Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Thực trạng cơ cấu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.78 KB, 42 trang )

Thực trạng cơ cấu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến
2009
I. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn
Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn có thể chia ra làm ba khu vực chính là khu vực
nhà nước, khu vực tư nhân và khu vực đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn 1986-1990
nguồn vốn khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng cao do những năm đầu của thời kỳ mở
cửa hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính chưa phát triển và
gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động, đặc biệt là trong việc huy động vốn.
Nhưng bước sang giai đoạn 2000 – 2009 thì cơ cấu này đã có sự thay đổi đáng
kể.
Bảng 1: Vốn đầu tư toàn xã hội qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Tổng số Khu vực
Nhà nước
Khu vực tư
Nhân
Vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài
2000
151183 89417 34594 27172
2001
170496 101973 38512 30011
2002
200145 114738 50612 34795
2003
239246 126558 74388 38300
2004
290927 139831 109754 41342
2005
343135 161635 130398 51102
2006


404712 185102 154006 65604
2007
532093 197989 204705 129399
2008 637300 184400 263000 189900
2009 704200 245000 278000 181200
Nguồn: Tổng cục thống kê
Qua bảng số liệu ta thấy tỷ trọng đóng góp trong vốn đầu tư của khu vực tư nhân
và khu vực đầu tư nước ngoài đã tăng lên nhanh chóng, trong đó nguồn vốn từ khu vực
tư nhân tăng cao nhất và đã chiếm tỷ trọng cao hơn khu vực Nhà nước. Như vậy,
chuyển biến của cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn có nhiều dấu hiệu tích cực với sự đóng
góp đa dạng, hiệu quả của nguồn vốn rõ nét hơn, và có sự phát huy ở chừng mực nhất
định trong phân bổ vốn.
1. Nguồn vốn đầu tư trong nước
1.1 Nguồn vốn ngân sách nhà nước
Bảng 2 : Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước phân theo nguồn vốn.
Đơn vị: tỷ đồng
Giá thực
tế
Tổng số
Chia ra
Vốn ngân
sách Nhà
nước
Vốn vay
Vốn của các doanh nghiệp
Nhà nước
và nguồn vốn khác
2000 89417 39006 27774 22637
2001 101973 45594 28723 27656
2002 114738 50210 34937 29591

2003 126558 56992 38988 30578
2004 139831 69207 35634 34990
2005 161635 87932 35975 37728
2006 185102 100201 26837 58064
2007 197989 107328 30504 60157
2008 184400 100900 32928 50572
2009 245000 153800 30473 60727
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Qua bảng 2, ta thấy vốn đầu tư từ nguồn Ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng số vốn từ khu vực Nhà nước và có xu hướng ngày càng tăng cao. Thật
vậy, trong giai đoạn 2000 – 2009, tỷ trọng vốn ngân sách trong tổng số vốn đầu tư của
khu vực nhà nước có xu hướng tăng lên từ 43.623% năm 2000 tăng lên 62,77% năm
2009. Tính riêng năm 2009 vốn từ Ngân sách Nhà nước đạt 153800 tỷ đồng, chiếm
21,8% tổng vốn đầu tư cả nước và bằng 106,8% kế hoạch.
Về cơ cấu chi đầu tư của NSNN trong thời kỳ này cũng đã chuyển biến theo
hướng tập trung hơn cho các lĩnh vực ưu tiên của giai đoạn này, đó là: giao thông, thủy
lợi giáo dục - đào tạo và các công trình phúc lợi dành cho người nghèo. Những chính
sách này đã được tiến hành trong một thời gian khá dài, và nó đã thể hiện sự cố gắng
của nhà nước trong việc phân bổ những nguồn lực hạn hẹp để tạo đà cho tăng trưởng
kinh tế.
1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước
Là nguồn vốn có vai trò quan trọng trong phục vụ cho công tác quản lý nhà nước
và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn này, nhà nước khuyến khích phát triển
các ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Nguồn vốn còn được
phân bổ để thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội.
Bảng 3: Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước.
Đơn vị: nghìn tỷ VND
Năm Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước % vốn tín dụng/ tổng vốn đầu tư
2002 24,12 1,21
2003 28,51 2,85

