Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tiểu luận hạn chế về doanh nghiệp nhà nước - 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.34 KB, 14 trang )

Bất cập hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành về doanh
nghiệp nhà nước – một số kiến nghị giải pháp.
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác
nhau thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Các doanh nghiệp này,
trên thực tế là một bộ phận vô cùng quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là lực
lượng vật chất to lớn giúp Nhà nước giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội
phức tạp của đất nước trong thời gian qua. Song song với sự phát triển đó, thì
Doanh nghiệp nhà nước vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập trong vấn đề về tổ
chức, hoạt động sản xuất kinh doanh của nó. Vì vậy, bài tiểu luận này sẽ làm rõ
một số vấn đề hiện tại của pháp luật về doanh nghiệp nhà nước và một số giải
pháp khắc phục những hạn chế đó.


NỘI DUNG
I.
1.

Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước.
Khái niệm, đặc điểm về doanh nghiệp nhà nước.
1.1 Khái niệm.

Ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước bắt đầu được phát triển từ năm 1948.
Thuật ngữ “doanh nghiệp nhà nước” được sử dụng chính thức trong Nghị định
số 388-HĐBT ngày 20/11/1991, ban hành Quy chế về thành lập và giải thể
doanh nghiệp nhà nước. Qua các thời kỳ phát triển, các quy định về doanh
nghiệp nhà nước cũng có những sự thay đổi nhất định để phù hợp với điều kiện
thực tế.
Luật doanh nghiệp năm 2014 hiện hành đã đưa ra quy định cụ thể về khái


niệm doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp
do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (khoản 8 Điều 4 Luật doanh nghiệp
2014). Như vậy, về bản chất thì doanh nghiệp nhà nước cũng là một tổ chức có
tên riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch và cũng phải được đăng ký thành
lập theo quy định của pháp luật, hoạt động nhằm mục đích kinh doanh. Tuy
nhiên, khác với các doanh nghiệp thông thường, phần vốn của doanh nghiệp là
do Nhà nước nắm giữ 100% mà không có sự góp vốn từ các chủ thể khác.
Với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong các quan hệ pháp luật, Nhà nước
là chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước sẽ
có cơ quan đại diện chủ sở hữu (là Nhà nước) để tiến hành và quyết định các vấn
đề trong doanh nghiệp.
1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước.
Thứ nhất, đặc điểm về sở hữu vốn.
Khác với doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm
2003, đó là bên cạnh những doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ
thì những doanh nghiệp do nhà nước đầu tư nắm cổ phần, vốn góp chi phối cũng
được coi là doanh nghiệp nhà nước. Luật doanh nghiệp năm 2014 xác định rõ
chỉ những doanh nghiệp do nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ mới được coi là


doanh nghiệp nhà nước. Điều này có nghĩa, các doanh nghiệp mà nhà nước nắm
cổ phần, vốn góp chi phối trước đây vô hình chung sẽ không còn tư cách là
doanh nghiệp nhà nước nữa, mà được hoạt động độc lập với tư cách là các công
ty TNHH hoặc CTCP (Khoản 2, Điều 88). Doanh nghiệp nhà nước không được
quyền phát hành cổ phần (Khoản 3 Điều 73 Luật doanh nghiệp 2014). Thay vào
đó, doanh nghiệp nhà nước được huy động vốn bằng cách cần phải tuân thủ các
nguyên tắc quy định tại Khoản 2 Điều 23 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà
nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, tại doanh nghiệp 2014.
Thứ hai, đặc điểm về hình thức tổ chức.
Theo quy định của pháp luật trước năm 2014 doanh nghiệp nhà nước tồn

tại dưới nhiều loại hình khác nhau như Công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà
nước, công trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm
hữu hạn nhà nước từ hai thành viên trở lên, doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp
chi phối của Nhà nước. Nhưng theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014
thì hiện nay DNNN chỉ có một hình thức tổ chức duy nhất là công ty TNHH một
thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu bao gồm:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ của tổng
công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con;
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên độc lập do Nhà nước nắm
giữ 100% vốn điều lệ. (Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào
sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014).
Thứ ba, về quyền quyết định hoặc quyền chi phối đối với doanh nghiệp.
Khác với quy định của pháp luật trước đây, LDN năm 2014 thừa nhận sự
tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một doanh nghiệp. Điều này có
nghĩa các hình thức sở hữu khác nhau trong doanh nghiệp sẽ hoàn toàn bình
đẳng với nhau trên nguyên tắc của nền dân chủ cổ phần; dù là Nhà nước hay các
nhà đầu tư tư nhân nếu góp nhiều vốn thì có nhiều khả năng chi phối doanh
nghiệp. Theo cách hiểu thống nhất trong LDN năm 2014 về DNNN nêu trên thì
Nhà nước là nhà đầu tư duy nhất trong DNNN do đó, Nhà nước cũng là chủ thể


