Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TIẾN ĐẠT

TRƢỜNG HỢP HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TIẾN ĐẠT

TRƢỜNG HỢP HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 8380101.06

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS.Nguyễn Tiến Vinh

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các thông tin sử dụng phân tích trong Luận văn có nguồn gốc rõ
ràng, đã được công bố theo đúng quy định.
Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một
cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết
quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Học viên

Nguyễn Tiến Đạt


LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô trong Bộ môn Luật quốc tế - Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện để em có thể thực hiện Luận
văn này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới thầy Nguyễn
Tiến Vinh, người trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình triển khai Luận
văn. Thầy đã đưa ra những góp ý vô cùng chi tiết và xác đáng từ giai đoạn lên
ý tưởng đến hoàn thiện để em có thể thực hiện đề tài một cách tốt nhất.
Học viên

Nguyễn Tiến Đạt


BẢNG THUẬT NGỮ VIẾT TẮT THƢỜNG DÙNG

STT
1


Thuật ngữ
Công ước Viên về Hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế năm 1980
Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về

2

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
năm 2016

3

Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng chung
Châu Âu năm 2002

Chữ viết tắt
CISG
PICC (Các phiên bản về trước
của Bộ nguyên tắc sẽ được
đánh kèm số năm hoặc đề cập
cụ thể trong Luận văn)
PECL


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN NHƢ MỘT RỦI RO
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ....................... 6
1.1. Tính chất tiềm ẩn rủi ro của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ...... 6

1.2. Khái lƣợc chung về trƣờng hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản ............ 8
1.3. Ứng xử của các chủ thể khi xảy ra hoàn cảnh thay đổi cơ bản ..... 13
1.3.1. Sự cần thiết một giải pháp hạn chế, khắc phục hậu quả do hoàn
cảnh thay đổi cơ bản................................................................................ 13
1.3.2. Hai phương hướng giải quyết trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ
bản ........................................................................................................... 13
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN TRƢỜNG HỢP HOÀN
CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN ....................................................................... 24
2.1. Quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong hệ thống pháp luật
quốc gia ....................................................................................................... 24
2.1.1. Pháp luật tại Pháp ......................................................................... 24
2.1.2. Pháp luật tại Đức........................................................................... 33
2.1.3. Pháp luật tại Anh ........................................................................... 43
2.2. Quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong pháp luật quốc tế .. 50
2.2.1. Công ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .............. 50
2.2.2. Bộ nguyên tắc Hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT và
Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng chung Châu Âu ........................................ 59


CHƢƠNG 3: CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI TRƢỜNG HỢP HOÀN
CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN TẠI VIỆT NAM .......................................... 73
3.1. Sự manh nha của các quy định liên quan tới hoàn cảnh thay đổi cơ bản . 73
3.2. Quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong Bộ luật Dân sự 2015 ... 76
3.2.1. Triết lý xây dựng quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản ............ 76
3.2.2. Nội dung quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản ......................... 80
3.3. Tình hình thực tế liên quan tới hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi thực
hiện hợp đồng tại Việt Nam ...................................................................... 91
3.4. Một số kiến nghị đối với Việt Nam ................................................... 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98



MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một trong những quốc gia đang đẩy mạnh tiến trình hội
nhập kinh tế toàn cầu. Với việc đất nước tham gia một loạt các hiệp định
thương mại tự do và điều ước quốc tế liên quan khác, các doanh nghiệp ở Việt
Nam có rất nhiều cơ hội xây dựng quan hệ kinh doanh với đối tác nước ngoài.
Đặc biệt, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế ngày càng phát triển và giữ
một vị trí vô cùng quan trọng.
Bên cạnh những lợi ích của hoạt động này, không thể không nhắc đến
những rủi ro luôn hiện hữu. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, sự xuất hiện của những hoàn cảnh không thể dự liệu trước
là một vấn đề cần lưu tâm đối với các bên tham gia hợp đồng. Những hoàn
cảnh này có thể làm biến đổi tính cân bằng về quyền và nghĩa vụ đã thỏa
thuận, và trong một số trường hợp dẫn tới thiệt hại nặng nề cho một bên nếu
hợp đồng tiếp tục được thực hiện mà không có sự điều chỉnh.
Thực hiện hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản (hay
còn gọi là hoàn cảnh hardship) là chế định pháp luật được xây dựng nhằm hạn
chế, khắc phục những rủi ro đã nêu trong hoạt động thương mại. Dù vẫn đang
có những tranh luận về tính hợp lý của chế định này, nó đã xuất hiện trong hệ
thống pháp luật rất nhiều quốc gia cũng như thực tiễn thương mại quốc tế.
Tại Việt Nam, các quy định liên quan tới thực hiện hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi được manh nha tại một số đạo luật chuyên ngành như Luật
Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Luật Đấu thầu năm 2005. Tuy nhiên, đạo
luật gốc là Bộ luật Dân sự năm 2005 lại không đề cập tới vấn đề này. Điều
này trên thực tế đã gây khó khăn trong hoạt động thực tiễn của các doanh
nghiệp trong đàm phán và thực thi các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Sự thiếu vắng này phần nào đã được khắc phục khi Bộ luật Dân sự năm