2004 28,68 9,86
2005 28,21 8,22
2006 40,51 10,01
2007 40,33 8,74
2008 37,5
2009 50 7
Nguồn: Tổng cục thống kê, Vneconomy.vn
Theo Ngân Hàng Phát triển Việt Nam (VDB) thì việc giải ngân vốn tín dụng đầu
tư phát triển gặp khá nhiều khó khăn.
Theo thống kê, tổng số vốn TD ĐTPT giải ngân năm 2006 chỉ đạt 10.200 tỷ
đồng, bằng 92% kế hoạch do các chủ đầu tư “tự nguyện” đăng ký và chỉ bằng 55% kế
hoạch giải ngân đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mới đây, VDB đã gửi văn
bản tới Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính đề xuất các biện
pháp tháo gỡ.
Trong 6 tháng đầu năm 2007, toàn hệ thống VDB huy động được 29.794 tỷ
đồng, thu nợ gốc được 2.796 tỷ đồng, nhưng giải ngân vốn tín dụng đầu tư phát triển
(TD ĐTPT) mới đạt 4.573 tỷ đồng, bằng 20,6% kế hoạch (22.200 tỷ đồng).
Cũng trong thời gian này, VDB đã triển khai hàng loạt giải pháp để tháo gỡ khó
khăn cho các dự án mà chủ đầu tư đang có nợ quá hạn hoặc lãi đến hạn chưa trả, các dự
án chưa huy động đủ nguồn vốn tham gia thì VDB vẫn giải ngân vốn vay trước cho các
hạng mục, khối lượng công việc đã được chấp thuận sử dụng vốn vay tín dụng nhà
nước theo hợp đồng tín dụng đã ký…
1.3. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước.
- Trong giai đoạn 1991-1995, tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN là 11,7%
gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Từ năm 1998-2001, tốc độ
tăng trưởng của DNNN chậm lại nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của toàn bộ
nền kinh tế, nộp ngân sách chiếm 40% tổng thu của ngân sách nhà nước, tạo việc làm
cho trên 1,9 triệu người. Một số sản phẩm của DNNN có đóng góp chủ yếu vào cân đối
hàng hóa của nến kinh tế như bưu chính, dầu khí,…
Bảng 4. Tỷ trọng vốn doanh nghiệp nhà nước trong tổng vốn đầu tư

Năm Vốn doanh nghiệp nhà nước( tỷ
đồng)
Tỷ trọng trong vốn đầu tư
(Đơn vị: %)
2000 22637 14,97
2001 27656 16,22
2002 29591 14,78
2003 30578 12,78
2004 34990 12,03
2005 37728 10,99
2006 47901 11,83
2007 60900 11,44
2008 64620 10,14
2009 60000 8,52
Nguồn: Tổng cục thống kê, vneconomy.vn
- Trong giai đoạn 2000- 2009, các DNNN vẫn làm tốt vai trò là loại hình DN đi
đầu, chiếm tỉ trọng đáng kể trong nền kinh tế. Song càng ngày, tỷ trọng doanh thu của
các DNNN càng giảm. Nguyên nhân là do quá trình cổ phần hóa các DNNN đang diễn
ra nhanh chóng. Tính đến hết 8/2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp,
trong đó, CPH 3.060 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.830
doanh nghiệp Nhà nước, bằng gần 68% số doanh nghiệp Nhà nước đầu năm 2001.
Sau quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm nhưng
vẫn tiếp tục giữ vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh
nghiệp Nhà nước vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách Nhà nước.
1.4. Nguồn vốn đầu tư của tư nhân và dân cư:
Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh
nghiệp doanh dân chiếm bình quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân
cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm
của dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp vào khoảng 5% GDP và
bằng 33% số tiết kiệm được. Trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư của dân cư và tư

nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn tiếp nguồn này sẽ
tiếp tục gia tăng cả về quy mô và tỷ trọng.
Với khoảng vài trăm ngàn doanh nghiệp dân doanh ( gồm có doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã) đã, đang và sẽ đi vào
hoạt động thì phần tích luỹ của các doanh nghiệp này sẽ đóng góp đáng kể vào ngân
sách nhà nước cũng như tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Bởi vậy việc nhà nước thực
hiện các chính sách để khuyến khích thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển là một
yêu cầu thiết yếu. Và trên thực tế trong 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, Nhà nước
liên tục hoàn thiện các chính sách nhằm tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân, kinh
tế hộ gia đình mạnh dạn bỏ vốn đầu tư và phát triển.
2. Nguồn vốn nước ngoài
Như chúng ta đã biết, hiện nay Việt Nam đang là 1 thị trường đầy tiềm năng và
có sức thu hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong những năm qua, nguồn vốn đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam đã thu được những con số rất ấn tượng, có tác động nhất
định đến nền kinh tế nước ta.
2.1. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào
tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua.
Các nghiên cứu gần đây của Bộ Kế hoạch và đầu tư rút ra nhận định chung rằng khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng
tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của
nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách Nhà nước và tạo việc làm cho một
bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước
phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác
động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm
việc trong các dự án FDI.
Bảng 4: số liệu cho biết tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm

qua:
Đơn vị: triệu USD
Năm Số dự án
Vốn đăng ký
Tổng số
vốn thực
hiện
Tổng số
Vốn điều lệ
Tổng số
Nước ngoài
góp
Việt Nam góp
2000 391 2838.9 1312.0 951.8 360.2 2413.5
2001 555 3142.8 1708.6 1643 65.6 2450.5
2002 808 2998.8 1272 1191.4 80.6 2591
2003 791 3191.2 1138.9 1055.6 83.3 2650
2004 811 4547.6 1217.2 1112.6 104.6 2852.5
2005 970 6839.8 1973.4 1875.5 97.9 3308.8
2006 987 12004 4674.8 4328.3 346.5 4100.1
2007 1544 21347.8 8183.6 6800 1383.6 8030
2008 1171 64011.0
2009 839 16345.9
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và đầu tư
Từ năm 1991 đến 1996 là thời kỳ FDI tăng trưởng nhanh, đạt kết quả cao nhất
trong 20 năm và góp phần ngày càng quan trọng vào việc thực hiện kinh tế – xã hội.
Trong kế hoạch 5 năm 1991- 1995 thu hút được 17663 triệu USD vốn FDI đăng ký, tốc
độ tăng trưởng hàng năm rất cao. Đây là thời kỳ hoạt động FDI rất sôi động, hàng nghìn
đoàn khách quốc tế đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư, hàng trăm dự án mới chờ
thẩm định, hàng chục nhà máy được khởi công cùng một lúc, bản đồ FDI thay đổi từng

ngày ở Việt Nam.
Giai đoạn 1997 – 2000 là thời kỳ suy thoái của dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ năm 1997 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo. Nếu như
các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm trực tiếp cho khoảng 20 vạn người trong 5 năm
1991 – 1995, thì trong 5 năm 1996 – 2000 chỉ có thêm 149 nghìn người có việc làm trong khu
vực FDI.
Từ năm 2001 đến 2004 là thời kỳ hồi phục chậm của hoạt động FDI. Tính đến
cuối năm 2004, tổng vốn đăng ký FDI ở Việt Nam là 4547.6 triệu USD và vốn thực
hiện 2852.5 triệu USD. Con số này cho thấy, sau nhiều năm luồng vốn FDI vào
Việt Nam bị chững lại, năm 2004 đã có dấu hiệu hồi phục rõ rệt.
Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài đến hết năm 2005, đã có 7279 dự án FDI
được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký đạt 66,3 tỷ USD. Hết năm 2005 còn 6030
dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký hơn 65 tỷ USD (kể cả tăng vốn). Tính riêng
năm 2006, số dự án cấp mới là 833 dự án , chỉ bằng 86,1% so với năm 2005, với số
lượng vốn đăng ký cấp mới là 7839 triệu USD bằng 166.6% so với năm 2005. Số lượt
dự án tăng vốn năm 2006 là 486 dự án với số vốn tăng thêm là 2362.3 triệu USD. Như
vậy, so với năm 2005, số dự án cấp mới tuy có giảm đi nhưng số lượng vốn đăng ký cấp
mới lại tăng lên, chứng tỏ xu hướng dòng vốn FDI vào nước ta tiếp tục phục hồi và tăng
trưởng, đạt mức kỷ lục kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997.
Đến năm 2008 tổng vốn FDI đã đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần ba lần năm 2007.
Đây là mức thu hút vốn FDI kỷ lục từ trước đến nay của Việt Nam. Điều này càng có ý
nghĩa trong trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khủng hoảng. Tính chung từ đầu năm, đã
có tổng số 1.171 dự án FDI được cấp phép đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đăng
ký đạt hơn 60,2 tỷ USD, tăng 222% so với năm 2007. Bên cạnh đó, trong năm 2008, có
311 dự án đăng ký tăng vốn, tổng số vốn tăng thêm đạt 3,74 tỷ USD. Trong các lĩnh vực
đầu tư, vốn FDI tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, gồm 572 dự
án với tổng vốn đăng ký 32,62 tỷ USD, chiếm 48,85% về số dự án và 54,12% về vốn
đầu tư đăng ký. Lĩnh vực dịch vụ có 554 dự án, tổng vốn đăng ký 27,4 tỷ USD, chiếm
47,3% về số dự án và 45,4% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-
lâm-ngư nghiệp.