duy nhất nắm quyền quyết định và chi phối các vấn đề về tổ chức và quản lý
DNNN của riêng mình và không chia sẻ quyền lực đó cho cá nhân, tổ chức
khác.
Thứ tư, về tư cách pháp lý và trách nhiệm tài sản.
DNNN theo LDN năm 2014 cũng được coi là một tổ chức kinh tế có tư
cách pháp nhân, thực hiện hạch toán kinh doanh, lấy thu bù chi và phải đảm bảo
có lãi để tồn tại và phát triển. DNNN có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình (trách nhiệm

hữu hạn). Như vậy, DNNN độc lập cả về hai mặt kinh tế và pháp lý. Trong cơ
chế thị trường hiện nay, Nhà nước không chịu trách nhiệm thay cho doanh
nghiệp mà doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về số vốn mà
Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước khách hàng bằng
tài sản của doanh nghiệp.
Thứ năm, đặc điểm về hình thức tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Hình thức tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước là công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên, với một trong hai mô hình do cơ quan đại diện chủ sở
hữu quyết định tùy vào quy mô của công ty. Pháp luật quy định hai mô hình
gồm: Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kiểm soát viên; Hội
đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.

2. Những vấn đề tồn tại trong doanh nghiệp nhà nước.
Thứ nhất quyền tài sản không rõ ràng.
Mọi yếu kém của doanh nghiệp nhà nước đều bắt nguồn từ quan hệ quyền
tài sản không rõ ràng. Theo qui định của hiến pháp VN các doanh nghiệp này
thuộc sở hữu toàn dân, vì vậy phải được gọi là doanh nghiệp thuộc sở hữu toàn
dân mới chính xác.
Lập luận rằng nhà nước là người đại diện cho sở hữu toàn dân, từ năm 1991
các văn bản pháp luật nước ta đồng loạt chuyển tên gọi các xí nghiệp quốc


doanh thành doanh nghiệp nhà nước, hi vọng làm rõ người quản lý sở hữu toàn
dân là nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước cũng là một phạm trù rất trừu tượng,
người dân chỉ cảm nhận được nhà nước thông qua các cơ quan của nó, được
đại diện bởi những công chức cụ thể và các hành vi của họ. Bởi vậy, nếu giao
kết hợp đồng với doanh nghiệp nhà nước, người ta cần biết ai có thẩm quyền
kiểm soát những tài sản này.
Ví dụ: một đối tác nước ngoài muốn liên doanh với doanh nghiệp nhà nước cần
biết rõ những cơ quan nào có quyền quyết định liên quan đến việc góp quyền

sử dụng đất làm vốn thành lập doanh nghiệp liên doanh. Từ trung ương đến địa
phương, có rất nhiều cơ quan có thể can thiệp vào quá trình sử dụng nguồn vốn
này. Do rất nhiều cơ quan có quyền can dự vào việc sử dụng tài sản như vậy,
các giao dịch liên quan đến loại tài sản này cần được sự đồng thuận của họ –
một công việc tốn kém thời gian và tiền bạc. Chi phí giao dịch gia tăng, dẫn
đến các doanh nghiệp nhà nước phản ứng chậm chạp với thay đổi của thị
trường và kém tính cạnh tranh. Nếu lô đất góp vào liên doanh thuộc quyền tài
sản tư hữu, chủ tài sản có toàn quyền quyết định trong giây lát, song nếu lô đât
đó thuộc quyền sử dụng của một doanh nghiệp nhà nước, thì những trình tự
lập, trình, lấy ý kiến và xét duyệt dự án khi kéo dài hằng năm.
Thêm nữa, nếu hiểu nhà nước chỉ là một trong những thiết chế đa dạng của hệ
thống chính trị, thì tài sản nhà nước đã bắt đầu khác biệt với “sở hữu toàn dân”.
Khi các địa phương, từ cấp xã, huyện cho đến cấp tỉnh đều là những cấp hành
chính có ngân sách riêng, dần trở nên tự quản, thì tài sản quốc gia sẽ khác với
tài sản địa phương. Bộ luật dân sự VN cũng bắt đầu du nhập khái niệm “pháp
nhân công quyền”, theo đó các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, đoàn
thể cũng được hiểu là pháp nhân, có tài sản độc lập.
Dường như “sở hữu toàn dân” đang chuyển nhanh sang “tài sản nhà nước”, và
trong xu hướng tản quyền cho địa phương, “tài sản nhà nước” có xu thế được