1


2015 ra đời. Lần đầu tiên những quy định liên quan tới hardship được thể hiện rõ
ràng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, chúng vẫn để lại những dấu
hỏi lớn về khía cạnh lý thuyết cũng như khả năng vận dụng trong thực tiễn.
Vì vậy, việc nghiên cứu cụ thể về vấn đề thực hiện hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi cơ bản trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cần thiết.
Thứ nhất, hoạt động này đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện pháp luật. Thứ hai, nó giúp các doanh nghiệp Việt Nam hạn chế
những rủi ro không đáng có khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế, nhất
là khi Việt Nam vừa trở thành thành viên của Công ước Viên về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế và mở ra rất nhiều những cơ hội trước mắt.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan tới vấn đề thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế. Từ đó, tìm ra những điểm còn hạn chế trong
những quy định của pháp luật Việt Nam và đề xuất phương án khắc phục.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể.
Để đạt được mục tiêu tổng quát, các mục tiêu cụ thể của Luận văn bao gồm:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan tới thực hiện hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi cơ bản: Định nghĩa, điều kiện để một hoàn cảnh được coi
là thay đổi cơ bản, hậu quả pháp lý của hoàn cảnh thay đổi cơ bản, cách thức
ghi nhận và vận dụng những quy định liên quan tới hardship trong pháp luật
quốc tế và một số quốc gia tiêu biểu.
- Phân tích một số án lệ có liên quan để tìm ra các vấn đề pháp lý cần lưu ý.
- Phân tích các quy định liên quan tới thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh
thay đổi cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam:

- Đưa ra được giải pháp khắc phục những hạn chế trong quy định của
pháp luật.

2


1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Về tính mới: Đề tài tập trung vào vấn đề hoàn cảnh thay đổi cơ bản
trong phạm vi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thay vì tất cả các loại quan
hệ hợp đồng nói chung. Cách tiếp cận của đề tài là ngoài việc kế thừa những
công trình của học giả đi trước còn kết hợp với phân tích một số án lệ, vụ việc
nổi tiếng trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế mà nội dung của tranh
chấp có liên quan tới hardship. Đề tài cũng lựa chọn phân tích Điều 420 Bộ
luật dân sự Việt Nam 2015, đây là quy định mới và cần nghiên cứu cụ thể.
Về những đóng góp của đề tài: Thứ nhất, tổng hợp hoàn thiện cơ sở lý
luận của việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Thứ hai, đưa ra một số góp ý cá nhân về
pháp luật của Việt Nam liên quan tới vấn đề này.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu vấn đề thực hiện hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi cơ bản trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dưới các hình thức:
học thuyết của các học giả, các quy định của pháp luật và thực tiễn thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu đối tượng trên thông qua các
công trình đã được công bố trong nước và quốc tế, các công ước quốc tế, luật
mẫu trong lĩnh vực thương mại (Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế các phiên bản từ 1994 đến 2016, Công ước Viên về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980, Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng
chung Châu Âu năm 2002), pháp luật của một số quốc gia tiêu biểu thuộc các
hệ thống pháp luật khác nhau (Anh, Đức, Pháp) và đặc biệt là pháp luật Việt
Nam (chủ yếu xung quanh các đạo luật về dân sự và thương mại).

1.5. Tình hình nghiên cứu.
Tại Việt Nam, rất nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu chuyên sâu đề
tài hợp đồng nói chung và thực hiện hợp đồng nói riêng, một số công trình
tiêu biểu bao gồm:

3


1. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật hợp đồng phần chung, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Đỗ Văn Đại (2017), Luật hợp đồng Việt Nam: bản án và bình luận
bản án, Nhà Xuất Bản Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam, Hà Nội.
3. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nhà xuất bản
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4. Ngô Thị Kiều Trang (2014), Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
theo pháp Luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ ngành Luật kinh tế, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội.
Riêng đối với vấn đề thực hiện hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh
thay đổi cơ bản, đã có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành đóng góp
những ý tưởng mới, có thể kể kến bao gồm:
1. Lê Minh Hùng (2009), Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh
thay đổi trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Số 6 tháng 3, tr.41- 51.
2. Nguyễn Minh Hằng - Trần Thị Giang Thu (2016), Đề xuất diễn giải
và áp dụng điều 420 Bộ luật dân sự năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi cơ bản, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, Số 86/2016, tr.1-12.
3. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), Bảo đảm tự do hợp đồng trong tình
huống “hoàn cảnh thay đổi cơ bản”, Tạp chí Luật học, Số 10/2018, tr.52 -62.
Những bài viết nêu đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện pháp luật. Mặc dù đều tiếp cận hoàn cảnh hardship dưới góc nhìn
so sánh nhưng các công trình mới dừng lại ở mức độ khái quát, chưa đi vào

nghiên cứu cụ thể. Đồng thời, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu
vấn đề trên trong phạm vi các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, trong khi
hiện nay đây là loại giao dịch phổ biến của các doanh nghiệp Việt Nam.