Do ảnh hưởng của thời kỳ suy thoái nên vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam năm 2009 giảm đáng kể, chỉ có 893 dự án đăng ký với tổng số vốn 16345,9,
giảm gần 4 lần so với năm 2008.
2.2. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức – ODA
Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều và
hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương
đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các nước là thành viên của Tổ chức
OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi như Trung Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc,...
Bảng 5: Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 2000 – 2009
Đơn vị: TriệuUSD
Năm Cam kết Ký kết Giải ngân
2000 2.400,50 1.772,02 1.650
2001 2.399,10 2.427,42 1.500
2002 2.462,00 1.826,17 1.528
2003 2.838,40 1.772,98 1.422
2004 3.440,70 2.569,22 1.650
2005 3.748,00 2.529,11 1.782
2006 4.445,60 2.824,58 1.785
2007 4.455 3.122,47 2.130
2008 5.426 3500 2.175
2009 5.014,67 6.144,4 3.600
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua bảng số liệu ta thấy số vốn ODA cam kết và ký kết của nước ngoài dành cho
Việt Nam tăng đáng kể và lượng giải ngân ngày càng hiệu quả hơn. Trong thời kỳ 2006
– 2010, Việt Nam dự kiến giải ngân khoảng 11,9 tỷ USD vốn ODA để hỗ trợ phát triển
nông nghiệp và nông thôn; xây dựng cơ sở hạ tầng theo hướng đồng bộ và hiện đại;
phát triển cơ sở hạ tầng xã hội; bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên;
phát triển thể chế và tăng cường năng lực con người.
Trong kế hoạch 5 năm 2006-2010, Việt Nam có kế hoạch huy động khoảng 11 tỷ
USD Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vào đầu tư phát triển. Như vậy, trung bình

mỗi năm phải đạt 2,2 tỷ USD. Vậy ODA dự tính sẽ đóng góp khoảng 9% vào tổng vốn
đầu tư toàn xã hội. Theo kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội giai đoạn 2006-2010, tổng
nguồn vốn đầu tư toàn xã hội tương đương 140 tỉ USD. Trong đó, dự kiến vốn vay
nước ngoài chiếm khoảng 35%, riêng vốn vay từ nguồn ODA dự kiến đạt trên 19 tỉ
USD vốn cam kết. Giải ngân từ nguồn vốn này dự kiến tăng từ 1,7 tỉ USD vào năm
2005 lên 2,3 tỉ USD vào năm 2010. Và như vậy, nguồn vốn giải ngân dự kiến sẽ đạt 11
tỉ USD.
Ngoài nguồn vốn tài trợ ODA, ở Việt nam còn có khoảng 600 các tổ chức phi
Chính phủ quốc tế hoạt động với số tiền viện trợ hàng năm lên đến 200 triệu USD trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan trực tiếp đến đời sống người dân tại các vùng nông
thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Thông qua 15 Hội nghị CG thường niên, tổng vốn ODA đã được các nhà tài trợ
cam kết đạt 42,438 tỷ USD với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước, kể cả những
năm kinh tế thế giới gặp khó khăn như khủng hoảng tài chính khu vực châu Á vào năm
1997.
Số vốn ODA cam kết nói trên được giải ngân dựa trên tình hình thực hiện các
chương trình và dự án được ký kết giữa Chính phủ và các nhà tài trợ.
Mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn, khoảng 3-4% trong GDP của Việt Nam, song
ODA là nguồn vốn bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội của Chính phủ và là chất xúc tác cho các nguồn vốn đầu tư khác như vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư của khu vực tư nhân,....
Việc sử dụng ODA trong thời gian qua đã có hiệu quả, có tác động tích cực đến
phát triển năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng dịch vụ của các ngành và địa phương.
Các công trình giao thông như Quốc lộ 5, Quốc lộ 10, Quốc lộ 18, Đường xuyên Á Tp.
Hồ Chí Minh - Mộc Bài, cầu Bính, Cầu Bãi Cháy, Cầu Mỹ Thuận, Cảng hàng không
Tân Sơn Nhất,... được tài trợ từ nguồn vốn ODA đã minh chứng rõ rệt về tác động lan
tỏa của nguồn vốn ODA đối với phát triển.
Ngoài ra, nguồn vốn ODA còn hỗ trợ các địa phương, đặc biệt các tỉnh còn
nghèo, những các công trình phục vụ trực tiếp đời sống của nhân dân như giao thông
nông thôn, cấp điện và nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã và các bệnh viện tỉnh và

