.
Nhiệm vụ 3: Đánh giá hiệu quả của hệ thống các bài tập đến sự phát
triển thể lực của nam VĐV đội tuyển Karatedo lứa tuổi 16 - 18 quận Gò Vấp,
TP.HCM sau 06 tháng tập luyện.


11

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của bài tập.

1.1.1. Khái niệm.
Bài tập là các phương tiện giáo dục thể chất được sử dụng để tác động
lên các đối tượng tập luyện nhằm đạt được những mục đích của giáo dục thể
chất. Chúng bao gồm các bài tập thân thể (còn gọi là các bài tập thể dục thể
thao), các động tác tự nhiên, môi trường, nước, ánh nắng mặt trời khí hậu,
thời tiết, các yếu tố vệ sinh... Trong đó các bài tập TDTT được coi là phương
tiện chủ yếu và chuyên biệt của giáo dục thể chất. [29]
Vì vậy bài tập TDTT là những hoạt động, vận động chuyên biệt do con
người sáng tạo ra một cách có ý thức, có chủ đích phù hợp với các quy luật
giáo dục thể chất. Người ta dùng chúng để giải quyết nhiệm vụ giáo dục thể
chất, đáp ứng những yêu cầu phát triển thể chất và tinh thần của con người.
1.1.2. Đặc điểm của bài tập. [29],[31]
Đặc điểm quan trọng của bài tập là nó được xây dựng trên cơ sở những
hoạt động có ý thức, tức được điều khiển từ các trung tâm thần kinh ở võ não.
Đó là những hành vi vận động có chủ đích liên quan đến quá trình tâm lý, có
biểu hiện mạnh đối với sự biểu hiện ý chí, tình cảm, tính cách. Bên cạnh đó
bài tập còn là những biến đổi về mặt sinh học, chuyển sang một mức hoạt
động cao hơn lúc yên tĩnh, nhờ vậy mà có thể làm tăng khả năng chức phận
hoàn thiện những đặc điểm cấu trúc của cơ thể. Bài tập có ảnh hưởng đến tâm
sinh lý, đến thể chất của con người. Điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào
phương pháp, nội dung và hình thức tổ chức bài tập.


12

- Bài tập chuẩn bị chung:
Nhằm phát triển toàn diện khả năng của cơ thể, tạo vốn kỹ năng kỹ xảo
vận động phong phú làm tiền đề tiếp thu kỹ thuật ở môn thể thao chuyên sâu.
Thành phần các bài tập chuẩn bị chung thường rộng rãi và đa dạng về
tính chất bài tập chuẩn bị chung có thể trùng hoặc không trùng với bài tập

chuẩn bị chuyên môn, nhưng khi chọn các bài tập chuẩn bị chung người ta
phải tuân thủ các yêu cầu sau đây.
Phải bao gồm các phương tiện giáo dục thể chất (GDTC), toàn diện đặc
biệt là các bài tập tác động có hiệu quả đến phát triển các tố chất thể lực và
làm phong phú vốn kỹ năng kỹ xảo vận động cơ bản trong cuộc sống.
-

Bài tập chuẩn bị chuyên môn:
Là các bài tập hỗ trợ cho việc tiếp thu kỹ thuật của bài tập thi đấu cũng

như hỗ trợ cho việc phát triển các tố chất thể lực chuyên môn, nên người ta
chia làm 2 loại: bài tập hỗ trợ kỹ thuật, bài tập hỗ trợ thể lực.
Bài tập hỗ trợ cho cho việc tiếp thu những kỹ thuật động tác mới, khó
còn gọi là bài tập dẫn dắt.
Bài tập hỗ trợ thể lực chủ yếu nhằm phát triển các tố chất thể lực còn
được gọi là bài tập phát triển.
Các bài tập chuẩn bị chuyên môn rất phong phú. Chúng có thể là chi tiết
của bài tập thi đấu, cũng có thể là phương án của bài tập thi đấu, hoặc là
những động tác có hình thức tương tự như bài tập thi đấu. Mặt khác, bài tập
chuẩn bị chuyên môn không nhất thiết phải giống bài tập thi đấu, nhưng
chúng phải được lựa chọn sao cho động tác có chủ đích và hiệu quả đến sự
phát triển các tố chất thể lực và kỹ xảo vận động ngay ở chính môn thể thao
chuyên sâu.
+ Bài tập chuyên môn loại 1:


13

Giống bài tập thi đấu ở hình thức và tiến trình động tác, khác ở đặc điểm
lượng vận động và giới hạn của nhiệm vụ đặt ra. Những bài tập này thường

tập trung nâng cao một vài loại yếu tố thành tích nào đó hoặc khả năng dự trữ
lượng vận động. Những loại bài tập này thường không nhiều trong từng môn
thể thao.
+ Bài tập chuyên môn loại 2:
Là một phần bài tập thi đấu, hoặc các động tác dùng trong thi đấu mà
trong đó một vài hoặc rất nhiều nhóm cơ bắp tham gia hoạt động, tương tự
như thi đấu. Đây là những bài tập bổ trợ chuyên môn rất khó lựa chọn chính
xác bởi vì ít bài tập chuyên môn có khả năng chuyển dịch tác động về sinh cơ
hoặc sinh lý sang bài tập thi đấu chính. Những bài tập này thường được sử
dụng trong giai đoạn bắt đầu tập luyện chuyên môn hóa.
- Bài tập thi đấu:
Là những hành động nguyên vẹn hoặc tổ hợp các hành động, vận động
được dùng làm phương tiện cơ bản để tiến hành đua tài trong thể thao theo
đúng luật thi đấu.
Chúng ta phải phân biệt các bài các bài thi đấu chính thức với việc sử
dụng bài tập thi đấu trong tập luyện. Bài tập thi đấu phải được thực hiện trong
thi đấu thể thao thực sự còn trong tập luyện mà sử dụng bài tập thi đấu thì chỉ
để giải quyết các nhiệm vụ tập luyện mà thôi.
- Các bài tập thể lực:
+ Bài tập thể lực chung: Là quá trình sử dụng hợp lý các phương tiện
giáo dục thể chất (bài tập thể chất) để phát triển các tố chất vận động (sức
nhanh, sức mạnh, sức bền).
Các bài tập phát triển thể lực chung nhằm chuẩn bị toàn diện cho VĐV,
là cơ sở cho việc phát triển thể lực chuyên môn. Trong các bài tập huấn luyện
thể lực chung, có thể có những bài tập trùng hoặc không trùng với bài tập


14

chuyên môn. Về lý thuyết, phạm vi này không có giới hạn. Nhưng trong thực

tế, nó lại bị giới hạn bởi sự hao phí thời gian, các điều kiện dụng cụ, cơ sở tập
luyện và các yếu tố khác.
Khi lựa chọn các bài tập huấn luyện thể lực chung cho các vận động viên
cần chú ý: quá trình huấn luyện thể lực chung cho VĐV phải phản ánh được
các tố chất thể lực cho từng môn. Các phương tiện huấn luyện thể lực chung
cần phải gắn chặt với yêu cầu về tố chất thể lực chuyên môn.
+ Bài tập thể lực chuyên môn là quá trình tập luyện có và không có dụng
cụ tập luyện, được gắn liền với một môn thể thao nhất định nhằm hoàn thiện
từng tố chất thể lực và khả năng phối hợp cần thiết cho thành tích thể thao ở
môn lựa chọn, cũng như hoàn thiện kỹ chiến thuật trong mối quan hệ đạo đức,
trí tuệ và chuẩn bị về tâm lý có tác dụng nhấn mạnh sự phát triển một yếu tố
đạt thành tích nào đó. Ngoài bài tập thể lực chuyên môn là tổng hợp các yếu
tố động tác thi đấu mang những nét đặc trưng gần giống yêu cầu thi đấu.
1.2. Huấn luyện thể lực trong thể thao.
Để quán triệt tinh thần “phát triển rộng rãi TDTT quần chúng, từng bước
xây dựng thể thao chuyên nghiệp đỉnh cao mà chỉ thị 36 - CT/TW về công tác
TDTT trong giai đoạn mới của Ban Bí Thư Trung ương đảng thì Uỷ Ban
TDTT đã xác định” thể thao thành tích cao là một trong những nhiệm vụ
chiến lược của ngành nhằm mục tiêu nhanh chóng tiếp cận tình độ thể thao
trong khu vực đồng thời từng bước hòa nhập với trình độ thể thao Châu Á. Vì
vậy thể thao thành tích cao là một trong những lãnh vực được quan tâm đặc
biệt không kém những lĩnh vực văn hóa - xã hội, thể hiện sự khát vọng vươn
lên khả năng cao nhất của con người. Vì vậy, tiềm năng của con người đã và
đang được khai thác triệt để, nhằm đạt thành tích cao nhất trong các cuộc thi
đấu. Các khả năng về kỹ - chiến thuật, thể lực, hoạt động tâm lý, ý chí, tri
thức của VĐV là những yếu tố quyết định đến thành tích thể thao.[3]