4


1.6 .Phƣơng pháp nghiên cứu
1.6.1. Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: người viết tiến hành thu thập các
thông tin liên quan đến đề tài. Cụ thể bao gồm các công trình nghiên cứu
trước đó, các quy định của pháp luật, các án lệ. Thông qua quá trình tổng hợp,
người viết chủ động phân tích, đưa ra những ý kiến và quan điểm cá nhân về
đề tài. Phương pháp được sử dụng chủ yếu trong toàn bộ Luận văn.
- Phương pháp thực nghiệm, quan sát: người viết thông qua kinh nghiệm làm
việc và quan sát thực tiễn để đưa ra những nhận định liên quan tới đề tài. Phương
pháp được sử dụng chủ yếu tại Chương 3 của Luận văn liên quan tới thực tiễn xét xử.
1.6.2. Phương pháp suy luận
- Phương pháp so sánh: người viết chọn ra các quốc gia tiêu biểu, thuộc
các hệ thống pháp luật khác nhau và có cách tiếp cận khác nhau đối với
trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, sau đó tiến hành phân tích quy định
pháp luật và thực tiễn áp dụng tại những quốc gia này. Đồng thời, người viết
đối chiếu để chỉ ra những điểm giống và khác biệt trong quan niệm về
hardship để từ đó đúc kết những ưu, nhược điểm trong việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Phương pháp được sử dụng chủ yếu ở
Chương 2 và Chương 3 của Luận văn.
- Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: đối với từng hệ thống pháp
luật được lựa chọn, người viết đi vào nghiên cứu mối quan hệ giữa thực tiễn
và nhu cầu của việc xây dựng quy định pháp luật liên quan tới hoàn cảnh thay
đổi cơ bản. Mối quan hệ này được nhìn nhận theo chiều dài lịch sử để tìm ra

bản chất, quy luật vận động và phát triển. Đây là phương pháp được sử dụng
chủ yếu ở Chương 2 và Chương 3 của Luận văn.
- Phương pháp thống kê: người viết dựa trên những số liệu thu thập được
để đưa ra những nhận định liên quan tới đề tài. Đây là phương pháp được sử
dụng chủ yếu ở Chương 3 của Luận văn.

5


CHƢƠNG 1. HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN NHƢ MỘT RỦI RO
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.1. Tính chất tiềm ẩn rủi ro của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trước tiên, phải khẳng định luật pháp quốc tế không có một định nghĩa
thống nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Khoản 1 Điều 1 Công ước
Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
quan niệm một hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế khi được
giao kết giữa các bên có trụ sở thương mại khác nhau [51, Điều 1]. Bộ nguyên
tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế năm 2016 cũng khẳng
định tính chất quốc tế của hợp đồng có thể được xem xét theo nhiều khía cạnh
(theo trụ sở của chủ thể giao kết, theo luật lựa chọn…). Tuy nhiên, PICC tiếp
cận theo hướng phổ quát nhất, tức là các hợp đồng đều được coi là có tính
quốc tế, trừ trường hợp tất cả các yếu tố của nó chỉ liên quan tới một quốc gia
[55, Lời mở đầu].
Tại Việt Nam, các quy định liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế có thể tìm thấy trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật thương mại
năm 2005.
Liên quan đến việc định danh bản chất hợp đồng, Điều 430 Bộ luật Dân
sự 2015 đưa ra một định nghĩa chung cho hợp đồng mua bán, theo đó “Hợp
đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển
quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.” (Cần

lưu ý thêm định nghĩa “hàng hóa” không được Bộ luật Dân sự trực tiếp đề cập
mà chỉ được mô tả trong Luật Thương mại như một tập hợp tài sản cụ thể
[40]). Luật thương mại 2005 quy định “Mua bán hàng hoá là hoạt động
thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán

6


cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.” Nhìn
chung, về bản chất hợp đồng, không có sự khác biệt giữa các quy định của
pháp luật dân sự và thương mại.
Liên quan đến tính quốc tế của hợp đồng, tại Điều 663, theo Bộ luật Dân
sự 2015, một quan hệ dân sự được xem là có yếu tố nước ngoài nếu đáp ứng
một trong các yếu tố sau:
- Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
- Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại
nước ngoài;
- Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài. [37, Điều 663]
Điều này đồng nghĩa với việc một Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
theo Bộ luật Dân sự có thể xác định dựa trên yếu tố về chủ thể, loại hàng hóa
là đối tượng của hợp đồng, việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt
hợp đồng.
Luật thương mại không ra định nghĩa cụ thể cho hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế mà chỉ mô tả hình thức thực hiện hoạt động mua bán hàng
hóa quốc tế “Mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các hình thức
xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.”
[40, Điều 27] Các quy định liên quan tới xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái

xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu cho thấy việc nhìn nhận tính quốc tế
của hoạt động mua bán hàng hóa theo luật thương mại được thể hiện thông
qua việc chuyển dịch hàng hóa qua phạm vi lãnh thổ của các quốc gia [40,
Điều 28-30].
Như vậy, trên cả bình diện luật pháp quốc tế lẫn Việt Nam, hợp đồng
thương mại quốc tế nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường

7


được nhìn nhận qua những điểm đặc thù liên quan tới chủ thể giao kết, đối
tượng hợp đồng, phạm vi thực hiện hợp đồng.... Chính những đặc điểm này
dẫn tới những vấn đề liên quan tới giá trị hợp đồng, luật điều chỉnh hợp đồng
hay phương thức giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
Nhìn chung, với tính chất đặc trưng về đối tượng là hàng hóa và việc
chuyển giao hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có một số điểm
cần đặc biệt lưu ý như sau:
(1) Việc thực hiện hợp đồng thường diễn ra trên phạm vi hai hoặc nhiều
quốc gia bởi luôn có sự chuyển giao thực tế hàng hóa từ địa phận quốc gia
này đến quốc gia khác.
(2) Thời gian thực hiện hợp đồng tương đối dài do tác động của khoảng
cách địa lý. Tùy theo nhu cầu của người mua và người bán, quãng đường di
chuyển của hàng hóa có thể lên tới nửa bán cầu.
(3) Các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường có giá trị lớn, do
phải gánh chịu nhiều loại chi phí phát sinh (chi phí vận chuyển, thuế quan, và
các chi phí khác…)
Những điểm đặc thù nói trên của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
khiến quá trình giao kết và thực hiện loại hợp đồng này phức tạp hơn so với
hợp đồng thông thường. Sự kéo dài về thời gian cũng như cách biệt địa lý tạo
nên rủi ro khi các tác động của tự nhiên và đời sống kinh tế, chính trị có thể

tác động vào hợp đồng, bóp méo kì vọng của các bên tại thời điểm giao kết.
Đây là lý do mà trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi thực hiện hợp
đồng là một trong những rủi ro phổ biến thường được xem xét trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
1.2. Khái lƣợc chung về trƣờng hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Việc đưa ra một định nghĩa chính xác cho trường hợp hoàn cảnh thay đổi
cơ bản tương đối khó khăn. Bản thân cách tiếp cận đối với vấn đề này cũng có

8


sự khác biệt giữa các quốc gia [10]. Ở Pháp, những loại trường hợp này được
gói gọn trong học thuyết “Imprévision”. Tại Đức, người ta sử dụng thuật ngữ
“Wegfall der Geschäftsgrundlage”. Một số quốc gia thuộc hệ thống thông luật
lại coi sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản là một phần của học thuyết về sự thất bại
“frustration” [35, p.5, p.7, p.12]. Thuật ngữ “hardship” được sử dụng trong bản
tiếng Pháp của Bộ nguyên tắc UNIDROIT đã được chấp nhận rộng rãi trong
thực tiễn thương mại quốc tế [5, tr.41].
Dưới góc độ là một rủi ro trong giao dịch mua bán hàng hóa, hardship
cấu tạo bởi hai thành tố:
(1) Sự thay đổi hoàn cảnh tác động đến việc thực hiện hợp đồng đã giao
kết giữa các bên.
Sự thay đổi hoàn cảnh hoặc phát sinh từ tự nhiên (hỏa hoạn, dịch bệnh,
bão, lũ lụt, hạn hán) hoặc là yếu tố nhân tạo (thay đổi chính sách pháp luật,
chiến tranh, biến động thị trường…). Chưa tính đến tác động là tính cực hay
tiêu cực, khi sự thay đổi hoàn cảnh này xảy ra, hệ quả của nó là việc thực hiện
hợp đồng giữa các bên không còn đúng với những dự định ban đầu. Thông
thường, sự thay đổi hoàn cảnh này phải đáp ứng các điều kiện:
Tính không thể lường trước: tức là tại thời điểm giao kết hợp đồng, dù
nỗ lực dự phòng những rủi ro, các bên không thể dự liệu về việc hoàn cảnh

thực hiện hợp đồng sẽ thay đổi. Nếu họ lường trước được một hoặc một số trở
ngại trong tương lai, tác động của trở ngại lên hợp đồng không được cân nhắc
bởi lúc này các bên hoàn toàn có đầy đủ cơ sở để tìm ra biện pháp ứng phó,
khắc phục.
Ví dụ: A (bên bán) và B (bên mua) giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong hợp đồng có điều khoản A phải vận chuyển hàng hóa từ nước mình
(Nhật Bản) sang trụ sở của bên mua (Mỹ). Theo hợp đồng, A có nghĩa vụ