huyện, các công trình thủy lợi, các chợ nông thôn,...
ODA có vai trò quan trọng hỗ trợ Việt Nam xây dựng và hoàn thiện khung thể
chế, pháp lý (xây dựng và hoàn thiện các Luật, các văn bản dưới Luật) thông qua việc
cung cấp chuyên gia quốc tế, những kinh nghiệm và tập quán tốt của quốc tế và khu vực
trong lĩnh vực pháp luật đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế.
Nguồn vốn ODA có vai trò tích cực hỗ trợ phát triển năng lực con người trong
việc đào tạo và đào tạo lại hàng vạn cán bộ Việt Nam trong thời gian qua trên rất nhiều
lĩnh vực như nghiên cứu cơ bản và ứng dụng khoa học, công nghệ, quản lý kinh tế và
xã hội, thông qua việc cung cấp học bổng nhà nước, cử chuyên gia nước ngoài để đào
tạo tại chỗ trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA, chuyển giao công
nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cung cấp trang thiết bị nghiên cứu và triển khai...
2.3. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
Trong các nguồn vốn được đầu tư thì nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng
thương mại cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể.
Các số liệu của Ngân hàng thế giới WB đã cho thấy luồng vốn đầu tư từ các
Ngân hàng thương mại nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu tăng, WB đã ước tính luồng
vốn đầu tư thật sự vào Việt Nam có thể đạt được mức tăng 10%/năm. Các kết quả khả
quan này, theo các nhà đầu tư nước ngoài, là do môi trường đầu tư ở Việt Nam đã được
cải thiện đáng kể. Việc gia nhập vào tổ chức Thương mại thế giới WTO vào tháng
11/2006 đã giúp cho Việt nam rất nhiều trong việc thu hút vốn từ các ngân hàng thương
mại quốc tế. Với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối
với các nhà đầu tư nước ngoài do đã tạo ra được sự tin tưởng vào cơ chế, chính sách ổn
định ở nước ta.
Trong năm 2008, Ngân hàng Thế giới WB đã dành cho Việt Nam nhiều khoản
vay ưu đãi với số tiền cho vay rất lớn, cùng với thời gian vay kéo dài. Có nhiều dự án
cho vay với kỳ hạn 40 năm. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc tạo điều kiện thuận lợi cho
nước ta đi lên. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Thế giới đã
ký kết Hiệp định Tín dụng và các văn kiện khác cho khoản tín dụng xóa đói giảm nghèo
lần thứ 7 (PRSC-7) với trị giá 150 triệu USD (kí kết vào ngày 29/7/2008, tại Việt Nam).

Khoản tín dụng này cũng dự kiến sẽ nhận được nguồn tài chính từ 12 nhà tài trợ khác
trong đó phần lớn là viện trợ không hoàn lại, nâng tổng số tiền hỗ trợ cho Ngân sách
chính phủ lên tới gần 370 triệu USD. Ngân hàng Thế giới cũng dự kiến sẽ cam kết
khoảng 5 tỉ USD từ nguồn IDA (Industrial Development Agency) và IBRD
(International Bank for Reconstruction and Development) để hỗ trợ Việt Nam trong ba
năm tới.
Từ năm 2003 cho đến nay, Ngân hàng Phát triển châu Á ADB đã cho chúng ta
vay nhiều khoản tín dụng ưu đãi. Ngày 1/12/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Ngân hàng Phát triển châu Á đã ký kết Hiệp định khoản vay trị giá 55 triệu USD cho dự
án "Phát triển giáo dục trung học phổ thông". Thời hạn vay là 32 năm, trong đó có 8
năm ân hạn, lãi suất trong thời gian ân hạn là 1%/năm, lãi suất trong những năm tiếp
theo là 1,5%/năm; phần vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam là 25 triệu USD. Dự án
sẽ được tiến hành từ năm 2003 - 2009. Không chỉ quan tâm đến vấn đề phát triển kinh
tế, ADB còn rất quan tâm đến chất lượng cuộc sống của người dân, đặc biệt là giới trẻ
Việt Nam. Ngày 8/9/06, Dự án phòng chống HIV/AIDS cho Thanh niên do Ngân hàng
Phát triển Châu Á tài trợ đã chính thức được khởi động. Theo đó, chiến lược phòng
chống HIV/AIDS đến 2010 và tầm nhìn 2020 là khống chế sự lây lan trong cộng đồng
dân cư xuống 0,3%. Dự án có tổng kinh phí 26,7 triệu USD; trong đó, Ngân hàng Phát
triển Châu Á tài trợ 20 triệu USD và Chính phủ Việt Nam đóng góp 6,7 triệu USD.
Việt Nam không chỉ nhận được sự ưu ái đầu tư từ WB, ADB mà còn nhận được
sự ưu ái của nhiều Ngân hàng thương mại quốc tế khác trên thế giới.
2.4. Nguồn vốn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế, Nhà nước ta
rất coi trọng việc huy động nguồn vốn trên thị trường vốn quốc tế. Ngày 25/10/2005,
Việt Nam phát hành lượng trái phiếu đầu tiên trị giá 750 triệu USD ra thị trường vốn
quốc tế và được đánh giá là khá thành công ( trái phiếu của Vinashin ). Sau đợt phát
hành, đã có nhiều doanh nghiệp "nhăm nhe" đưa trái phiếu của mình ra thị trường quốc
tế và Bộ Tài Chính luôn khẳng định sẽ hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện kế hoạch phát
hành. Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã trình Chính phủ và được đồng ý về nguyên tắc kế
hoạch phát hành 800 triệu USD trái phiếu doanh nghiệp (TP doanh nghiệp) ra thị trường