15


Huấn luyện thể lực trong huấn luyện thể thao là vấn đề được quan tâm
đặc biệt của các nhà khoa học, các chuyên gia, các HLV.
Huấn luyện thể lực là tiền đề để nâng cao thành tích thể thao. Song, về
bản chất mức độ phát triển các tố chất thể lực phụ thuộc vào các trạng thái
chức năng, cấu tạo của nhiều cơ quan và hệ thống cơ thể. Quá trình tập luyện
để phát triển các tố chất thể lực cũng chính là quá trình hoàn thiện các hệ
thống chức năng giữ vai trò chủ yếu trong hoạt động cơ bắp [28]. Theo V.P
Philin, “các tố chất thể lực phát triển có tính giai đoạn và không đồng đều tùy
thuộc vào từng thời kỳ của lứa tuổi” [35]. Vì vậy người HLV không những
phải nắm vững những quy luật phát triển tự nhiên, đặc biệt là thời kỳ nhạy
cảm (thời kỳ thuận lợi cho việc phát triển các tố chất thể lực) của cơ thể, mà
còn phải biểu hiện sâu sắc những đặc điểm phát triển các tố chất thể lực theo
độ tuổi của VĐV.
Huấn luyện thể lực cho vận động viên là một quá trình chuyên môn, chủ
yếu bằng hệ thống các bài tập nhằm hoàn thiện các năng lực thể chất, đảm
bảo cho vận động viên đạt thành tích cao nhất trong tập luyện và thi đấu [26].
Quá trình huấn luyện thể lực phải căn cứ vào đặc điểm đối tượng, lứa tuổi,
của VĐV và đặc thù của môn thể thao và các phương pháp, phương tiện phù
hợp, có như vậy huấn luyện mới mong đạt hiệu quả cao.[37]
Ngày nay, trong huấn luyện thể thao hiện đại, theo Nabatnhicova M. Ya
và Ozolin M.G thì dù bất kỳ giai đoạn nào của quá trình đào tạo VĐV, công
tác huấn luyện thể lực chung được coi là then chốt, bởi thể lực chung và thể
lực chuyên môn được coi là nền tảng của việc đạt thành tích cao. [18]
Huấn luyện thể lực là một quá trình tác động liên tục, thường xuyên và
kế hoạch lên cơ thể VĐV, quá trình này tác động sâu sắc đến hệ thần kinh, hệ
tim mạch, cơ bắp cũng như đối với các cơ quan nội tạng của con người.


16


Thông thường tố chất thể lực được chia làm 5 loại cơ bản: sức nhanh,
sức mạnh, sức bền, khả năng phối hợp vận động mềm dẻo và khéo léo. Tuy
nhiên, các tố chất thể lực trên thường không biểu thị riêng lẻ, tuyệt đối mà có
mối quan hệ tương tác lẫn nhau.
Là quá trình giáo dục nhằm phát triển và hoàn thiện những năng lực thể
chất tương ứng với đặc điểm của môn thể thao chuyên sâu. Nó có nhiệm vụ
phát triển tối đa những năng lực đó của VĐV. Huấn luyện thể lực chuyên môn
hướng đến củng cố và nâng cao khả năng làm việc của cơ quan chức phận,
các tố chất thể lực phù hợp với đòi hỏi của môn thể thao lựa chọn.[29]
Huấn luyện thể lực chung là nền tảng cho việc nâng cao thể lực chuyên
môn. Tuy nhiên, theo quan điểm của thể thao hiện đại, đó không phải là quá
trình huấn luyện chung mà là phải xuất phát từ yêu cấu của huấn luyện thể lực
chuyên môn để lựa chọn phương tiện và phương pháp phù hợp. [29]
Huấn luyện thể lực chuyên môn cần thiết phải chia ra làm 2 phần:
- Huấn luyện thể lực chuyên môn cơ sở:
Được hình thành và phát triển trên nền tảng thể lực chung. Tác giả
Covleva N.Ya. Trong công trình nghiên cứu của mình (1995) đã chỉ rằng: sức
bền chuyên môn của VĐV sẽ cao hơn trên cơ sở nâng cao sức bền chung cho
VĐV. Như vậy, có thể nói rằng: huấn luyện thể lực chung là nền tảng, còn
việc lựa chọn biện pháp thích hợp mang lại những đặc trưng của môn thể
thao, là tiền đề để hình thành nên các tố chất thể lực chuyên môn sau này.
Theo Ozolin N..(1970), việc hình thành thể lực chuyên môn cơ sở của
các môn thể thao không chu kỳ là tương đối khó khăn. Theo ông có 2 cách lựa
chọn:
+ Thứ nhất: Bằng cách lập lại nhiều lần các hoạt động chính đặc trưng
của môn thể thao lựa chọn.