phân chia thành “tài sản quốc gia” và “tài sản địa phương”.
Tương tự như vậy, sẽ xuất hiện những doanh nghiệp thuộc tài sản của các làng
xã, tỉnh hoặc quốc gia. Chúng đều giống nhau ở một điểm hoạt động vì lợi ích
công, do vậy có tên chung là doanh nghiệp công. Tuy nhiên, điều này còn rất
mơ hồ ở nước ta.
Vì tài sản không được định nghĩa rõ ràng, nhiêu cơ quan công quyền, ban
lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp, các ngân hàng cho vay, khách
hàng ai cũng tìm cách kiểm soát tài sản doanh nghiệp nhà nước trong khả năng
của mình. Sự mâu thuẫn về lợi ích của rất nhiều chủ thật, chủ hờ là không thể

tránh khỏi. Muốn cải cách doanh nghiệp nhà nước, phải bắt đầu từ việc minh
bạch hóa ai là chủ đích thực của loại doanh nghiệp này.
Thứ hai quyền tự chủ kinh doanh không rõ ràng.
Doanh nghiệp nhà nước gắn liền số phận của mình với “cơ quan chủ
quản”, thường là một bộ hoặc một ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã thành lập, đầu
tư vốn và quản lý doanh nghiệp trong quá trình hoạt động. Tài sản doanh
nghiệp thường không do vốn của ban lãnh đạo và công nhân viên hợp thành,
mà do cơ quan chủ quản cấp – một phần hoặc toàn bộ, do vậy cơ quan này
đương nhiên là chủ tài sản và doanh nghiệp được hiểu như một đơn vị kinh
doanh thuộc quyền giám sát của họ. Trong thời bao cấp, đơn vị kinh doanh có
các nghĩa vụ không khác một đơn vị hành chính phụ thuộc, tự lập báo cáo, triển
khai kế họach, chịu sự giám sát điều động nhân lực cho đến di chuyển tài sản.
Ngày nay, doanh nghiệp có được một sự tự chủ hơn, song từ việc bổ nhiệm các
nhân sự chủ chốt, cho đến kế hoạch kinh doanh, các dự án đầu tư… về cơ bản
vẫn do cơ quan chủ quản quyết định.
Cân bằng quyền lực một cách hợp lý giữa ban giám đốc doanh nghiêp và
cơ quan chủ quản sẽ còn là một mối lo lắng lâu dài ở nước ta. Nếu quyền lực
tập trung về cơ quan chủ quản, cơ quan nhà nước trở thành nơi quyết định kinh
doanh, còn doanh nghiệp chỉ là đơn vị thực thi. Nếu quyền lực rơi vào ban
giám đốc, khả năng các giám đốc lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân tăng


lên. Trong cả hai trường hợp lợi ích công cộng đều không được đáp ứng thỏa
đáng. Thực trạng cơ quan hành chính phải đảm đương nhiều chức năng kinh
doanh thay cho doanh nghiệp, không thể dành toàn bộ thời gian và nhân lực
cho các hoạt động điều tiết vĩ mô đang dẫn đến một thực trạng các doanh
nghiệp trở nên thụ động và các cơ quan hành chính thì phải làm những phần
việc không đúng với chức năng của mình. Đây là một di sản của cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, chưa thể xóa nổi trong thời gian chuyển đổi.Hơn nữa, khi
mà chế độ lương cho công chức còn quá thấp, thì những lợi ích kinh tế từ việc

quản lý khối doanh nghiệp phụ thuộc có khi trở nên cần thiết để nuôi sống
nhân lực của cơ quan chủ quản. Bởi vậy không một cơ quan nào tự nguyện từ
bỏ chức năng này. Các cục quản lý công sản được thành lập, rồi vội vã tái sáp
nhập và rút lui hoạt động của mình cuối những năm 90 cho thấy chủ trương
xóa bỏ cơ chế chủ quản không thể thực hiện được dễ dàng.