quốc tế. Đầu tháng 6/2007, BTC đã kiến nghị Chính phủ thông qua Nghị quyết phát
hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế với thời hạn từ 15 đến 20 năm (hiện
tại được mở rộng thời hạn huy động từ 10 đến 30 năm) cho Tập đoàn Dầu khí, Tổng
công ty Hàng hải, Tổng công ty Sông Đà và Lilama vay lại để đầu tư các dự án...
Hiện có ba hình thức phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế: thứ nhất, Chính
phủ phát hành trái phiếu rồi lựa chọn doanh nghiệp đầu tư (như đã làm với Vinashin);
hình thức thứ hai là doanh nghiệp phát hành, Chính phủ bảo lãnh và thứ ba là doanh
nghiệp tự phát hành.
Theo ý kiến của các chuyên gia, hình thức thứ nhất và thứ hai là phù hợp với các
doanh nghiệp VN vì doanh nghiệp có thể dựa vào năng lực và hệ số tín nhiệm của
Chính phủ đã được các nhà đầu tư quốc tế công nhận mà không phải thực hiện lại các
bước đi phức tạp từ đầu như tiếp xúc với các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm và thực
hiện quảng bá, xúc tiến với các nhà đầu tư...
3. Hạn chế
- Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn thấp, sử dụng vốn ngân
sách cho đầu tư còn giàn trải, phân tán; các dự án còn chậm tiến bộ.
- Việc thực hiện và giải ngân nguồn vốn Ngân sách Nhà nước và trái phiếu chính
phủ còn chậm chễ. Nguyên nhân đầu tiên phải nói đến, đó chính là công việc chỉ đạo,
điều hành và quản lý thực hiện dự án của các Bộ, ngành, địa phương còn nhiều hạn chế,
đồng thời công tác xây dựng, thẩm định, phê duyệt dự án, tổng dự toán và thiết kế kỹ
thuật… vừa chậm trễ, vừa chưa đảm bảo yêu cầu chất lượng; công tác khảo sát ban đầu
thiếu chính xác, không xác định đầy đủ các yếu tố liên quan. Thủ tục phê duyệt tổng dự
toán, kế hoạch đấu thầu, kết quả trúng thầu…của một số Bộ, ngành và địa phương còn
rất rườm rà và phức tạp. Các quy định hướng dẫn tính toán điều chỉnh chi phí, định mức
đầu tư thường chậm được xử lý của các cấp thẩm quyền và không đồng bộ với các biến
động thị trường, nhiều lúc dẫn đến tình trạng chi vượt dự toán, giảm nguồn thu.
- Lãng phí kép trong sử dụng vốn. Ở Việt Nam tồn tại một nghịch lí là nước nghèo
nhưng không biết tiêu tiền hợp lí, gây lãng phí. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ việc sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng
như nước ngoài và ODA. Đầu tư trong nước cũng là một nguồn lực tốt, thậm chí, năm

