Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Thủ Tục Đăng Ký Doanh Nghiệp Lý Luận Và Thực Tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.35 KB, 112 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT KINH DOANH - THƯƠNG MẠI

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 1

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ
KHÓA HỌC (2007-2011)
Đề tài

THỦ TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giảng viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

Đoàn Nguyễn Minh Thuận



NGUYỄN TRUNG ĐANG
LỚP

: Luật thương mại 3 - k 33

MSSV : 5075254

Cần Thơ, Tháng 4 năm 2011

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 2

SVTH: Nguyễn Trung Đang

NHÂN LUẬT


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

Trang 3

SVTH: Nguyễn Trung Đang



Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU

1

Tính cần thiết của đề tài:

1

Mục đích nghiên cứu

2

Phạm vi nghiên cứu:

2

Phương pháp nghiên cứu:

2

Bố cục của đề tài:

2

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐĂNG KÝ


4

1.1. Khái quát về đăng ký doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam

4

1.1.1. Lịch sử phát triển của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp nước ta

4

1.1.2. Khái quát về đăng ký doanh nghiệp

6

1.1.2.1. Khái niệm về đăng ký doanh nghiệp

6

1.1.2.2. Đặc điểm của đăng ký doanh nghiệp

7

1.1.2.3. Ý nghĩa của việc đăng ký doanh nghiệp

8

1.1.3. Một số thuật ngữ về văn bản chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.3.1. Giấy phép kinh doanh


9

1.1.3.2. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

11

1.1.3.3. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

12

1.1.3.4. Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh

13

1.2. Những qui định của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp
1.2.1. Điều kiện về chủ thể đăng ký doanh nghiệp

15
15

1.2.1.1. Chủ thể là cá nhân

15

1.2.1.2. Chủ thể là tổ chức

16

1.2.2. Điều kiện về ngành nghề kinh doanh


17

1.2.2.1. Các ngành, nghề bị cấm kinh doanh

18

1.2.2.2. Các ngành nghề hạn chế kinh doanh

19

1.2.2.3. Các ngành nghề kinh doanh phải có điều kiện trước khi đăng ký kinh doanh
1.2.3. Những qui định về tên doanh nghiệp

19

21

1.2.3.1. Tên doanh nghiệp

21

1.2.3.2. Tên doanh nghiệp viết bằng tiếng nước ngoài và tên viết tắt của doanh nghiệp
1.2.3.3. Những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ
2.1. Đăng ký thành lập doanh nghiệp
2.1.1. Đăng ký truyền thống (Đăng ký trực tiếp)
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

9


Trang 4

22
24
24
26

SVTH: Nguyễn Trung Đang

22


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

2.1.1.1. Hồ sơ cho các doanh nghiệp khi đăng ký doanh nghiệp

26

2.1.1.2. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đối với các công ty được thành lập trên cơ sở chia, tách, hợp nhất
và đối với công ty nhận sáp nhập

27

2.1.1.3. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đối với các trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp:

28

2.1.1.4. Các giấy tờ chứng thực cá nhân trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp:30

2.1.1.5. Quy trình thực hiện đăng ký doanh nghiệp

30

2.1.1.6. Quy định của pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
2.1.2. Đăng ký trực tuyến (hay đăng ký qua mạng điện tử )

36

2.1.2.1. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp trực tuyến:

37

2.1.2.2. Cách thức thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử:

37

2.1.2.3. Quy trình đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử

38

2.1.2.4. Giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận đăng ký điện tử

40

2.1.3. Một số vấn đề liên quan đến đăng ký doanh nghiệp

36

43


2.1.3.1. Mã số thuế của doanh nghiệp

43

2.1.3.2. Mẫu dấu

44

2.1.3.3. Lệ phí đăng ký doanh nghiệp:

45

2.1.3. Đăng ký thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp :
46
2.1.3.1. Thủ tục lập hồ sơ đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện:46
2.1.3.2. Thông báo lập địa điểm kinh doanh :

47

2.1.3.3. Quá trình tiếp nhận hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp khi
đăng ký thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh
2.2. Đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp

48
48

2.2.1. Đăng ký bổ sung, thay đổi ngành nghề kinh doanh:

49


2.2.2. Đăng ký thay đổi trụ sở chính của doanh nghiệp:

50

2.2.3. Đăng ký đổi tên doanh nghiệp

52

2.2.4. Đăng ký thay đổi thành viên của doanh nghiệp:

52

2.2.4.1. Đăng ký thay đổi thành viên hợp danh

52

2.2.4.2. Đăng ký thay đổi thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: 53
2.2.4.3. Đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập công ty cổ phần:

55

2.2.5. Đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

57

2.2.6. Đăng ký thay đổi vốn của doanh nghiệp

58


2.2.6.1. Đăng ký thay đổi vốn điều lệ, thay đổi tỷ lệ vốn góp

58

2.2.6.2. Đăng ký thay đổi vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân

60

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 5

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

2.2.7. Đăng ký thay đổi chủ sở hữu của doanh nghiệp:

60

2.2.7.1. Đăng ký thay đổi chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: 60
2.2.7.2. Đăng ký thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân trong trường hợp bán, tặng cho doanh nghiệp, chủ
doanh nghiệp chết, mất tích:

61

2.2.8. Đăng ký thay đổi nội dung đăng ký thuế :


61

2.2.9. Đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hoạt động theo quyết định của tòa án
62
2.2.10. Đăng ký thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện địa điểm kinh
doanh, thông báo chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh 62
2.3. Các thủ tục khác sau khi đăng ký doanh nghiệp

63

2.3.1. Công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp

63

2.3.2. Xin cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp:

63

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH HIỆN NAY VÀ HƯỚNG HOÀN
THIỆN