17


+ Thứ hai: Sự lập lại nguyên vẹn các bài tập thi đấu của chính môn thể
thao đó.
Nếu lựa chọn và thực hiện không đúng các bài tập hình thành và phát
triển các tố chất thể lực chuyên môn cơ sở sẽ dẫn đến các sai lầm chuyên môn
trong cơ quan chức phận và điều này làm ảnh hưởng đến việc phất triển thành
tích thể thao của VĐV. Chính vì vậy các bài tập được lựa chọn làm phương
tiện giáo dục tố chất thể lực chuyên môn cơ sở còn phải thực hiện với cường
độ cao. Hay nói cách khác, việc lựa chọn các bài tập giáo dục tố chất thể lực
chuyên môn cơ sở, phải tính toán tới việc sử dụng một khối lượng và cường
độ của bài tập mang những nét đặc trưng của từng môn thể thao tương ứng,
phù hợp.
- Huấn luyện thể lực chuyên môn cơ bản:
Mục đích chính của quá trình chuẩn bị thể lực chuyên môn cơ bản là
nâng cao đến mức cần thiết sự phát triển của các tố chất vận động và khả năng
chức phận của các cơ quan nội tạng, trước những đòi hỏi của môn thể thao lựa
chọn. Sự phát triển của các tố chất vận động chuyên môn cơ bản phụ thuộc
chủ yếu vào các bài tập đặc thù của môn thể thao. Các bài tập đó được thực
hiện trong những điều kiện giảm nhẹ hoặc tăng thêm độ khó.
Có thể nói rằng thành tích thi đấu của VĐV phụ thuộc rất nhiều vào thể
lực chuyên môn. Chính vì vậy sự hình thành và phát triển một cách đầy đủ
các tố chất thể lực chuyên môn là điều hết sức cận thiết. Có một quan điểm
cho rằng, huấn luyện thể lực chuyên môn luôn phải gắn liền với các hoạt động
kỹ thuật. Điều này đúng nhưng vẫn chưa đủ, bởi lẽ việc giáo dục phát triển
các tố chất thể lực chuyên môn của VĐV trong đó vận động viên Karatedo,
phải là một quá trình huấn luyện toàn diện với các phương pháp đa dạng và
nhiều phương tiện khác nhau có tính đến đặc thù của môn thể thao và có sự
kết hợp đầy đủ các yếu tố kỹ - chiến thuật. [16]


18


1.3. Lịch sử hình thành môn võ Karatedo. [39], [40]
Karatedo được xem như là một phương tiện tự vệ đã có lịch sử lâu đời
trải qua hàng mấy trăm năm nhưng chỉ đến năm 1917 nó mới được thầy
Gichin Funakoshi tổng hợp lại một cách khoa học. Ngày nay, Karatedo đã
được phổ biến khắp thế giới qua những chuyến xuất ngoại của các võ sư
người Nhật. Nổi bật hơn cả là tiến sĩ vật lý Nakyama, một học trò xuất sắc
của Gichin Funakoshi, đã có công quảng bá và phát triển môn này ở khắp các
châu lục. Karatedo hiện đại được chia làm nhiều hệ phái tuy nhiên đều dựa
trên các nguyên tắc khoa học, được phát triển dần một cách tự nhiên nhằm đạt
hiệu năng cao nhất trong cách sử dụng các động tác kỹ thuật. Thực chất môn
võ Karatedo là môn võ mang tính khoa học, đơn giản và dễ tập. Đồng thời,
cũng như các môn thể thao khác, nó được xác định là môn thể thao nhằm
nâng cao sức khoẻ cho người tập. Tính thực dụng còn thể hiện ở việc tập
luyện môn Karatedo nhằm chuẩn bị thể lực tốt hơn phục vụ cho hoạt động lao
động cũng như nâng cao năng suất lao động. Ngoài ra nó còn thể hiện là môn
võ mang đầy tính chiến đấu mà ở đây thể hiện thông qua hai yếu tố đó là
phòng thủ và tấn công. Karatedo là nghệ thuật chiến đấu bằng tay không, tập
luyện môn này không chỉ dừng lại ở việc nắm một số kỹ thuật căn bản và
giành một số thành tích trong các cuộc thi đấu. Kỹ thuật tự vệ Karatedo là kết
quả của một quá trình kế thừa, gạn lọc, hiện đại hoá, khoa học hoá đến mức
đơn giản nhất và có hiệu quả nhất. Mục tiêu của đòn vệ là các yếu huyệt,
thường là mắt, yết hầu, chấn thuỷ... Điều quan trọng không phải biết nhiều
cách mà là biết cách tốt nhất và không chỉ biết cách tốt nhất, mà luyện nó
thành kỹ năng, kỹ xảo. Ưu điểm của Karatedo tự vệ còn xuất phát từ khả năng
vận dụng tối ưu đòn thế thông qua sức mạnh, sức nhanh, sức bền và sự khéo
léo của mỗi con người.