9


chuyển giao hàng cho B trong vòng 3 ngày. Tuy nhiên, trong quá trình vận
chuyển có một cơn bão xảy ra khiến thời gian và chi phí vận chuyển tăng
mạnh. Vụ việc này chỉ được coi là có dấu hiệu của hardship nếu sự xuất hiện
của cơn bão không được dự báo trước bởi các cơ quan khí tượng, hoặc A và
B không thể biết tới những dự báo đó một cách hợp lý. Bởi về nguyên tắc, nếu
đã biết quá trình vận chuyển bị tác động bởi một cơn bão, A và B sẽ thiết lập
các điều khoản khác đi trong hợp đồng (lựa chọn thời điểm giao hàng khác,
lựa chọn tuyến giao hàng khác hoặc thay đổi các chi phí trong hợp đồng).
Tính khách quan: sự kiện dẫn tới thay đổi hoàn cảnh cơ bản phải độc lập
với hành vi của các chủ thể tham gia giao dịch. Bởi nếu việc thực hiện hợp
đồng bị tác động bởi hành vi của một trong các bên, yếu tố lỗi sẽ được xem
xét và nhiều khi bên gây ra sự thay đổi phải bị áp dụng trách nhiệm bồi
thường hợp đồng cho sự kiện mà họ gây ra.
(2) Hệ quả của sự thay đổi hoàn cảnh lên giao dịch
Khi hardship xảy ra, việc thực hiện hợp đồng của các bên thay đổi so với
những dự tính ban đầu. Quan niệm về mức độ thay đổi không hoàn toàn
tương đồng giữa các hệ thống pháp luật. Theo PICC, hardship gây mất cân
bằng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Cụ thể, văn bản này
giải thích sự mất cân bằng là việc hoặc chi phí thực hiện nghĩa vụ của một bên

gia tăng đáng kể, hoặc những lợi ích nhận được khi thực hiện nghĩa vụ của
một bên giảm xuống đáng kể [55, Điều 6.2.2]. Cách tiếp cận này cũng được
thừa nhận tại Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng chung Châu Âu [56, Khoản 1
Điều 6:111]. Bộ luật Dân sự Pháp chỉ chấp nhận khía cạnh gia tăng gánh nặng
của nghĩa vụ của một bên [49, Điều 1195]
Điều 1195 Bộ luật Dân Sự Pháp quy định như sau:
“ Nếu một sự thay đổi hoàn cảnh xảy ra thỏa mãn các điều kiện:

10


- Không thể được lường trước tại thời điểm giao kết hợp đồng,
- Khiến cho viêc thực hiện hợp đồng trở nên nặng nề hơn đối với một bên
- Bên bị thiệt hại không minh thị việc đồng ý gánh chịu rủi ro do sự thay
đổi hoàn cảnh này mang lại.
Thì bên bị thiệt hại đó có quyền đề nghị các bên còn lại đàm phán lại
hợp đồng, đồng thời vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình trong quá
trình đàm phán lại.
Trong trường hợp yêu cầu đàm phán lại bị từ chối hoặc việc đàm phán
thất bại, các bên có thể đồng thuận việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn
với những điều kiện do họ xác định, hoặc đề nghị tòa án giải quyết. Trong
trường hợp không có sự đồng thuận trong một khoảng thời gian hợp lý, tòa
án, theo yêu cầu của một bên, chỉnh sửa lại hợp đồng hoặc chấm dứt nó, theo
thời gian và điều kiện do tòa xác định.”
Một số quốc gia khác như Đức, trừu tượng hơn, coi hardship là trường
hợp mà một sự thay đổi bất ngờ trong hoàn cảnh thực hiện hợp đồng dẫn tới
nền tảng giao dịch bị tiêu biến [50, Điều 313]. Điểm chung thường được thừa
nhận là dù hậu quả xảy đến như thế nào, nghĩa vụ ban đầu tồn tại trong hợp
đồng giữa các bên vẫn hoàn toàn khả thi. Đây cũng là khác biệt cố hữu để so
sánh trường hợp hardship và force majeure – trường hợp bất khả kháng.


11


Bảng 1. SO SÁNH CƠ BẢN GIỮA HARDSHIP VÀ FORCE MAJEURE.
Tiêu chí
Nguyên nhân

Hardship

Force Majeure

Sự xuất hiện của một sự kiện khách quan, không thể
lường trước. Sự kiện này hoặc từ tự nhiên hoặc do yếu tố
con người gây nên.

Hậu quả tác động Nghĩa vụ vẫn khả thi, tuy Nghĩa vụ trở nên bất khả thi
lên nghĩa vụ

nhiên việc thực hiện nghĩa trong một khoảng thời gian
vụ không còn như dự tính nhất định hoặc mãi mãi.
của các bên tại thời điểm
giao kết hợp đồng.
Việc biến đổi này có thể thể
hiện dưới nhiều dạng thức
khác nhau, ví dụ như chi
phí thực hiện gia tăng, lợi
ích vật chất khi thực hiện
nghĩa vụ giảm xuống, mục
đích của một bên khi thực

hiện nghĩa vụ không còn
tồn tại… Tuy nhiên, mẫu số
chung trong trường hợp này
là nghĩa vụ không trở nên
bất khả thi và vẫn có thể
thực hiện bằng cách này
hay cách khác