65

3.1. Thực tiễn về vấn đề đăng ký doanh nghiệp hiện nay

65

3.2. Những bất cập trong quá trình đăng ký doanh nghiệp


68

3.3. Những đề xuất hoàn thiện về vấn đề đăng ký doanh nghiệp

72

KẾT LUẬN

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

78

Trang 6

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

Trang 7

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp


Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

LỜI MỞ ĐẦU
·

Tính cần thiết của đề tài:
Nền kinh tế Việt Nam đang tiến dần đến hoàn thiện theo cơ chế thị trường sau khi Việt Nam trở thành

thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO và hội nhập sâu vào khu vực ASEAN, khu vực Châu
Á Thái Bình Dương. Tình hình phát triển kinh tế nước ta hiện nay là khá ấn tượng, có bước đột phá và phát
triển trên nhiều mặt. Rất nhiều doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trong thị trường đầy tiềm năng này làm
cho nền kinh tế Việt Nam trở nên sôi động. Tính chung đến hết năm 2010, cả nước có 544.394 doanh nghiệp
đăng ký kinh doanh, vượt mục tiêu được Chính phủ đề ra là 500.000 doanh nghiệp vào thời điểm này trong đó
lượng thành lập mới riêng trong năm 2010 đã đạt gần 90.000 doanh nghiệp, tăng 5,5% so với 2009. Việc bùng
nổ các nhà đầu tư mới trong thời buổi hội nhập cũng đã và đang thúc đẩy cơ quan lập pháp là Quốc Hội và
Chính Phủ nước ta phải tăng cường trong hoạt động soạn thảo, ban hành các văn bản điều chỉnh, hướng dẫn
dưới luật để phù hợp với thực tiễn thị trường, cơ bản là phù hợp với bối cảnh xã hội và nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần như hiện nay, nhu cầu đồng bộ giữa các văn bản pháp luật trong nước và yêu cầu phù hợp với
các Hiệp định thương mại với các nước, các qui định của WTO và cả tập quán thương mại quốc tế là rất cần
thiết. Vấn đề quan trọng nhất của nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường kinh doanh ở Việt Nam là phải thực
hiện đăng ký doanh nghiệp theo một quy trình nhất định, chảy qua nhiều giai đoạn thủ tục Pháp lý phức tạp tuy
hiện nay được chuyển khai thực hiện khá phổ biến nhưng còn nhiều điểm chưa thật sự tốt gây không ích khó
khăn, phiền hà cho các nhà đầu tư. Do đó, ta cần làm rõ một cách cụ thể và minh bạch hơn các thủ tục mà pháp
luật quy định là việc hết sức cần thiết cho các nhà đầu tư thuận lợi và sẵn sàng gia nhập vào thị trường kinh tế
của Việt Nam một cách nhanh chóng và hoạt động thật hiệu quả dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng
phát triển của xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế kinh tế cho đất nước đó là lý do mà người viết chọn đề tài "
Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn " này.

·


Mục đích nghiên cứu:
Pháp luật luôn là rào cảng cho các nhà đầu tư muốn thành lập một doanh nghiệp trong nền kinh tế Việt

Nam. Cho thấy sự quản lý nền kinh tế nước ta là khá chặt chẽ phù hợp với xu thế phát triển hiện nay nhằm đảm
bảo cho môi trường kinh doanh trong nước được ổn định, an toàn và bền vững đồng thời thu hút các nhà đầu tư
trong và ngoài nước kinh doanh trong thị trường đầy tìm năng này là hết sức quan trọng. Để được như vậy thì
cần phải thực hiện một thủ tục đăng ký doanh nghiệp khá phức tạp làm cho các nhà đầu tư hoang mang khó
hiểu, hiểu chưa đúng về thủ tục đăng ký doanh nghiệp. Chính vì thế người viết mong muốn sau khi nghiên cứu
về đề tài này sẽ giúp cho các nhà đầu tư hiểu một cách minh bạch và sâu sắc hơn về đăng ký doanh nghiệp, để
áp dụng nó một cách hiệu quả. Đồng thời đưa ra những điểm nổi bậc và thiếu sót của quy định pháp luật tiến tới
hoàn thiện khung pháp lý của nước ta ngày một tốt hơn.
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 8

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

·

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

Phạm vi nghiên cứu:
Người viết chỉ nghiên cứu các thủ tục trong quá trình đăng ký doanh nghiệp và một số vấn đề liên quan

mật thiết đến đăng ký doanh nghiệp hiện nay được quy định trong luật doanh nghiệp 2005 và một số văn bản
hướng dẫn về vấn đề này.
·


Phương pháp nghiên cứu:
Để cho bài viết đạt được hiệu quả tốt nhất, phù hợp với kiến thức và năng lực nghiên cứu đề tài này

người viết đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
· Phương pháp liệt kê, phân tích để tìm ra các quy định của pháp luật về vấn đề đăng ký doanh nghiệp hiện
nay và làm rõ những thiếu sót và chưa hoàn thiện của pháp luật nước ta hiện nay.
· Phương pháp đối chiếu và so sánh giữa những quy định cũ và mới của các văn bản pháp luật sau đó chỉ
ra những quy định nào là phù hợp tình hình phát triển của những vấn của xã hội hiện nay mà pháp luật nên điều
chỉnh.
· Phương pháp tìm kiếm, tra cứu những thông tin trên mạng và các tài liệu trong các thư viện của Khoa
hay của Trường để được những thông tin chính xác nhất, mang tính thời sự và được cập nhật gần đây nhất.
·