2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các DN tư
nhân, các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc đẩy hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy
nhiên, hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các
nguồn lực khác. Cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành
cho DN nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất
nhiều. Tất nhiên, không phủ nhận sự yếu kém của DN tư nhân trong nước, nhưng một
yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do
chính nhà nước tạo ra.
- Về vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải
ngân còn quá thấp. Cam kết FDI 10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn
đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào.
Chúng ta nhận được rất nhiều khoản tín dụng với lãi suất thấp, đầu tư vào nhưng lĩnh
vực quan trọng như giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng… Các khoản tín dụng này hầu hết có
giá trị rất lớn, có dự án số tiền đầu tư lớn hơn 1 tỷ USD. Nhưng vấn đề ở chỗ số vốn
này không được đưa về Việt nam cùng một lúc mà được giải ngân trong một thời gian
đáng kể hay chia thành nhiều đợt. Và bài toán giải ngân vốn của chúng ta luôn là bài
toán khó. Trong cơ chế đổi mới như hiện nay, với tình hình thu hút được nhiều nguồn
vốn đầu tư như vậy, việc giải ngân vốn là vấn đề rất quan trọng, nó không chỉ riêng với
các nguồn vốn đầu tư nước ngoài mà ngay cả các nguồn vốn trong nước như nguồn
Ngân sách nhà nước cũng cần phải giải ngân chính xác.
- Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để
giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định khác nhau giữa
nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất. Sau khi chọn được dự án ODA
đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt
bằng, và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ
thuật đã làm chậm quá trình giải ngân. Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân
hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ,
một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả
lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3
năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn.

Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào.
II. Thực trạng cơ cấu vốn đầu tư
1.Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước
VĐT xây dựng cơ bản là chi phí đầu tư chủ yếu cho hệ thống cơ sở hạ tầng KT_XH bao
gồm: chi phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế và
xây dựng, chi phí mua sắm, lắp đặt máy thiết bị và các chi phí khác, ghi trong tổng dự
toán.VĐT xây dựng cơ bản chiếm phần lớn VĐT phát triển xã hội và rất được quan tâm
trong cân đối chi tiêu ngân sách. Đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn NSNN chiếm tỷ trọng
cao nhất. Đây là cốt lõi của đầu tư phát triển toàn xã hội, có vai trò quan trọng trong
việc định hướng các thành phần kinh tế với các loại nguồn vốn ngoài NSNN để đầu tư
phát triển phục vụ các mục tiêu KT – XH đã được Đảng và Nhà nước xác định trong
qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Bảng 1: tỷ lệ đầu tư XDCB trong tổng chi NSNN.
( đơn vị : tỷ đồng)
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Chi ĐTPT 29624 40236 45218 59629 66115 79199 88341 112160
Chi XDCB 26211 36139 40740 54430 61746 72842 81078 107440 115274 228242
Tỷ lệ
( % )
88,42 89,81 90,09 91,28 93,39 91,97 91,78 95,79
Nguồn : Tổng cục thống kê
Từ bảng 1 ta thấy được sự quan tâm của Đảng và nhà nước ta đối với việc đầu
tư xây dựng cơ bản.Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản không ngừng tăng lên cả về giá
trị tương đối và tuyệt đối qua các năm. Nếu như năm 2000 vốn XDCB là 26211 tỷ đồng
( 88,42% ) thì đến năm 2006 đã tăng lên hơn 3 lần (81087tỷ đồng) và tới năm 2007
tăng 4,3 lần (107440 tỷ đồng), một tỷ lệ cho thấy chi cho XDCB chính là chi cho đầu tư
phát triển .Năm 2008 chi cho XDCB từ ngân sách nhà nước là 115274 tỷ đồng,năm
2009 là 228242 tỷ đồng tăng 98% so với năm 2008 và là số vốn đầu tư NSNN lớn nhất
trong 1 năm.
Những thống kê trên cho thấy những kết quả tích cực từ cơ cấu, định hướng cân