Trong phạm vi Luận văn này, thuật ngữ “Hoàn cảnh hardship” hoặc
“hardship” được sử dụng để dẫn chiếu tới trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ
bản dưới tư cách là một rủi ro trong giao dịch thương mại với đặc tính được

12


mô tả một cách tổng quan tại mục 1.2. Thuật ngữ “Điều khoản hardship”
được sử dụng để dẫn chiếu tới những điều khoản trong hợp đồng nhằm ứng
biến với các trường hợp nêu trên. Thuật ngữ “Quy định hardship” được sử
dụng để dẫn chiếu tới các quy định trong hệ thống pháp luật quốc gia hoặc
quốc tế điều chỉnh hành xử của các bên liên quan tới trường hợp hoàn cảnh
thay đổi cơ bản.
1.3. Ứng xử của các chủ thể khi xảy ra hoàn cảnh thay đổi cơ bản
1.3.1. Sự cần thiết một giải pháp hạn chế, khắc phục hậu quả do hoàn cảnh
thay đổi cơ bản
Khi Hoàn cảnh hardship xảy ra, một trong các bên có thể phải gánh
chịu thiệt hại nghiêm trọng trọng nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng như đã thỏa
thuận, đã giao kết. Thiệt hại này thể hiện dưới dạng vật chất hoặc phi vật chất
và được xác định trong hoàn cảnh cụ thể. Điểm quan trọng là chúng tác động
không nhỏ vào kì vọng của các bên khi tham gia hợp đồng, biến hợp đồng từ
một công cụ vốn được quan niệm giúp phòng ngừa rủi ro [7, tr.50] lại mang

lại bất lợi cho người tham gia. Ví dụ như sự trượt giá của đồng tiền có thể
khiến bên bán mất đi một khoản lợi, hay một chính sách hạn chế lưu thông
hàng hóa trên thị trường của nhà nước có thể khiến việc nhập về một lượng
lớn sản phẩm của bên mua trở nên vô ích.
Chính vì vậy, Hoàn cảnh hardship là một trong những rủi ro hàng đầu
mà các chủ thể tiến hành giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế không muốn
gặp phải. Việc tìm ra biện pháp xử lý loại rủi ro này chắc chắn là một nhu cầu
phát sinh tất yếu từ đời sống thương mại.
1.3.2. Hai phương hướng giải quyết trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản
a. Chủ động loại trừ những rủi ro ngay từ thời điểm giao kết hợp đồng
“Phòng bệnh hơn chữa bệnh” là một câu châm ngôn phổ biến của
người Việt Nam nhằm truyền bá kinh nghiệm trong việc đương đầu với bệnh

13


tật. Tuy nhiên nó thường được áp dụng rộng rãi, kể cả cho những vấn đề
không liên quan tới sức khỏe. Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, xu
hướng chủ động dự liệu và chuẩn bị phương án đối đầu với rủi ro luôn mang
lại hiệu quả cho các bên khi tham gia một giao dịch. Nó loại bỏ cảm giác thụ
động khi nghịch cảnh xảy ra, đồng thời tiết kiệm rất nhiều chi phi cho việc
khắc phục hậu quả. Hoàn cảnh hardship cũng không phải ngoại lệ khi việc các
bên đưa ra một điều khoản ứng phó với sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản thường
mang lại hiệu quả. Theo đó họ có thể thỏa thuận về tiêu chí của hoàn cảnh
thay đổi cơ bản, hành xử của các bên khi nó xảy ra và áp dụng trực tiếp thỏa
thuận này nếu có rủi ro trên thực tế. Phòng Thương Mại Quốc Tế (ICC) thậm
chí từng đưa ra điều khoản hardship mẫu làm cơ sở tham khảo cho các bên
trong giao dịch thương mại quốc tế, cụ thể:
“1. Một bên tham gia hợp đồng buộc phải thực hiện các nghĩa vụ hợp
đồng của mình ngay cả khi xảy ra các sự kiện khiến việc thực hiện hợp đồng

trở nên nặng nề hơn so với việc thực hiện hợp đồng có thể dự đoán một cách
hợp lý tại thời điểm giao kết hợp đồng.
2. Mặc dù đã có quy định tại khoản 1 của Điều này, khi một bên tham
gia hợp đồng chứng minh được:
a, việc tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng trở nên quá nặng
nề do một sự kiện nằm ngoài sự kiểm soát hợp lý của họ, không thể được dự
liệu một cách hợp lý vào thời điểm giao kết hợp đồng, và;
b, họ không thể tránh hoặc khắc phục một cách hợp lý sự kiện đó hoặc
hậu quả của nó, thì các bên bị ràng buộc, trong một thời gian hợp lý, có thể
đàm phán sửa đổi các điều khoản hợp đồng phù hợp với hậu quả do sự kiện
đó gây ra.
3. Trong trước hợp các bên không thể thỏa thuận để sửa đổi các điều
khoản hợp đồng một cách hợp lý nhằm khắc phục hậu quả của sự kiện, bên đề
nghị áp dụng điều khoản này có quyền chấm dứt hợp đồng.” [19]