Thứ ba quan hệ đại diện không rõ ràng.
Trong thực tiễn, để cạnh tranh và tồn tại, các doanh nghiệp buộc phải tìm
mọi cách để huy động vốn và tổ chức kinh doanh có lãi, trước hết vì lợi ích của
cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp. So với vốn ban đầu do cơ quan chủ
quản cấp, tài sản của nhiều doanh nghiệp gia tăng nhanh chóng.
Ban lãnh đạo và người lao động trong doanh nghiệp đương nhiên phải tìm cách
bảo vệ lợi ích kinh tế của mình; ngày càng xuất hiện nhiều hơn yêu cầu tài sản
do doanh nghiệp quản lý là thuộc doanh nghiệp. Giành lấy sự tự do trong điều
hành, chế độ lương, phụ cấp, phúc lợi… trong các doanh nghiệp nhà nước tuy
cùng dựa trên một qui chế chung, song đã trở nên khá xa nhau.
Nhân viên ngành dầu khí, viễn thông hay hàng không co mức lương thu nhập
thực tế đương nhiên khác xa so với nhân viên của một công ty môi trường đô
thị. Phần vì bất lực, phần cũng vì thuận tiện trong thực tế, một cơ chế khoán
ngầm đã dần trở nên rất phổ biến: cơ quan chủ quản “giao khoán” cho doanh
nghiệp phải đạt những chỉ tiêu nhất định, ban giám đốc “giao khoán” cho các


bộ phận, phân xưởng, doanh nghiệp “giao khoán” cho các chi nhánh, chi nhánh
“giao khoán” cho nhân viên. Điều ngạc nhiên là pháp luật hiện hành về doanh
nghiệp nhà nước hoàn toàn không có qui định về hiện tượng này: không cho
phép mà cũng không cấm.
Một cơ chế như vậy có phần tích cực làm đa dạng hóa quyền kiểm soát tài
sản, phân bổ rủi ro và khuyến khích năng động trong kinh doanh, song cũng
dẫn đến những quan hệ đại diện không rõ ràng, bất lợi cho đối tác kinh doanh.

Khi giám đốc các chi nhánh xuất hiện như những đại diện được ủy quyền của
doanh nghiệp nhà nước, các đối tac thường không lường được những rắc rối về
pháp luật khi tranh chấp xảy ra.
Thêm nữa, cơ chế khoán có thể làm mất đi sức mạnh của toàn doanh
nghiệp. Như những người nông dân, từng đơn vị nhận khoán “canh tác” trên
mảnh đất của mình, đôi khi cạnh tranh và triệt tiêu lẫn nhau, làm mồi cho các
đối tác bên ngoài tận dụng để ép buộc trong kinh doanh.
Thực tế kinh doanh và xuất khẩu hải sản, kinh doanh du lịch và nhiều
ngành khác có thể cung cấp dẫn chứng cho một nhận xét như vậy. Khi cơ chế
quản lý trở nên xơ cứng, người VN tự phát tận dụng những tư duy kinh doanh
có sẵn, song cung cách kinh doanh này về cơ bản rất lạc hậu trước sự liên kết
ngày càng tinh vi của tư bản nước ngoài.
Thứ tư những lực cản của cơ chế cũ.
Việt Nam đang còn là một nước chuyển đổi. Cơ chế kế hoạch hóa tập
trung đã để lại những di sản nặng nề trong nếp nghĩ của cán bộ quản lý và nhân
viên người VN. Nếu không đẩy lùi, nếp nghĩ này tạo ra một lực cản đáng kể
đối với tăng trưởng kinh tế. Không góp vốn trong công ty, có mức lương không
gắn liền với hiệu quả kinh doanh, không chịu trách nhiệm vật chất trực tiếp cho
công việc quản lý của mình, không hiếm khi các giám đốc thường lo toan giữ
quan hệ thật mật thiết với các cơ quan chủ quản để bảo vệ chức vụ của mình
hơn là dành toàn tâm lực vì lợi ích doanh nghiệp. Xuất phát từ tâm lý dựa dẫm
vào nhà nước, những người trẻ tuổi ở nước ta vẫn mong ước được làm việc tại
doanh nghiệp nha nước hơn là làm việc cho tư nhân. Trong một xã hội mà các


