Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Cơ sở lý luận về cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.74 KB, 16 trang )

Cơ sở lý luận về cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý
I. Cơ cấu đầu tư
1. Khái niệm
Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu về vốn, nguồn
vốn, cơ cấu huy động và sử dụng vốn...Những yếu tố này có quan hệ hữu cơ, tương tác
qua lại với nhau cả về chất lượng và số lượng, trong không gian và thời gian, vận
động theo hướng hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý và tạo những tiềm lực lớn hơn về
mọi mặt kinh tế xã hội.
2. Đặc điểm
2.1. Cơ cấu đầu tư mang tính khách quan.
Trong nền kinh tế, cơ cấu đầu tư được thực hiện theo các chiến lược kế hoạch đã
được hoạch định trước. Nhưng không vì thế mà cơ cấu đầu tư mất đi tính khách quan
của nó. Mọi sự vật hiện tượng đều hoạt động theo các quy luật khách quan. Và trong
quá trình sản xuất, cơ cấu đầu tư không ngừng vận động, không ngừng phát triển theo
những quy luật khách quan. Quá trình hình thành và biến đổi cơ cấu đầu tư ở các nước
đều tuân theo nhưng quy luật chung. Một cơ cấu đầu tư hợp lý phải phản ánh được sự
tác động của các quy luật phát triển khách quan.
2.2. Cơ cấu đầu tư mang tính lịch sử và xã hội nhất định.
Những bộ phận cấu thành của hoạt động đầu tư xác lập được mối quan hệ hữu
cơ, tương tác qua lại lẫn nhau theo không gian và thời gian. Sự tồn tại về số lượng thì
có thể chung cho mọi nền sản xuất, nhưng khác nhau về nội dung, cách thức thực hiện
các nội dung mối quan hệ đó. Sự khác nhau đó là do các quy luật kinh tế đặc thù của
mỗi phương thức sản xuất, trước hết là quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản
xuất ấy quy định. Ngay trong các hình thái kinh tế xã hội giống nhau tồn tại ở các nước
khác nhau vẫn có sự khác nhau trong hình thành cơ cấu đầu tư. Do đặc điểm riêng của
quá trình lịch sử phát triển của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội... những xu thế
thay đổi cơ cấu chung sẽ được thể hiện qua hình thái đặc thù trong từng giai đoạn lịch
sử phát triển của mỗi nước. Vì vậy cơ cấu đầu tư luôn luôn thay đổi trong từng giai
đoạn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội. Sự thay đổi đó gắn với sự biến
đổi, phát triển không ngừng của bản thân các yếu tố, bộ phận trong hoạt động đầu tư và
của những mối quan hệ giữa chúng.


3. Phân loại
3.1. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn
Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn còn gọi là cơ cấu nguồn vốn đầu tư thể
hiện quan hệ tỷ lệ của từng loại nguồn vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội hay nguồn vốn
đầu tư của doanh nghiệp và dự án. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, cơ cấu nguồn vốn đầu tư ngày càng đa dạng hơn, phù hợp với các
chính sách huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Một số loại nguồn vốn chủ yếu:
3.1.1 Nguồn vốn trong nước
a) Nguồn vốn ngân sách nhà nước
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước được hình thành từ nhiều nguồn thu khác
nhau như thuế, phí tài nguyên, bán hay cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của nhà
nước... Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư.
Nguồn vốn này giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của mỗi quốc gia. Nó thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội trong đó phần lớn là xây dựng cơ bản và khấu hao tài sản xã hội, quốc phòng, an
ninh, hỗ trợ các dự án đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của nhà nước. Thông qua hoạt
động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành
các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong
những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình
trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí
trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh
nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới
hợp lý hơn.
b) Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ
phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có
khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Tín dụng nhà nước về thực chất có thể coi như một

khoản chi của ngân sách nhà nước, vì cho vay theo lãi suất ưu đãi, tức lãi suất cho vay
thường thấp hơn lãi suất trên thị trường tín dụng, nên Nhà nước phải dành ra một phần
ngân sách trợ cấp bù lãi suất. Song tín dụng Nhà nước cũng có những ưu thế riêng, phát
triển hoạt động tín dụng nhà nước là đi liền với giảm bao cấp về chi ngân sách nhà
nước đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người sử dụng vốn.
Cơ chế của tín dụng là đi vay có hoàn trả kèm lãi suất, nên dưới áp lực này buộc
các đối tượng vay vốn phải tăng cường hạch toán kinh tế, giám sát chặt chẽ việc sử
dụng các khoản vay để bảo đảm khả năng thanh toán nợ. Bên cạnh đó, khả năng điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước sẽ ngày càng được cải thiện khi các khoản vay được
hoàn trả thay vì việc cấp phát không hoàn lại như trước đây, cho nên đầu tư của Nhà
nước vào các ngành then chốt, các vùng trọng điểm, các vùng khó khăn…tăng lên sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của toàn bộ nền kinh tế.
c) Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu bao gồm từ khấu hao
tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước.
Vai trò chủ yếu của nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là đầu tư chiều
sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh
nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất,
huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào
phục hồi tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia
giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, chống
lạm phát...
d) Nguồn vốn đầu tư của tư nhân và dân cư
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích
lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Chúng đóng một vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành
nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên
các địa phương. Kinh tế dân doanh lại là khu vực phát triển rất nhanh và năng động, tạo
ra công ăn việc làm cho nền kinh tế.Với việc xây dựng lại các nghành nghề thủ công
truyền thống sẽ giải quyết thất nghiệp tại các vùng nông thôn, huy động nhiều nguồn