14


Bên cạnh việc quy định trực tiếp Điều khoản hardship, các bên có thể
hạn chế phần nào tác động của ngoại cảnh vào hợp đồng bằng cách thỏa thuận
sử dụng đơn giá điều chỉnh trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Điều này
khiến giá trị hợp đồng phần nào thích ứng được với những biến động bên
ngoài, tuy nhiên, nếu biến động quá lớn, phương án này cũng không mang lại
hiệu quả cao.
Vì sự giới hạn về năng lực và sự cẩn trọng cần thiết, không phải trong
mọi trường hợp các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đều có thể xác lập
một biện pháp dự phòng như trên.
b. Đưa ra một biện pháp khắc phục khi đã xuất hiện hậu quả
Phương án giải quyết thứ hai là tìm ra một câu trả lời làm hài lòng các
bên khi xuất hiện Hoàn cảnh hardship. Do sự thay đổi hoàn cảnh khiến cán

cân nghĩa vụ đặt ra ban đầu thay đổi, hành vi tác động vào chính việc thực
hiện nghĩa vụ này nhằm khôi phục phần nào kì vọng của các bên dường như
là phương án hợp lý nhất.
Cơ sở của việc điều chỉnh hợp đồng
Mặc dù được xây dựng trên nền tảng thỏa thuận tự do, việc điều chỉnh
hợp đồng của các bên thời kì đầu luôn gặp khó khăn bởi những nguyên tắc cơ
bản của pháp luật.
Đối với các quốc gia theo trường phái luật Châu Âu – Lục Địa, những
người theo chủ nghĩa truyền thống phản đối việc can thiệp vào thỏa thuận ban
đầu của các bên, kể cả khi xuất hiện Hoàn cảnh hardship. Việc tuân thủ nghĩa
vụ hợp đồng càng phải được tôn trọng, đặc biệt đối với những giao dịch mang
tính chất quốc tế [31, p.2017]. Quan niệm nêu trên xuất phát từ nguyên tắc
được thừa nhận phổ quát là pacta sunt servanda hay về tính ràng buộc của
hợp đồng. Nguyên tắc pacta sunt servanda đã tồn tại từ thời kì cổ đại với nền
tảng liên quan đến tôn giáo và những lời căn dặn của thánh thần [22, pp.775-

15


776], điều này khiến nó có tính tuân thủ cao ngay từ khi xuất hiện. Mục đích
của nguyên tắc là bảo vệ quyền lợi của các bên và giúp giao dịch trở nên chắc
chắn về mặt pháp lý. Theo đó, khi các bên đã tiến hành giao kết hợp đồng, họ
có trách nhiệm thực hiện đúng những gì đã cam kết. Tuy nhiên, việc tuân thủ
hợp đồng một cách cứng nhắc tạo nên không ít trở ngại trong đời sống thương
mại do những biến đổi và tác động của ngoại cảnh. Nhiều nỗ lực cải thiện vấn
đề này dần được hình thành, và một trong những quan điểm nền tảng là triết
lý về luật tự nhiên của Thánh Thomas Aquinas. Trên cơ sở cho rằng luật bất
công không phải là luật và nhìn nhận luật pháp trong mối quan hệ với đạo đức
[14, tr.19-20], ông đề ra ý niệm về việc bất tuân nghĩa vụ trong cả lĩnh vực
luật công và luật tư. Liên quan đến hợp đồng, Thomas Aquinas cho rằng nếu

đối tượng của hợp đồng là người hoặc vật thay đổi so với thời điểm giao kết,
việc không thực hiện hợp đồng có thể được chấp thuận [22, p.777]. Ý niệm về
việc không thực hiện nghĩa vụ sau này được thừa nhận tương đối rộng rãi, đặc
biệt là trường hợp force majeure khi hoàn cảnh khách quan khiến nghĩa vụ
của các bên trở nên bất khả thi. Đối với hardship, vẫn tồn tại những sự dè dặt
nhất định. Rất nhiều quốc gia tiếp tục việc áp dụng pacta sunt servanda một
cách cứng nhắc, hay nói một cách khác là dù hợp đồng mất cân bằng thì các
bên vẫn phải tiếp tục thực hiện như những gì đã thỏa thuận.
Rào cản của việc điều chỉnh hợp đồng đối với các nước theo truyền
thống thông luật xuất phát từ quan niệm về hợp đồng. Theo quan niệm của hệ
thống pháp luật Common Law thì “về bản chất, hợp đồng là thoả thuận ràng
buộc về mặt pháp lí giữa hai bên hoặc nhiều bên hoặc (như một số định nghĩa
đã đặt ra) một tập hợp các lời hứa ràng buộc về mặt pháp lí được thực hiện
bởi một bên hoặc nhiều bên” [6, tr.93]. Bên cạnh các yếu tố thường thấy như
đề nghị và chấp thuận, một trong những điều kiện cần để hợp đồng có hiệu
lực là “khoản đối ứng” (consideration).