thiết chế an sinh xã hội còn rất sơ khai, mất việc làm đồng nghĩa với mất nguồn
sống và chỗ đứng trong xã hội. Lo sợ mất việc làm, người lao động có thể trở
thành một lực cản quan trọng đối với các chương trình cải cách doanh nghiệp
nhà nước. Thêm nữa, chính sách lương bình quân được áp dụng trong nhiều
năm không khuyến khích nhân tài và cải tiến kỹ thuật, không tạo ra trách

nhiệm cua người lao động với chất lượng sản phẩm.
Hơn một thập niên cải cách doanh nghiệp nhà nước dường như chưa tạo
ra được một đội ngũ người lao động tự chịu trách nhiệm, tự đào tạo, có kỷ luật
và gắn trách nhiệm cũng như cuộc đời của mình đối với doanh nghiệp.
Thứ năm việc giám sát đánh giá hiệu quả hoạt động sử dụng vốn của doanh
nghiệp nhà nước.
Qua thực tế thực hiện cho thấy các quy định hiện hành về giám sát, đánh
giá hiệu quả hoạt động, sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước còn bất cập,
chưa thực sự tạo cơ chế hiệu quả để kịp thời phát hiện, cảnh báo cho chủ sở hữu
doanh nghiệp về những nguy cơ, dấu hiệu rủi ro về tài chính.
Sự cứng nhắc về cơ cấu vốn đôi khi gây khó khăn cho doanh nghiệp nhà
nước trong việc phát triển và hoàn thành các mục tiêu doanh nghiệp. Nhà nước
với tư cách là chủ sở hữu cần xây dựng một chính sách tổng thể và tạo cơ chế
cho phép thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp nhà nước một cách thích hợp.
Với chức năng là chủ sở hữu, các cơ chế này bao gồm khả năng điều
chỉnh cơ cấu vốn của doanh nghiệp nhà nước linh hoạt nhưng trong giới hạn rõ
ràng. Trong chừng mực nhất định, điều này có thể tạo điều kiện thuận lợi cho
việc chuyển vốn không trực tiếp giữa các doanh nghiệp nhà nước, ví dụ thông
qua hình thức tái đầu tư nguồn vốn nhận được hoặc tăng vốn theo các điều kiện
của thị trường tự do.hính sách quản lý và giám sát vốn nhà nước phải cho phép
doanh nghiệp nhà nước linh hoạt trong thay đổi cơ cấu vốn khi việc này là cần
thiết để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp


Nhà nước thường bảo lãnh cho doanh nghiệp nhà nước để bù đắp cho việc
nhà nước không thể cung cấp đủ vốn chủ sở hữu cho doanh nghiệp, nhưng điều
kiện thuận lợi này thường bị lạm dụng. Nguyên tắc chung là nhà nước không
được tự động bảo lãnh các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước. Do đó cần
phân định rõ trách nhiệm liên quan tới chủ nợ của nhà nước và của doanh nghiệp
nhà nước. Các vấn đề liên quan tới công bố thông tin và chi phí cho bảo lãnh của

nhà nước cần được xây dựng và doanh nghiệp nhà nước phải được khuyến
khích tìm kiếm nguồn tài chính từ thị trường vốn.
Các cơ chế giải quyết xung đột lợi ích và đảm bảo doanh nghiệp nhà nước
xây dựng quan hệ với các ngân hàng quốc doanh, tổ chức tài chính và các doanh
nghiệp nhà nước khác dựa trên cơ sở thương mại thuần túy. Ngân hàng quốc
doanh phải cho doanh nghiệp nhà nước vay với các điều khoản và điều kiện
giống như đối với công ty tư nhân. Cơ chế này cũng có thể bao gồm việc hạn
chế và giám sát chặt chẽ những người vừa là thành viên của doanh nghiệp nhà
nước vừa là thành viên của ngân hàng quốc doanh.
3. Kiến nghị và giải pháp để khắc phục nhưng hạn chế.
Thứ nhất, phải có định nghĩa rõ ràng về tài sản của doanh nghiệp nhà
nước. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân liệu tài sản của nhà nước cụ thể ở
đây là tài sản của doanh nghiệp nhà nước có phải của dân không. Nếu như cách
hiểu hiện hành đúng là như vậy và nó sẽ tạo ra các vấn đề chòng chéo trong
vấn đề xác định ai là chủ thực sự của doanh nghiệp nhà nước. Giải pháp ở đây
là cần phải quy định rõ chủ của doanh nghiệp là nhà nước, tài sản của doanh
nghiệp nhà nước là do nhà nước sở hữu nhằm tạo ra lợi nhuận trong sản xuất
kinh doanh, lấy lợi nhuận đó phục vụ cho đất nước, lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, phải có hành lang pháp lý tạo sự thông thoáng trong sự tự do vận
hành, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Hạn chế sự kiểm soát từ cơ quan
chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước. Để đạt được yêu cầu như vậy thì yếu
tố con người đóng vai trò quyết định, cần phải đạo tạo đội ngũ quản lý doanh
nghiệp nhà nước có đạo đức, có tâm, có tầm, tránh xa sự thoái hóa của đạo đức