lực xã hội tập trung đầu tư sản xuất, kinh doanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp dân doanh, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này có đóng
góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Ở một mức độ nhất định, các hộ gia
đình cũng sẽ là một trong những nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền
kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
3.1.2 Nguồn vốn nước ngoài
a) Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó
người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử
dụng vốn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm:
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh
+ Doanh nghiệp liên doanh
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
+ BOT (xây dựng- kinh doanh- chuyển giao)
Nguồn vốn FDI có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài
khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận. Thay
vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi
dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả cao. Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài mang
theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước tiếp nhận vốn nên có thể thúc đẩy việc mở
rộng và phát triển các ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về mặt kỹ
thuật và công nghệ hay những ngành đòi hỏi cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có
vai trò to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình
tăng trưởng kinh tế ở những nước tiếp nhận đầu tư.
b) Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính thức
(thường gọi tắt là ODA) là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản cho vay
với những ưu đãi hoặc hỗn hợp các khoản trên được cung cấp bởi các nhà nước, các tổ
chức kinh tế, tài chính quốc tế và các tổ chức phi chính phủ nhằm hỗ trợ cho phát triển
kinh tế - xã hội ở những nước đang phát triển và chậm phát triển được tiếp nhận nguồn

vốn này.
Đặc điểm của ODA là có tính ưu đãi, mang tính ràng buộc và là nguồn vốn có
khả năng gây nợ. Tuy nhiên nó là một nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các nước
đang và chậm phát triển. ODA giúp các nước nghèo tiếp thu những thành tựu khoa học,
công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực, giúp các nước đang phát triển điều
chỉnh cơ cấu kinh tế và góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở
rộng đầu tư phát triển trong nước.
c) Nguồn vốn tín dụng từ Ngân hàng thương mại quốc tế
Đây là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay từ các ngân hàng thương mại quốc
tế với một mức lãi suất nhất định. Sau một thời gian, các nước này phải hoàn trả cả vốn
và lãi, các ngân hàng thương mại quốc tế sẽ thu được lợi nhuận từ lãi suất của khoản
vay.
Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại, các nước tiếp nhận vốn không phải
chịu bất cứ một ràng buộc nào về chính trị, xã hội, có toàn quyền sử dụng. Mặc dù vậy,
thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ
nghiêm ngặt. Và do đây là nguồn vốn cho vay với lãi suất thương mại nên nếu các nước
tiếp nhận không sử dụng hiệu quả nguồn vốn này thì có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất
khả năng chi trả, dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Đây là những trở ngại không nhỏ đối với các
nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong
kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi
suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng
chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của
nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng
nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu
của nước đi vay là sáng sủa.
d) Nguồn vốn huy động qua thị trường vốn quốc tế
Là nguồn vốn huy động từ thị trường chứng khoán trên thế giới, bằng việc bán
trái phiếu, cổ phiếu của chính phủ, các công ty trong nước ra nước ngoài. Có thể huy
động vốn với số lượng lớn, trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh

tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng quan hệ cho vay để gây sức ép
với nước huy động vốn trong các quan hệ khác.
Tạo điều kiện cho nước tiếp nhận vốn tiếp cận với thị trường vốn quốc tế . Với
việc trực tiếp tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tốt để thúc đẩy TTCK
trong nước phát triển trong tương lai. Đối với hình thức huy động này, người đi vay có
thể tăng thêm tính hẫp dẫn bằng cách đưa ra một số yếu tố kích thích.
Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán, trao đổi trên thị trường thứ cấp,
chính vì vậy hình thức này tương đối hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
3.2. Cơ cấu vốn đầu tư
Cơ cấu vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa từng loại vốn trong tổng vốn đầu
tư xã hội, vốn đầu tư của doanh nghiệp hay của một dự án.
Trên thực tế có một số cơ cấu đầu tư quan trọng cần được chú ý xem xét như cơ cấu
vốn xây lắp và vốn máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư xây dựng
cơ bản, vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ và môi trường, vốn
đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, những chi phí tạo ra rài sản lưu động và những chi
phí khác như chi phí giành cho quảng cáo, tiếp thị.... Cơ cấu vốn đầu tư theo quá trình
lập và thực hiện dự án như chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí chuẩn bị thực hiện đầu tư,
chi phí thực hiện đầu tư. . . .
3.3. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành
- CCĐT phát triển theo ngành là cơ cấu đầu tư thực hiện đầu tư cho từng ngành kinh tế
quốc dân cũng như trong từng tiểu ngành, thể hiện việc thực hiện chính sách ưu tiên
phát triển, chính sách đầu tư đối với từng ngành trong một thời kỳ nhất định.

×