đối nguồn vốn đầu tư XDCB của những năm qua....Tuy nhiên,việc giải ngân còn thấp
so với yêu cầu đặt ra. Tình trạng chậm tiến độ xây dựng các công trình, dự án tuy có
giảm nhưng vẫn chưa được khắc phục.
Số lượng và tỉ lệ các dự án đầu tư XDCB sử dụng ngân sách nhà nước có vi
phạm các qui định về quản lý đầu tư có xu hướng tăng lên.Cụ thể, năm 2005 có 1.822
dự án vi phạm (chiếm 14,57% dự án thực hiện đầu tư trong năm), năm 2006 có 3.173
dự án vi phạm (chiếm 18,19% dự án thực hiện đầu tư trong năm), năm 2007 có 4.763
dự án vi phạm (chiếm 16,6% dự án thực hiện đầu tư trong năm)...Tình hình vi phạm
quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009 dù đã giảm so với những năm
trước nhưng vẫn còn ở mức cao. Trong 6 tháng đầu năm 2009, có 4.182 dự án vi phạm
các quy định về quản lý đầu tư, chiếm khoảng 13% tổng số dự án thực hiện đầu tư
trong ký...
Các bộ, ngành và địa phương mới phản ánh được những sai phạm trong thủ tục
đầu tư, chưa phản ánh đúng thực tế về chất lượng công trình và việc thất thoát, lãng phí
trong đầu tư xây dựng (theo báo cáo của các cơ quan năm 2005 có 28 dự án có lãng phí,
chiếm 0,1%; năm 2006 có 8 dự án có lãng phí, chiếm 0,03%; năm 2007 có 17 dự án có
lãng phí, chiếm 0,06% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm)...
Qua báo cáo của các bộ, ngành và địa phương, tỷ lệ dự án chậm tiến độ năm
2009 khoảng 12,7% (năm 2008 là 18,2%; năm 2007 là 14,8%; năm 2006 là 13,1%). Số
dự án phải thực hiện điều chỉnh trong 6 tháng đầu năm 2009 là 6.478, chiếm 20,2%
tổng số dự án; trong đó, 4% dự án điều chỉnh về nội dung đầu tư, 7,1% dự án điều
chỉnh về tiến độ, và 12,7% dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư
(Nguồn: Báo cáo của Bộ KH-ĐT)
2. Vốn đầu tư cho giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ.
Bảng 2 : Kinh phí đầu tư cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo,khoa học- công nghệ môi
trường từ ngân sách nhà nước
Đơn vị: tỷ đồng
Năm GD – ĐT KH – CN
2000 12677 1243
2001 15432 1625

2002 17844 1852
2003 22881 1853
2004 25343 2362
2005 28611 2584
2006 37332 2540
2007 53774 7604
Nguồn : Tổng cục thống kê
2.1. Giáo dục – Đào tạo.
Đầu tư cho GD-ĐT hiện nay từ các nguồn: NSNN (cả công trái giáo dục, vay
nợ, viện trợ) và ngoài NSNN (học phí, thu dịch vụ khoa học công nghệ…) trong đó
ngân sách chiếm 78,2% và là nguồn chủ yếu và có ý nghĩa quyết định nhất. Ngân sách
nhà nước dành cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo năm 2000 là 12677 tỷ đồng chiếm
11,63% tổng chi ngân sách nhà nước,tới năm 2007 là 53774 tỷ đồng (tăng gấp 4,24 lần
so với năm 2000)chiếm 13,46 % tổng chi ngân sách nhà nước năm 2007.
Khi đánh giá về việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) đầu tư cho
GD-ĐT trong những năm qua, nhiều người đã cho rằng, kinh phí đầu tư lớn nhưng hiệu
quả chưa cao. Theo tính toán tổng chi phí cho giáo dục ở Việt Nam so với GDP không
những thuộc loại cao nhất thế giới mà còn đạt giải quán quân trong những nước cao
nhất.Năm 2006 tổng chi cho giáo dục lên tới 8,4% GDP, năm 2007 lên tới 9,2% GDP
khi ngân sách nhà nước tăng thêm gần 1% nữa. Trong tổng chi phí, phần chi ngân sách
nhà nước cho giáo dục cũng tăng từ 4,2% năm 2000 lên 5,6% GDP năm 2006, chứng tỏ
nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến giáo dục, nhưng đồng thời cũng chứng tỏ sự lãng
phí và thiếu hiệu quả của việc chi phí trên, tuy nhiên rất đáng buồn là không thể tìm ra
nguồn gốc của chúng vì sự thiếu minh bạch trong số liệu tài chính hiện nay.
Thực tế thì, từ năm 2001 đến 2007, chi NSNN cho giáo dục tăng qua mỗi năm,
với tỷ trọng trong GDP tăng từ 4,1% lên 5,6%. Song, do GDP của nước ta thấp nên cơ
sở vật chất của ngành còn hết sức thiếu thốn, chỉ nói riêng về cơ sở vật chất tối thiểu là
phòng học thì năm 2006 vẫn còn 38% số phòng bán kiên cố, 10,6% phòng học tạm; đời
sống giáo viên còn rất khó khăn với lương bình quân thấp nhất là giáo viên mầm non
1,6 triệu đồng/tháng, cao nhất là giảng viên CĐ, ĐH là 2,5 triệu đồng/tháng... nhưng

phải đáp ứng quy mô giáo dục tăng từ 22 triệu năm 2000 lên 23 triệu năm 2006, đồng
thời lại phải nâng cao chất lượng. Nếu so sánh tỷ trọng chi ngân sách cho GD-ĐT của
nước ta với các nước thì thuộc loại cao nhưng do GDP bình quân trên đầu người còn rất

×