Bố cục của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục nội dung của đề tài được người viết trình bày

trong ba chương
Chương1: Khái quát chung về đăng ký doanh nghiệp.
Chương 2: Pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
Chương 3: Thực trạng về vấn đề đăng ký doanh nghiệp hiện nay và hướng hoàn thiện.
Do kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế nên nội dung của đề tài sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong quý Thầy Cô, các bạn tận tình đóng góp, bổ sung kiến thức cho bài luận văn của
người viết được hoàn thiện hơn. Qua đó thì người viết muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến toàn thể quý
Thầy Cô trong khoa Luật đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện cho người viết thực hiện đề tài, đặt biệt là Cô
Đoàn Nguyễn Minh Thuận đã tận tình hướng dẫn người viết hoàn thành tốt bài nghiên cứu này.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 9


SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

Trang 10

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐĂNG KÝ
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về đăng ký doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam
1.1.1. Lịch sử phát triển của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp nước ta
Ngày nay xã hội luôn vận động và phát không ngừng dẫn đến tất cả các vấn đề trong xã hội cũng thay
đổi theo, trong lĩnh vực pháp luật nước ta cũng có nhiều sự thay đổi riêng về pháp luật về đăng ký doanh nghiệp
với sự vận động đó có thêm nhiều vấn đề cần phải được kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát triển
kinh tế hiện nay, qua đó người viết chia ra làm hai thời kỳ lịch sử phát triển.
· Từ trước 1986
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công đó là thắng lợi của chính năm kháng chiến chống thực dân
Pháp, Chính phủ nước ta lúc bấy giờ ban hành Sắc lệnh xóa bỏ mọi sự hạn chế của chế độ thực dân Pháp đối

với chế độ đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng để khuyến khích kinh tế phát triển thì
Chính phủ đồng ý để các công ty nước ngoài được tiến hành các hoạt động kinh doanh lúc bấy giờ thì nước
Việt Nam độc lập xuất hiện loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên ở thời kỳ này cũng
không có nhiều vấn đề để nói, lúc này nước ta chưa thực sự có một văn bản nào hoàn chỉnh để điều chỉnh về
vấn đề đăng ký doanh nghiệp này. Sau năm 1979 đến 1986 thời kỳ này ở nước Việt Nam tồn tại thống nhất chỉ
có các doanh nghiệp quốc doanh và các cơ sở sản xuất sở hữu tập thể và của hợp tác xã.
· Sau năm 1986 đến nay
Năm 1986 Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới thừa nhận nền kinh tế nước ta là nền kinh
tế nhiều thành phần, Đảng ta đã khẳng định sự tồn tại của các doanh nghiệp tư nhân và thành phần kinh doanh
cá thể trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân bên cạnh nền kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã.
Đến ngày 21-12-1990, Quốc hội khóa VIII của nước ta đã thông qua hai đạo Luật quan trọng là Luật
công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Hai đạo Luật này đã tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho sự phát triển của
khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta, đây là bước đột phá đánh dấu sự thay đổi trong tư duy kinh tế của Đảng và
Nhà nước ta, là mốc quan trọng có ý nghĩa quyết định trong quá trình đổi mới kinh tế từ kinh tế kế hoạch hóa
tập trung nhà nước quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng được coi là bước đột phá của pháp luật điều
chỉnh hầu hết các vấn đề của doanh nghiệp từ chủ thể thành lập doanh nghiệp, ngành, nghề kinh doanh, đăng ký
kinh doanh, cấp giấy giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giải thể, phá sản doanh nghiêp. Đây là lần đầu tiên
vấn đề về đăng ký kinh doanh được quy định khá cụ thể và rõ ràng từ trước tới nay được quy định tại điều
11-12 Luật doanh nghiệp tư nhân 1990 và điều 17-18 Luật công ty 1990. Tuy thủ tục đăng ký kinh doanh khá
rườm rà, qua nhiều giai đoạn nhưng cũng thể hiện điểm tiến bộ vượt bậc trong pháp luật Việt Nam lúc bấy giờ.
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 11

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp


Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

Sự phát triển của nền kinh tế làm cho các quy định trong Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân
không còn thích hợp với một số Luật khác có liên quan. Đòi hỏi phải có sự tương ứng giữa các Luật trong cùng
một vấn đề điều chỉnh, đó là một vấn đề cần thiết nhất nhằm đi đến một đạo Luật chung thống nhất để điều
chỉnh tất cả các loại hình doanh nghiệp và công ty theo hướng mở rộng và đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh
doanh của các doanh nghiệp .
Ngày 12-6-1999 Quốc hội khóa X, kỳ hợp thứ 5 đã thông qua toàn văn Luật doanh nghiệp tạo nên khuôn
khổ pháp lí bảo đảm quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Bước đầu tiên Luật doanh nghiệp
tạo ra cơ sở pháp lý chuyển các chủ kinh doanh ở Việt Nam sang hoạt động theo một Luật chung, tiến tới xây
dựng một Luật mới, một Luật duy nhất và thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp, cải cách pháp luật về
doanh nghiệp ở nước ta cho cộng đồng doanh nghiệp trong nước và là tín hiệu cho các doanh nghiệp nước
ngoài, tổ chức quốc tế vào đầu tư tại Việt Nam.
Vấn đề cải cách thủ tục hành chính chủ yếu là về vấn đề thủ tục đăng ký kinh doanh có phần đơn giản
hơn một bước. Quy định lúc trước của các văn bản điều chỉnh về vấn đề này là tiến hành thủ tục xin phép thành
lập doanh nghiệp rồi mới tiến hành đi đăng ký kinh doanh, nhưng Luật doanh nghiệp rút gọn chỉ còn một bước,
muốn có một doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, thì người muốn thành
lập doanh nghiệp chỉ cần tiến hành một bước đi đến cơ quan nhà nước quản lý về đăng ký kinh doanh tiến hành
thủ tục đăng ký kinh doanh là được. Sau đó với sự cần thiết làm rõ hơn trong quy định của Luật doanh nghiệp
1999 Chính phủ ta đã ban hành hàng loạt các Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp
1999, trong đó quy định cụ thể hơn về vấn đề đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp như Nghị định
03/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 hướng dẫn thi hành của một số điều của Luật doanh nghiệp 1999, và sau đó
lại tiếp tục điều chỉnh bằng Nghị định 125/2004/NĐ-CP ngày 19/05/2004 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp, Nghị
định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh và một số văn bản liên quan
khác.
Luật doanh nghiệp 1999 nhiều năm thực hiện đã đạt được những thành tựu về nhiều mặt, cho thấy sự
phát triển pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và đi sâu vào trong nhân dân. Không dừng ở đây với sự
kế thừa những thành tựu của Luật doanh nghiệp 1999 ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật doanh nghiệp 2005 thay thế Luật doanh