19


Trong xu thế thể thao hiện đại ngày nay, việc mở rộng và phong phú hoá
các loại hình, các môn thi đấu được phát triển rộng rãi. Một trong những cách
mở rộng, tăng số lượng các môn thi đấu thể thao là việc “Thể thao hoá” một
số trò chơi vận động dân gian hay một số môn võ cổ truyền dân tộc của các
nước. Nhật Bản đã thành công trong việc quảng bá môn võ dân tộc của họ
thành môn thể thao thi đấu quốc tế như Judo, Karatedo…. Judo đã là môn thi
đấu Olympic chính thức từ năm 1964, Karatedo đang được vận động và sẽ trở
thành môn thi đấu chính thức tại các kỳ Olympic trong tương lai gần.
Nhật Bản và một số nước đã tổ chức các cuộc thi đấu với những điều
luật ban đầu đơn giản sử dụng tất cả các kỹ thuật để đánh gục đối phương
(knock -down). Dần dần, để hạn chế bớt tình trạng chấn thương và mức độ
nguy hiểm khi thi đấu, người ta đã ban hành các điều luật chặt chẽ hơn và
ngày nay các điều luật đã tương đối hoàn chỉnh : Luật bán va chạm (semi contact). Nhờ luật lệ mới này các cuộc thi đấu đã hạn chế tối đa sự chấn
thương và mang lại cho môn võ này dáng dấp một môn thi đấu đối kháng cá
nhân mang tính chất thể thao hiện đại.
Hiện nay, Karatedo đã phát triển khắp thế giới. Liên đoàn Karatedo thế
giới viết tắt là WKF với 187 nước thành viên được thành lập vào năm 1994,
trong đó Việt Nam cũng là một thành viên chính thức của liên đoàn. Liên
đoàn tổ chức định kỳ giải vô địch Karatedo thế giới 2 năm 1 lần. Đồng thời
Karatedo cũng được công nhận là môn thể thao với luật thi đấu riêng làm hạn
chế sự nguy hiểm của đòn đánh để thi đấu trên phạm vi khu vực cũng như
trên thế giới và Karatedo đã trở thành môn thi đấu chính thức nằm trong hệ
thống thi đấu thể thao của nhiều quốc gia.
1.4 Đặc điểm môn võ Karatedo.
Thực chất môn võ Karatedo là môn võ mang tính khoa học, đơn giản và
dễ tập, đồng thời nó được xác định là môn thể thao nhằm nâng cao sức khỏe