thì mới đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước được, bên cạnh
đó nhà nước cũng yên tâm mở rộng cơ chế quản lý của cơ quan chủ quản đối
với doanh nghiệp được quản lý. Tạo lực đẩy tự do phát triển cho doanh nghiệp
nhà nước.
Thứ ba, Cần phải tháo gỡ những cơ chế quản lý mang tính bao cấp, đẩy

mạnh tự chịu trách nhiệm, tự giác thực hiện của người đứng đầu doanh nghiệp
nhà nước, đào tạo nguồn nhân lực có tư duy mới, sáng tạo và hội nhập với thế
giới trong quản lý doanh nghiệp nhà nước. Bỏ ngay suy nghĩ về quan hệ để
yên vị, dựa dẫm vào nhà nước để duy trì sự ổn định của doanh nghiệp. Như vậy
sẽ tạo ra sự trì trệ trong hoạt động kinh doanh, không có sự phát triển tự do,
cẩu thả trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư, việc kiểm tra, rà soát đánh giá hoạt động của doanh nghiệp (bao
gồm các dự án đầu tư của doanh nghiệp) được thực hiện thông qua cơ chế quản
lý tài chính và cơ chế giám sát tài chính đối với doanh nghiệp.
Căn cứ kết quả giám sát, kiểm tra, thanh tra theo các nội dung nêu trên, cơ
quan đại diện chủ sở hữu có quyền và trách nhiệm: Cảnh báo, xử lý kịp thời vấn
đề phát sinh; Yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đầy đủ, kịp thời các kiến nghị,
cảnh báo; Xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo thẩm quyền đối với người quản lý
doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước có hành vi vi
phạm về đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp...
Bên cạnh đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện kiểm tra, thanh tra hoạt
động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Với vai trò quản lý nhà nước nói chung, Bộ Tài chính có trách nhiệm phối
hợp với Bộ ngành có liên quan thực hiện giám sát theo chuyên đề đối với các
doanh nghiệp thuộc diện giám sát đặc biệt; Trực tiếp giám sát doanh nghiệp theo
yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Thực hiện thanh tra, kiểm tra
theo chức năng được phân công, từ đó kiến nghị, đề xuất giải pháp về hoạt động


đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc
và báo cáo Chính phủ.
Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành nêu trên, các cơ quan Thanh
tra Chính phủ, Thanh tra Tài chính, Thanh tra Thuế, Kiểm toán nhà nước... lập
kế hoạch và tiến hành thanh, kiểm tra các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sử

dụng vốn ngân sách nhà nước hàng năm nhằm phát hiện và xử lý nghiêm các
hành vi làm thất thoát, lãng phí, tham nhũng, kịp thời thực hiện các biện pháp
ngăn chặn nguy cơ mất an toàn về quản lý vốn, tài sản tại doanh nghiệp theo quy
định của Luật số 69/2014/QH13.


KẾT LUẬN
Như vậy bằng những quy định của pháp luật về doanh nghiệp nhà nước
giúp chúng ta phần nào hình dung ra được vai trò của nó trong đời sống xã hội.
Pháp luật hiện hành đã quy định khá cụ thể về doanh nghiệp nhà nước. Tuy vậy,
những quy định này vẫn còn những hạn chế nhất định dẫn đến một số khó khăn
nhất định trong việc áp dụng pháp luật. Do vậy, cần hoàn thiện hơn nữa các quy
định về vấn đề này.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình luật thương mại tập 1 – trường Đại học luật Hà Nội – NXB

Công an nhân dân.
2.

Luật doanh nghiệp 2014 – NXB Lao Động.

3.

Luật doanh nghiệp 2005 – NXB Lao Động.

4.


Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính phủ về đầu

tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh
nghiệp.
5.

Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy

định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp 2014.



×