nghiệp ban hành năm 1999. Ở Luật này thủ tục đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp quy định khác biệt so với
Luật doanh nghiệp 1999 nhưng cũng không có gì đáng nói. Bên cạnh đó Bộ kế hoạch và Đầu tư đã ban hành
hàng loạt Nghị định liên quan đến đăng ký kinh doanh, về đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký giấy chứng nhận
đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là Bộ kế hoạch và đầu tư đã ban hành văn bản
quy định cụ thể về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh như Nghị định 88/2006/NĐ-CP về đăng ký kinh
doanh sau đó là Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 12

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

doanh nghiệp 2005 tiếp tục là Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về đăng ký doanh nghiệp thay thế cho
Nghị định 88/2006/NĐ-CP ở trên và Thông tư 14/2010/TT- BKH ngày 04/06/2010 hướng dẫn một số nội dung
về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010
của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp sau đó Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 về việc hướng
dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp được ban hành thay thế Nghị định 139/2007NĐ-CP và
nhiều văn bản liên quan khác.
1.1.2. Khái quát về đăng ký doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm về đăng ký doanh nghiệp
Mặc dù hoạt động về đăng ký doanh nghiệp đã tồn tại khá lâu và lặp lại trong nhiều văn bản điều chỉnh của
pháp luật nước ta qua nhiều giai đoạn chỉnh sửa, bổ sung những thiếu sót, nhưng cho đến nay thuật ngữ khái
niệm về đăng ký doanh nghiệp còn khá mới mẻ và vẫn chưa thấy một điều luật nào quy định cụ thể về khái
niệm này, trong quá trình nghiên cứu đứng trên lập trường quan điểm của mình người viết nói lên khái niệm về
đăng ký doanh nghiệp sau đây " Đăng ký doanh nghiệp là quy trình tiến hành một thủ tục hành chính của chủ

đầu tư với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm khai sinh ra một doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh
trong nền kinh tế Việt Nam dưới khuôn khổ của pháp luật " bên cạnh đó thì chủ doanh nghiệp hoặc người đại
diện hợp pháp của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác các thông tin trong quá
trình tiến hành thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
1.1.2.2. Đặc điểm của đăng ký doanh nghiệp
Đăng ký doanh nghiệp là một thủ tục hành chính được tiến hành giữa chủ thể đăng ký doanh nghiệp với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đây là một thủ tục hành chính nên việc đăng ký doanh nghiệp là một quy
định mà bắt buộc phải thực hiện để được tiến hành hoạt động kinh doanh, sau khi tiến hành xong thủ tục thành
lập doanh nghiệp để doanh nghiệp đó đi vào hoạt động kinh doanh thì cần phải đến cơ quan đăng ký kinh doanh
tiến hành thủ tục đăng ký doanh nghiệp, nên chủ thể đi đăng ký doanh nghiệp phải chuẩn bị hồ sơ tới cơ quan
đăng ký kinh doanh để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình tức là thực hiện việc đăng ký kinh doanh cho
doanh nghiệp, và ngày nay tiến bộ hơn đó là lên mạng vào trang website cổng thống thông tin đăng ký doanh
nghiệp quốc gia để điền đầy đủ thông tin thì chủ thể sẽ có được một bộ hồ sơ hoàn chỉnh như hồ sơ bản giấy,
sau đó cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và cấp cho doanh nghiệp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp,
trong quá trình kê khai của chủ thể có nếu có sai phạm thì chủ thể phải tự chịu trách nhiệm và chịu xử phạt vi
phạm hành chính. Đây được coi là đặc điểm đặc trưng của đăng ký doanh nghiệp.
Thuật ngữ “đăng ký doanh nghiệp” được thay thế từ thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” đây là điểm nổi bậc
của Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 về đăng ký doanh nghiệp sau đây được gọi (Nghị định
43/2010/NĐ-CP) thay thế cho Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2006 về đăng ký kinh doanh (Nghị định
88/2010/NĐ-CP). Thể hiện quyền tự chủ của doanh nghiệp, đăng ký doanh nghiệp thường gắn liền với mã số
doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, mã số thuế, mỗi một doanh nghiệp đều có mã số doanh
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 13