20


cho người tập. Tính thực dụng thể hiện ở việc tập luyện nhằm chuẩn bị thể lực
tốt hơn phục vụ cho hoạt động lao động cũng như nâng cao năng suất lao
động. Ngoài ra nó còn thể hiện là môn võ mang tính chiến đấu thể hiện thông
qua 2 yếu tố là: phòng thủ và tấn công. Karatedo là nghệ thuật chiến đấu bằng
tay không, tập luyện môn này không chỉ dừng lại ở việc nắm một số kỹ thuật
cơ bản và giành một số thành tích trong thi đấu. Kỹ thuật tự vệ Karatedo là
kết quả của một quá trình kế thừa, gạn lọc, hiện đại hóa, khoa học hóa đến
mức đơn giản nhất và có hiệu quả nhất. Tính thực dụng của môn Karate thể
hiện thông qua việc phối hợp hài hòa giữa kỹ thuật tay với kỹ thuật chân và
toàn bộ cơ thể. Ngoài ra tất cả các đòn đánh, đỡ, né tránh đều vận dụng trên
nguyên tắc khoa học tuân theo quy luật đường thẳng và lực xoắn. Mặt khác
các kỹ thuật môn Karatedo yêu cầu ở tính hiệu quả cao, dứt điểm nhanh trong
thi đấu và kết thúc đòn phải có tư thế thủ (Zansin). Chính vì vậy để tấn công
nhanh thì đường thẳng là hiệu quả nhất. Đường thẳng không chỉ thể hiện
trong tấn công mà còn thể hiện ngay trong quá trình di chuyển tấn công hay
phản công, thông qua các bước di chuyển sang ngang, về phía trước, phía sau
thì đều có đường thẳng là chủ yếu. Mặt khác tính thực dụng còn thể hiện ở
việc kỹ thuật động tác đơn giản dễ tập mang lại hiệu quả cao trong một thời
gian tập luyện tương đối ngắn so với một số môn võ khác.
1.4.1. Đặc điểm kỹ thuật.
Kỹ thuật có thể được định nghĩa một cách đơn giản là cách thức đặc thù
để thực hiện một chuyển động nhất định nào đó. Trong thi đấu, thông thường
khi tất cả các yếu tố khác ở cùng trình độ thì thắng bại được quyết định bằng
trình độ kỹ thuật. Kỹ thuật tốt có đặc điểm là việc thực hiện kỹ năng một cách
hợp lý nhất cũng như cách thức thực hiện một cách hiệu quả nhất.
Kỹ thuật Karatedo được xây dựng trên nền tảng của các nguyên lý khoa
học và thực hiện chủ yếu trên đường thẳng bao gồm: kỹ thuật tấn, kỹ thuật



21

tay, kỹ thuật chân. Hiện nay, kỹ thuật Karatedo được phân làm 3 loại chính
sau:
- Tấn pháp (Basic stances): 14 thế tấn cơ bản
- Thủ pháp (Hand techniques): 15 đòn đấm
- Cước pháp (Foot Techniques):10 đòn đá
Tính hiệu quả của các kỹ thuật: cần đặc biệt chú ý phát triển sức mạnh
chân, tay và hông trong thi đấu Karatedo hiện đại. Cũng như nhiều môn thể
thao khác, nội dung huấn luyện kỹ thuật trong Karatedo cũng rất quan trọng.
Cấu trúc kỹ thuật, động tác càng phức tạp thì huấn luyện kỹ thuật càng quan
trọng. Một kỹ thuật hiệu quả là một kỹ thuật mà chỉ các nhóm cơ cần thiết
tham gia vào chuyển động được kích hoạt, không lãng phí năng lượng để co
các nhóm cơ khác không cần thiết cho chuyển động.
- Kỹ thuật tay: Trong Karatedo đòn tay chiếm khoảng 75% tổng số kỹ
thuật, các kỹ thuật cánh tay và bàn tay rất nhanh và rất mạnh. Trong những
khoảng cách gần, cận chiến kỹ thuật tay là giải pháp tốt nhất để các đấu thủ ra
đòn tấn công, phản công ghi điểm hiệu quả.
- Kỹ thuật chân: Theo Bob Chaney (2005) – một tác giả nghiên cứu võ
học nổi tiếng của Mỹ cho rằng: Trong Karatedo có khoảng 45% kỹ thuật chân
được vận dụng trên sàn đấu. Đòn chân của Karatedo thường cao nhưng tung
ra rất nhanh, mạnh liên hoàn nên khó đỡ và phản đòn. Đòn chân thường được
xem là mạnh hơn đòn tay 3 đến 4 lần, do khối lượng của chân to hơn và sự
tham gia trực tiếp của hông cũng như xung lực vuông góc của hông. VĐV có
kỹ thuật chân điêu luyện sẽ thuận lợi trong việc di chuyển, tung ra những cú
đá cực mạnh và bất ngờ, làm giảm khả năng, sức chiến đấu của đối phương.
1.4.2. Đặc điểm về chiến thuật.
Chiến thuật trong Karatedo mang tính đối kháng cá nhân, đòi hỏi VĐV
phải tinh thông về mặt chiến thuật, luôn luôn có sự biến hóa hợp lý. VĐV lập



22

kế hoạch tấn công chớp nhoáng đồng thời đưa ra phương án phản công hiệu
quả. Nhìn chung chiến thuật được xây dựng theo hai phương án chính (chủ
động tấn công và thụ động phản công).
-

Chủ động: không chờ đối phương tấn công mà tìm hướng tấn công hay thực
hiện động tác giả để thực hiện đòn tấn công.