16


““Consideration” có bản chất pháp lý là vật/thứ/việc (things) được
trao đi đổi lại giữa các bên trong giao kết hợp đồng, cam kết và hứa hẹn trao
đổi các vật/thứ/việc (things) trong quá trình thực hiện hợp đồng trên thực tế.
Trong đa số trường hợp, nếu không có “consideration” thì hợp đồng không
có giá trị ràng buộc các bên trong giao kết hợp đồng.” [6]. Với quan niệm
như vậy, các nước theo truyền thống common law phát triển học thuyết về sự
ràng buộc của “tiền nghĩa vụ” (pre-existing duty). Theo đó, một lời hứa nhằm
(i) bổ sung một khoản đối ứng hoặc (ii) cam kết thực hiện thêm một hành vi
của một bên để đổi lại việc thực hiện hợp đồng của bên kia sẽ không có giá trị
bắt buộc, nếu trước đó hai bên đã chịu ràng buộc bởi những lời hứa và một

khoản đối ứng nhất định [29, p.850].
Ví dụ, A và B giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa dài hạn với giá
50$/ một đơn vị hàng hóa. Sau một năm thực hiện hợp đồng A và B thỏa
thuận điều chỉnh mức giá xuống còn 30$/một đơn vị hàng hóa trong khi chất
lượng hàng vẫn giữ nguyên. Theo quan niệm cũ, thỏa thuận này có thể không
có giá trị bắt buộc thực hiện (tức là trong trường hợp có tranh chấp cơ quan
tài phán có thể yêu cầu các bên phải thực hiện hợp đồng với mức giá ban đầu)
bởi khoản đối ứng của hợp đồng đã suy giảm theo thỏa thuận mới.
Các vấn đề về khoản đối ứng liên quan trực tiếp tới việc điều chỉnh hợp
đồng nói chung và trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản nói riêng. Bởi
như đã đề cập, mọi sự thỏa thuận lại đều dẫn tới chênh lệch về khoản đối ứng
được xác lập tại thời điểm giao kết hợp đồng. Nhiều tòa án tại Anh có khuynh
hướng cấm hành vi thỏa thuận lại dù tự nguyện của các bên trong trường hợp
hoàn cảnh thay đổi [29, p.852]. Bên cạnh đó, cũng có những nỗ lực tìm
phương án giải quyết sao cho phù hợp với lợi ích của các bên và quan niệm
về hợp đồng, tỉ dụ:

17


- Quan niệm điều chỉnh hợp đồng thực chất là việc chấm dứt những
thỏa thuận cũ và thiết lập nên một thỏa thuận mới với khoản đối ứng mới.
- Quan niệm việc thay đổi khoản đối ứng về thực chất là việc một bên
tặng/cho hoặc từ bỏ một phần quyền đối với khoản đối ứng của mình, vì vậy
hợp đồng vẫn giữ được sự cân bằng giữa 2 bên. [29, p.853]
Mặc dù có thể sử dụng các phương thức lập luận khác nhau để tránh đề
cập trực tiếp tới việc điều chỉnh hợp đồng, đi ngược lại với học thuyết về tiền
nghĩa vụ, nhưng điểm dễ dàng nhận thấy là dù lập luận theo hướng nào thì
trong các trường hợp điều chỉnh, ý chí của các bên vẫn là tiếp tục thực hiện hợp
đồng, chỉ là thực hiện với những điều khoản mới mà không có sự ngắt quãng.

Một số nền tài phán lựa chọn phương án xác định trực tiếp vấn đề là
khi điều chỉnh hợp đồng, một phần khoản đối ứng sẽ bị tiêu hao, họ cố gắng
tìm câu trả lời cho câu hỏi :”liệu hợp đồng có nên được tiếp tục thực thi khi
khoản đối ứng suy giảm như vậy hay không?” [29, p.857]. Rất nhiều yếu tố
cần được xác định, bao gồm nhưng không giới hạn ý chí của các bên chủ thể
khi điều chỉnh hợp đồng, một trong những điều kiện tối thiểu để chấp nhận
việc điều chỉnh hợp đồng là không có sự cưỡng ép đối với các chủ thể giao
kết. Kế đến đó, cần phải xác định sự suy giảm khoản đối ứng đến mức độ nào
thì được chấp nhận, vv…Mặc dù xuất hiện rất nhiều quy tắc ngặt nghèo, tuy
nhiên việc điều chỉnh hợp đồng dần được chấp nhận, một trong những tác
nhân hỗ trợ việc chấp nhận này là nguyên tắc thiện chí.
“Thiện chí là một nguyên tắc ứng xử rất quan trọng không chỉ trong
quan hệ hợp đồng mà còn trong tổ chức đời sống xã hội. Nó là một trong
những vấn đề căn bản để duy trì sự tồn tại và phát triển chung của cộng đồng.
Bởi con người sinh ra vốn rất cần đến nhau và sự hợp tác, và sự hợp tác chỉ
có được khi các bên đều có thiện chí.” [1, tr.154]

18


×