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp


Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

nghiệp riêng đồng thời đó là mã số thuế. Như lúc trước về hồ sơ đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế là hai nay
chỉ còn một bộ hồ sơ cho ba giai đoạn đăg ký doanh nghiệp, đăng ký thuế và đăng ký con dấu.
Đăng ký doanh nghiệp là việc xác lập sự tồn tại của doanh nghiệp dưới sự quản lý của các cơ quan nhà
nước Việt Nam và được pháp luật Việt Nam công nhận với địa vị là một pháp nhân trong xã hội trừ doanh
nghiệp tư nhân. Do đó mọi hoạt động của doanh nghiệp điều chịu sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền đảm
bảo về tính an toàn, trật tự của xã hội. Như vậy một khi có vấn đề khó khăn đối với doanh nghiệp thì nhà nước
sẽ tham gia vào để điều chỉnh theo hướng có lợi nhất và phù hợp nhất cho doanh nghiệp tạo ra tính công bằng,
công khai, minh bạch trong môi trường kinh doanh dưới sự quản lý của nhà nước theo đường lối của Đảng cộng
sản Việt Nam.
1.1.2.3. Ý nghĩa của việc đăng ký doanh nghiệp
Năm 1986 Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới thừa nhận nền kinh tế nước ta là nền kinh
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, với nền kinh tế càng phát triển đa dạng phức tạp sẽ làm cho quan hệ của doanh nghiệp với nhà nước trở
nên rườm rà khó quản lý, từ đó lợi dụng từ điểm sơ hở của pháp luật, một số doanh nghiệp tiến hành kinh
doanh tràn lan, nhằm tư lợi cho riêng mình mà bất chấp hậu quả xấu xảy ra, sẽ làm thất thoát ngân sách nhà
nước và trật tự quản lý xã hội, làm cho môi trường kinh doanh bị suy thói, kinh tế sẽ xuống dốc. Vì vậy cần có
một chính sách quản lý chặt chẽ, thông suốt để đảm bảo cho các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế cả nước
nói chung phát triển một cách hệ thống và thống nhất trong cả nước. Do đó cơ quan quản lý về doanh nghiệp
bắt buộc tất cả doanh nghiệp trên cả nước điều phải tiến hành đăng ký doanh nghiệp với nhiều ý nghĩa quan
trọng.
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp do đó như là một thủ tục khai sinh cho doanh nghiệp trong hệ thống nền
kinh tế Việt Nam nên đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện đầy đủ tất cả các quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình, xác nhận địa vị pháp lý của doanh nghiệp trong xã hội qua đó
thiết lập nên các mối quan hệ hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp khác để cùng phát triển và tiến bộ bảo
đảm cho doanh nghiệp hoạt động, bền vững và an toàn dưới hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, đối với đối tượng hợp tác của doanh nghiệp để giúp cho họ hiểu đầy đủ về thông tin của doanh
nghiệp thông qua việc đăng ký doanh nghiệp, tạo lòng tin trong hợp tác làm ăn với doanh nghiệp và dễ dàng
giải quyết các vấn đề tranh chấp trong hợp đồng kinh doanh của họ với doanh nghiệp dưới sự quản lý của pháp

luật.
Thứ ba, đối với cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký doanh nghiệp là để xây dựng, quản lý hệ thống
thông tin doanh nghiệp, trực tiếp hay gián tiếp kiểm tra đôn đốc hoạt động của doanh nghiệp theo định hướng
phát triển của xã hội, tạo ra nền kinh tế thị trường thông thoáng đi cùng với nền khoa học hiện đại ngày nay,
đồng thời đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh đúng ngành nghề quy định để tránh tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp với nhau trong nền kinh tế Việt Nam, nhằm giải quyết tranh chấp trong
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 14

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

kinh doanh một cách khoa học theo đường lối Pháp luật của Đảng cho doanh nghiệp, hạn chế các doanh nghiệp
kinh doanh tràn lan làm mất trật tự công cộng. Đảm bảo tính an toàn cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động
kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam.
1.1.3. Một số thuật ngữ về văn bản chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.3.1. Giấy phép kinh doanh
Theo Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) thì giấy phép kinh doanh được hiểu là sự chấp thuận
bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới mọi hình thức mà một cá nhân, tổ chức phải có để tiến
hành một hoặc một số hoạt động kinh doanh nhất định, bản thân giấy phép mang hình thức của sự cho phép và
xin phép của cơ chế xin - cho, theo điều 7 Luật doanh nghiệp, Giấy phép kinh doanh chỉ là một loại biện pháp
quản lý điều kiện kinh doanh của cơ quan quản lý nhà nước.
Theo quan điểm của người viết đưa ra định nghĩa về giấy phép kinh doanh như sau " giấy phép kinh
doanh là một văn bản do cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cấp cho các doanh nghiệp kinh doanh các
ngành, nghề mà pháp luật quy định, là cơ sở pháp lý cho doanh nghiệp chứng nhận thực hiện hoạt động kinh

doanh". Do vậy Giấy phép kinh doanh chỉ là một trong những hình thức của điều kiện kinh doanh. Ở Việt Nam
hiện có rất nhiều loại giấy phép, các giấy phép lại được ban hành từ nhiều loại văn bản khác nhau.
Theo Ban nghiên cứu của Thủ tướng, năm 2006 có tới 300 loại giấy phép về điều kiện kinh doanh, quản
lý hoạt động của doanh nghiệp, tồn tại dưới các dạng như chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn,
giấy chứng nhận đăng ký, giấy phép, văn bản chấp thuận, thẻ và nhiều tên gọi khác. Cho đến tận bây giờ, chưa
tồn tại một thống kê và cập nhật chính xác các loại giấy phép và điều kiện kinh doanh đang có hiệu lực mà
người kinh doanh phải thường xuyên xin các cơ quan có thẩm quyền.