-

Thụ động phản công: sau khi đối phương đã tấn công thì tìm hướng phản
công hoặc sáng tạo đòn phản công.
1.4.3. Đặc điểm thể lực.
Theo luật thi đấu hiện hành thời gian thời gian trận đấu Karatedo là 3
phút cho VĐV nam và 2 phút cho VĐV nữ với cường độ cao về áp lực tâm
sinh lý nên cơ chế sinh lý chủ yếu là yếm khí và hoạt động ở vùng cường độ
tối đa. Mặt khác để vào tới trận chung kết thì VĐV phải thi đấu từ 4 đến 5
trận đấu trở lên, xu hướng tổ chức giải hiện nay thường là thi đấu dứt điểm
các hạng cân trong ngày nên khả năng chịu đựng lượng vận động và áp lực
tâm lý, sinh lý là rất lớn.
Theo Cochran S. Chuyên gia sức mạnh và thể lực, thành viên của Hiệp
hội Sức mạnh & Thể lực Quốc gia Mỹ – NSCA- chuyên nghiên cứu về các
môn võ thuật) (2001) đã tổng kết các yêu cầu đặc thù của từng môn võ thuật
riêng biệt như sau:
Bảng 1.1. Các yêu cầu thể lực ở một số môn võ thuật.
MÔN


Karatedo
Taekwondo
Judo
Aikido
Kung fu
Muay Thai
Jujitsu

SỨC BỀN

SỨC BỀN

ƯA KHÍ

YẾM KHÍ

Cao
Cao
Cao
Thấp
cao
Cao
Thấp

Cao
Cao
Cao
Thấp
Cao
Trung bình

Thấp

LINH HOẠT

SỨC MẠNH

CÔNG SUẤT

Cao
Cao
Trung bình
Trung bình
Cao
Trung bình
Trung bình

Trung bình
Trung bình
Cao
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Trung bình

Cao
Cao
Cao
Thấp
Cao
Cao

Trung bình


23

Qua đó có thể nhận định: ở từng môn võ thuật với các đặc thù thi đấu
khác biệt, đều có những sự khác biệt về yêu cầu thể lực khác nhau. Trong đó,
Karatedo là môn có yêu cầu cao ở hầu hết các tố chất, năng lực vận động.
VĐV Karatedo phải có năng lực tốt về sức bền ưa khí, sức bền yếm khí , công
suất (sức mạnh tốc độ) và linh hoạt.
1.5. Huấn luyện thể lực trong môn Karatedo.
Thành tích thể thao của Karatedo là tổng hợp kết quả của nhiều yếu tố
hợp thành nên không coi nhẹ bất kỳ một yếu tố nào, mà phải phát triển đồng
bộ, toàn diện. Một số vấn đề hết sức cấp bách, quan trọng công tác huấn luyện
và đào tạo VĐV phải phát triển toàn diện các tố chất thể lực chung và chuyên
môn. Muốn phát triển thể lực cho VĐV môn Karatedo hay các môn thể thao
nào khác phải huấn luyện có kế hoạch, có mục đích và khoa học.
Tỷ lệ giữa huấn luyện thể lực chung và huấn luyện thể lực chuyên môn
phụ thuộc vào những đặc điểm cá nhân của VĐV, vào từng thời kỳ, giai đoạn
tập luyện và nhiệm vụ cần được giải quyết.
Các mặt khác nhau của hoạt động thể lực được gọi là các tố chất thể lực
hay còn gọi là tố chất vận động. Có 5 tố chất thể lực cơ bản: sức mạnh, sức
nhanh, sức bền, mền dẻo và khéo léo (năng lực phối hợp vận động). Dựa trên
cơ sở sinh lý, lý luận và phương pháp thể dục thể thao và tố chất thể lực,
chúng tôi đi sâu vào phân tích đặc điểm của từng tố chất:
1.5.1. Tố chất sức mạnh trong môn Karatedo.
Theo D. Harre (1996) [4] và Nguyễn Toán – Phạm Danh Tốn (2000) [31]
sức mạnh là khả năng con người sinh ra lực cơ học bằng nổ lực của cơ bắp,
tức khả năng sức mạnh khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc đề kháng lại
bằng sự nổ lực cơ bắp. Daxưorơxki V.M (1978): phân chia sức mạnh thành

sức mạnh tối đa (sức mạnh tuyệt đối), sức mạnh tương đối, sức mạnh tốc độ
(khả năng sinh lực trong các động tác nhanh) và sức mạnh bền. Sức mạnh –