Mặc dù đã có Quyết định

19/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ 84 loại giấy phép không cần thiết và trái với Luật Doanh
nghiệp nhưng vẫn còn nhiều. Đây là một sự kiện lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp thời điểm đó. Và cuối
cùng, Nghị định 59/2002/NĐ-CP loại bỏ thêm 4 giấy phép và thay thế 10 loại giấy phép bằng các điều kiện
kinh doanh. Một điểm yếu của hệ thống giấy phép kinh doanh ở nước ta là chất lượng, điều này đã được nhiều
chuyên gia và các doanh nghiệp gọi là tình trạng " 5 không 1 kém" của giấy phép kinh doanh là "không đầy đủ,
không cụ thể và rõ ràng, không minh bạch, không thống nhất, không tiên liệu trước được, và kém khả thi" .
Gần đây nghị định về quản lý nhà nước đối với hệ thống giấy phép kinh doanh chuẩn bị trình lên Chính
phủ đã đề cập tới việc thành lập Hội đồng quốc gia về giấy phép kinh doanh, khái niệm thống nhất về giấy phép
kinh doanh sẽ được xác định và những ngành nghề hạn chế phải sử dụng giấy phép cũng được xác định. Hội
đồng này sẽ chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát, đánh giá việc ban hành và thực hiện các quy định về giấy phép
kinh doanh nhằm đảm bảo việc ban hành giấy phép được thống nhất, minh bạch, hợp lý và khi đưa thực thi đảm
bảo tính hiệu quả. Qua đó cho thấy tình trạng các loại giấy phép nước ta hiện nay có nhiều bất cập trong việc
quản lý của các cơ quan nhà nước, hệ thống giấy phép chưa minh bạch, thiếu nhất quán, không tiên liệu được.
Nhiều giấy phép kinh doanh rất mơ hồ về tính hợp pháp, hợp lý cũng như hiệu quả và hiệu lực thực hiện, không
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 15

SVTH: Nguyễn Trung Đang



Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

hướng tới bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, thiên về lợi ích của ngành hơn là dành thuận lợi cho doanh
nghiệp, góp phần làm tăng chi phí giao dịch, giảm sức hấp dẫn và năng lực cạnh tranh của môi trường kinh
doanh quốc gia, hạn chế quyền tự do kinh doanh của người dân, gây tốn kém, phiền hà khó khăn cho doanh
nghiệp.
1.1.3.2. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Về nguyên tắc, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không được vượt khỏi phạm vi ngành, nghề đã
đăng ký. Do vậy, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là tài liệu rất quan trọng nhằm xác định năng lực pháp lý
của doanh nghiệp, điểm thiếu soát của luật và các văn bản liên quan đến vấn đề về đăng ký kinh doanh của
doanh nghiệp là không định nghĩa về giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Theo như Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân trước đây, mỗi doanh nghiệp được cấp một giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh dưới dạng một cuốn sổ, mỗi lần thay đổi thông tin doanh nghiệp sẽ được cập
nhật vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và như vậy, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sẽ thể hiện toàn
bộ thông tin của doanh nghiệp từ khi thành lập đến thời điểm gần nhất. Hệ thống đăng ký kinh doanh hiện hành
được bắt đầu từ Luật doanh nghiệp 1999 cho phép doanh nghiệp có đến hai loại giấy là giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh được cấp cho doanh nghiệp đăng ký lần đầu khi đăng ký thành lập và giấy chứng nhận thay đổi
đăng ký kinh doanh được cấp cho những lần thay đổi tiếp theo, và hai giấy này tồn tại đồng hành trong một
doanh nghiệp. Điều đó giúp cho những bên liên quan có đầy đủ thông tin của doanh nghiệp từ khi thành lập
(thông qua giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) và những biến đổi trong quá trình hoạt động (thông qua giấy
chứng nhận thay đổi đăng ký kinh doanh).
Đến điều 27 của Luật doanh nghiệp 2005 vẫn kế thừa tư tưởng cấp cho doanh nghiệp cùng lúc hai loại
giấy như Luật doanh nghiệp 1999, nhưng một lần nữa, Luật doanh nghiệp 2005 không quy định khi nào sử dụng
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và khi nào sử dụng Giấy chứng nhận thay đổi đăng ký kinh doanh. Cũng
có thể vì lý do này, Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2007 về đăng ký kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp
khi đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp phải nộp lại bản gốc Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh cũ để được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới.

Doanh nghiệp hiện nay khi thành lập được cấp một Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và mỗi khi
đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải hoàn trả lại bản chính Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh cũ trước khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sửa đổi. Vì thế, tại một thời điểm
nhất định, doanh nghiệp chỉ lưu giữ một Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, vừa đảm nhận vai trò “Giấy khai
sinh” (ghi nhận ngày đăng ký kinh doanh lần đầu) vừa là “Giấy chứng minh nhân dân” để chứng minh cho tư
cách pháp lý của mình, và như thế mỗi lần thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được cấp một
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới và sau vài lần thay đổi như thế, sẽ rất khó nhận ra doanh nghiệp ban

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 16

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

đầu nữa vì tên tuổi, ngành nghề, địa chỉ, người đại diện theo pháp luật, và các nội dung khác đã thay đổi, giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hiện nay không ghi nhận đời sống doanh nghiệp qua thời gian.
Điểm đáng chú ý ở đây là điều 20 Luật doanh nghiệp và điều 50 Luật đầu tư hiện hành có quy định rằng,
nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam được cấp giấy chứng nhận đầu tư, đồng thời là Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. So sánh giữa Giấy chứng nhận đăng ký kinh và giấy chứng nhận đầu tư thì
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh xác lập địa vị pháp lý của doanh nghiệp, trong khi Giấy chứng nhận đầu
tư chỉ xác lập tính hợp pháp cho một hành vi kinh doanh của doanh nghiệp, hiểu một cách đơn giản thì Giấy
chứng nhận đầu tư gắn với một dự án, còn Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh gắn với một doanh nghiệp, mà
doanh nghiệp có thể có nhiều dự án.
Ở một số trường hợp khác doanh nghiệp muốn được hoạt động thì sẽ được cơ quan có thẩm quyền cấp
cho một loại văn bản khác gọi là Giấy phép thành lập đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Như

trong Luật chứng khoán sửa đổi bổ sung 2010 thì Giấy phép thành lập công ty chứng khoán là do Ủy ban chứng
khoán cấp và được xem như là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do Sở kế hoặch và đầu tư cấp, như trong
trường hợp để thành lập doanh nghiệp bảo hiểm thì phải xin giấy phép thành lập do Bộ tài chính cấp đồng thời
là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, như vậy trong một số trường hợp giấy phép kinh doanh của doanh
nghiệp không phải do cơ quan đăng ký kinh doanh cấp mà là do cơ quan quản lý trực tiếp đến đối tượng kinh
doanh ngành nghề đó của doanh nghiệp cấp.
1.1.3.3. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Thay thế cho Nghị định 88/2006/NĐ-CP theo khoản 2 điều 3 của Nghị định 43/2010/NĐ-CP khái niệm
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là văn bản hoặc bản điện tử mà cơ quan đăng ký kinh doanh cấp cho
doanh nghiệp ghi lại những thông tin về đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế do doanh nghiệp đăng ký. Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận đăng
ký thuế của doanh nghiệp, mỗi một doanh nghiệp sẽ được cấp mã số riêng mã số này đồng thời là mã số doanh
nghiệp và cũng chính là mã số thuế. Về mặt pháp lý giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng giống như
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được cấp cho các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp 2005. Mẫu Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp và mẫu Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do Bộ
kế hoạch và đầu tư ban hành và được áp dụng thống nhất trên phạm vi toàn quốc, Nghị định 43/2010/NĐ-CP
Thông tư 14/2010/TT-BKH hướng dẫn thi hành Nghị định 43/2010/NĐ-CP không quy định về việc thu lại Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh nay là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi đăng ký thay đổi nội dung
đăng ký kinh doanh. Đây có thể được xem là một chuyển biến mới trong nhận thức về quản lý doanh nghiệp
bằng giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay thế cho Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về nội dung
thì Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có phần rộng hơn với Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, ngoài
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 17

SVTH: Nguyễn Trung Đang



Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

nội dung được quy định tại điều 25 của Luật doanh nghiệp 2005 thì, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
còn bổ sung thêm điều 26 của Luật quản lý thuế là cấp Giấy chứng nhận đăng ký thuế của Luật quản lý thuế
2006 do sau khi Nghị định 43/2010/ND-CP ra đời quy định cùng một bộ hồ sơ gồm ba nội dung đăng ký doanh
nghiệp, đăng ký thuế và đăng ký mẫu dấu cho nên trong nội dung của giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
có quy định thêm điều 26 của Luật quản lý thuế là hoàn toàn hợp lý.
1.1.3.4. Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh là một thủ tục đăng ký thực hiện kinh doanh dưới sự cho phép
của cơ quan nhà nước quản lý trực tiếp đối tượng kinh doanh mà chủ doanh nghiệp phải có khi thực hiện hoạt
động kinh doanh của mình. Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh chỉ là một trong những hình thức của
điều kiện kinh doanh, theo quy định của pháp luật, khi doanh nghiệp có đủ điều kiện thì được đăng ký kinh
doanh ngành nghề đó với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được nhà nước cấp cho Giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh. So về thủ tục trình tự cấp thì có nhiều điểm khác biệt với Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh do là thủ tục đăng ký với cơ quan quản lý trực tiếp nên sẽ có nhiều cơ quan cấp phép do đó sẽ gây ra
nhiều vấn đề khó khăn trong quản lý giấy phép, như trong một số trường hợp cùng một ngành, nghề sẽ có nhiều
văn bản của nhiều cơ quan điều chỉnh khi đó vấn đề được điều chỉnh sẽ không trùng khớp thậm chí đối lập lẫn
nhau, lợi dụng điểm yếu của pháp luật thì một số doanh nghiệp sẽ hoạt động kinh doanh ngoài vòng pháp luật
làm thiếu tính công bằng trong môi trường kinh doanh, thất thoát ngân sách nhà nước, gây mất trật tự trong xã
hội, giảm hiệu quả trong việc quản lý của nhà nước đối với giấy phép.
Giấy phép kinh doanh là hình thức của sự cho phép của cơ quan nhà nước và xin phép của chủ thể đăng
ký kinh doanh là một cơ chế xin - cho, nhưng đối với Giấy chúng nhận đủ điều kiện kinh doanh thì chủ thể kinh
doanh khi có đủ điều kiện theo pháp luật quy định thì chỉ đến đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quản lý trực tiếp đến đối tượng kinh doanh của doanh nghiệp là có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Vấn đề
là nếu không có Giấy phép đăng ký kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ không hoạt động được nhưng đối với Giấy
chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thì khác. Trong một số trường hợp pháp luật đòi hỏi chủ thể muốn thực
hiện hoạt động kinh doanh phải đăng ký trước với cơ quan quản lý nhà nước và khi được sự chấp nhận của cơ
quan đó mới được phép hoạt động. Chẳng hạn như trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bảo vệ thì chỉ có những

doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và có Giấy xác nhận đủ
điều kiện về an ninh, trật tự để kinh doanh dịch vụ bảo vệ thì mới được tiến hành hoạt động kinh doanh dịch vụ
bảo vệ hoặc trong lĩnh vực sản xuất phim thì Luật điện ảnh năm 2006 quy định tại điều 14 khá rõ ràng đối với
doanh nghiệp sản xuất phim, ngoài việc phải có điều kiện thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp còn
phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh do Bộ văn hóa, thể thao và du lịch cấp. Cũng có những trường
hợp khi doanh nghiệp đã đi vào hoạt động thì mới đến cơ quan nhà nước để đăng ký điều kiện kinh doanh của
mình như việc đăng ký về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm thủy sản
tươi sống và đã qua chế biến. Và doanh nghiệp thì gắn liền với giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 18