24

tốc độ được chia nhỏ tùy theo chế độ vận động thành sức mạnh động lực và
sức mạnh hoãn xung [5].
Trong Karatedo khi sức mạnh cơ được phát triển, thông qua phát triển
sức mạnh tối đa thành tích của môn Karatedo sẽ cải thiện. Nhiều công trình
nghiên cứu đã chứng minh: Khi sức mạnh của người tập được cải thiện, người
tập Karatedo có thể thực hiện các kỹ thuật một cách hoàn thiện, hiệu quả hơn,
ít bị chấn thương hơn… qua đó thành tích thi đấu sẽ được cải thiện tốt hơn.
1.5.2. Tố chất sức nhanh trong môn Karatedo.
Theo Daxưorơxki V.M (1978): Sức nhanh được coi là tố chất thể lực
quan trọng là khả năng của con người hoàn thành những hoạt động vận động
khoảng thời gian ngắn nhất [5].
Người ta phân biệt 3 hình thức đơn giản biểu hiện sức nhanh như:
- Thời gian tiềm phục của phản ứng vận động.
- Tốc độ động tác đơn (với lực đối kháng bên ngoài nhỏ).
- Tần số động tác.
Các hình thức đơn giản của sức nhanh tương đối độc lập với nhau. Đặc
biệt những chỉ số về thời gian phản ứng vận động hầu như không tương quan
với tốc độ động tác. Những hình thức trên là thể hiện các năng lực tốc độ khác
nhau.
Trong nhiều động tác thực hiện với tốc độ tối đa người ta quan sát thấy 2
giai đoạn:
- Giai đoạn tăng tốc độ.
- Giai đoạn tốc độ ổn định tương đối.
Đặc điểm của giai đoạn thứ nhất là chuyển động nhanh dần hay chuyển

động có gia tốc. Khi tốc độ không tăng thêm được nữa thì chuyển sang giai
đoạn 2, giai đoạn chuyển động đều (giai đoạn ổn định tương đối).


25

Theo quan điểm sinh lý, về thời gian tiềm phục của phản ứng vận động
gồm 5 phần:
- Xuất hiện hưng phấn trong cơ quan cảm thụ.
- Dẫn truyền hưng phấn vào hệ thần kinh trung ương.
- Truyền hưng phấn trong tổ chức lưới hình thành tín hiệu ly tâm.
- Truyền tín hiệu từ hệ thần kinh trung ương tới cơ.
- Hưng phấn cơ và cơ hoạt động tích cực.
Trong các giai đoạn thì giai đoạn thứ 3 chiếm nhiều thời gian nhất.
Những động tác được thực hiện với tốc độ tối đa khác với động tác chậm về
đặc điểm sinh lý. Nguyên do của sự khác biệt thể hiện cơ bản ở chỗ khi thực
hiện với tốc độ tối đa thì khả năng điều chỉnh bằng cảm giác trong tiến trình
thực hiện động tác sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó với tốc độ cao khó có thể
thực hiện động tác thật chính xác trong các động tác rất nhanh và thực hiện
với tần số cao. Trong động tác với tốc độ lớn, hoạt động của cơ diễn ra trong
thời gian ngắn đến mức cơ không kịp co lại nhiều và thực tế cơ hoạt động
theo chế độ đẳng trường. Người ta thừa nhận rằng tần số động tác phụ thuộc
vào tính linh hoạt của quá trình thần kinh, tức là phụ thuộc vào tốc độ luân
chuyển giữa trạng thái hưng phấn và ức chế ở trung khu vận động.
Sức nhanh là tố chất thể lực cơ sở, quan trọng trong hầu hết các môn thể
thao. Sự phát triển tốc độ trong môn Karatedo nhằm đạt hiệu quả thi đấu cao
nhất, là kết quả của sự phát triển nhiều yếu tố khác bao gồm: sức mạnh, công
suất, năng lực mềm dẻo và mức độ hoàn thiện của kỹ thuật.
Trong môn Karatedo sức nhanh thể hiện ở tốc độ phản ứng và tốc độ ra
đòn, sự di chuyển né tránh đòn đánh của đối phương. Trong thi đấu, các tính

huống diễn ra rất nhanh, biến hóa và chỉ kéo dài trong khoảng thời gian từ 2
đến 3 phút, do vậy đòi hỏi VĐV phải có khả năng phán đoán nhanh nhạy, đưa
ra các phương án và chiến thuật nhanh, hợp lý.


×