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

trong một số trường hợp đặc thù thì một số cơ sở sản xuất nhỏ và lẻ không cần đến giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh vẫn hoạt động được nhưng phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện về an toàn trật tự hay an toàn vệ
sinh thực phẩm.
Khi có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động kinh doanh
phải thông báo trước khi bắt đầu hoạt động kinh doanh, người đứng đầu doanh nghiệp phải thông báo bằng văn
bản cho Công an cấp tỉnh biết nơi đặt trụ sở, địa bàn và thời gian bắt đầu hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, không giống như Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi chủ doanh nghiệp nhận được cấp giấy là có
thể tiến hành hoạt động kinh doanh của mình mà không cần phải thông báo trước.
1.2. Những qui định của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp
1.2.1. Điều kiện về chủ thể đăng ký doanh nghiệp
Theo quy định hiện hành tại điều 5 của Nghị định 43/2010/NĐ-CP thì người thành lập doanh nghiệp có

nghĩa vụ đăng ký doanh nghiệp và theo đó thì chủ đăng ký doanh nghiệp có nhiều chủ thể. Do không có một
quy định nào rõ ràng hơn nên chủ thể đăng ký kinh doanh có thể là người thành lập doanh nghiệp, người đại
diện, người được ủy quyền, nhân viên tư vấn, môi giới thủ tục thành lập doanh nghiệp và một số chủ thể khác,
nhưng những chủ thể trên phải thỏa điều kiện được quy định giống như chủ thể thành lập doanh nghiệp. Trong
điều 13 của Luật doanh nghiệp 2005 có quy định khá cụ thể là tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân
nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật doanh nghiệp
2005. Qua đó thì chủ thể của đăng ký doanh nghiệp bao gồm cá nhân và tổ chức.
1.2.1.1. Chủ thể là cá nhân
Cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên, phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tức là không bị mất năng lực
hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không thuộc người đang chấp hành hình phạt tù hoặc
đang bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh, không phải là cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức, đồng thời cũng không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong
các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh
nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý phần vốn
góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản. Luật
doanh nghiệp 1999 quy định người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự không có quyền thành lập và quản lý
doanh nghiệp. Theo phân tích của tiến sĩ Nguyễn Kỳ Việt Phó Chủ tịch trung tâm trọng tài thương mại Cần Thơ
ở đây thì "Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự" thì không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp,
nhưng một người chỉ bị cứu trách nhiệm hình sự chưa thể kết luận là có tội. Nếu Viện kiểm sát truy tố, Tòa án
xét xử lại tuyên không phạm tội thì cũng không có tội. Theo điều 9 của Bộ luật tố tụng hình sự thì "Không ai bị
coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật". Vì thế quy
định người bị truy cứu trách nhiệm hình sự không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp là đã xâm phạm
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 19

SVTH: Nguyễn Trung Đang



Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

đến quyền công dân của họ. Cho nên Luật doanh nghiệp 2005 quy định người đang bị tạm giam (mất tự do dù
là tạm thời) thì không thể thành lập và quản lý doanh nghiệp cũng như đăng ký doanh nghiệp được là một sữa
đổi phù hợp và tiến bộ.
1.2.1.2. Chủ thể là tổ chức
Tổ chức phải có tư cách pháp nhân bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài nước và không phân biệt
nơi đăng ký trụ sở chính, phải có năng lực pháp lực và năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tức là tổ chức đó phải
được thành lập hợp pháp, phải tồn tại trên thực tế và có tài sản riêng. Các tổ chức không được phép thành lập
doanh nghiệp hay đăng ký doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2005 là cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng
vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho
cơ quan, đơn vị mình. Luật doanh nghiệp 2005 thì được chỉnh sửa một chút thay từ pháp nhân thành tổ chức.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì không phải tổ chức nào cũng có tư cách pháp nhân nhưng về phương
diện pháp luật thì tổ chức được khái niệm rộng hơn pháp nhân. Một điểm đáng nói ở đây là sự điều chỉnh của
Luật doanh nghiệp 2005 đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài không cần thỏa mãn về điều kiện cư trú vẫn có
quyền thành lập và đăng ký doanh nghiệp, so với quy định Luật doanh nghiệp 1999 tổ chức, cá nhân nước
ngoài phải thường trú tại Việt Nam thì mới có quyền thành lập và đăng ký doanh nghiệp, điều đó cho thấy điểm
tiến bộ của Luật doanh nghiệp 2005 đủ để chứng minh pháp luật nước ta ngày càng phát triển hoàn thiện hơn.
1.2.2. Điều kiện về ngành nghề kinh doanh
Xác định được ngành, nghề kinh doanh cho doanh nghiệp là một vấn đề rất quan trọng vì ngoài thủ tục
đăng ký kinh doanh thông thường, ở một số loại ngành, nghề khác các nhà đầu tư còn phải xin thêm giấy phép
kinh doanh, phải có chứng chỉ hành nghề, hoặc phải đáp ứng thêm một số điều kiện đặc thù của ngành nghề đó
mà pháp luật quy định cũng như phải thực hiện đúng các điều kiện đó trong suốt quá trình hoạt động kinh
doanh. Hiện nay, theo quy định của pháp luật nước ta có thể chia ra làm ba loại hình của ngành nghề kinh
doanh chính mà đòi hỏi nhà đầu tư phải thỏa mãn thêm một số yêu cầu đối với việc đăng ký kinh doanh. Đó là,
các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, các ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định, và các ngành,
nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề.
Đối với ngành, nghề mà pháp luật quy đinh phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh

ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện theo quy định, doanh nghiệp có quyền chủ động đăng ký và thực hiện kinh
doanh mà không cần phải xin phép, xin chấp thuận, hỏi ý kiến bất cứ cơ quan nhà nước có thẩm nào nếu ngành,
nghề kinh doanh đó không thuộc ngành, nghề cấm kinh doanh hoặc không thuộc ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Trên cơ sở đó cơ quan đăng ký doanh nghiệp thực hiện
việc đăng ký ngành, nghề theo mã số quy định và ghi vào giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp đăng ký ngành, nghề kinh doanh mới, chưa có trong danh mục trên thì cơ
quan đăng ký doang nghiệp thực hiện việc đăng ký cho doanh nghiệp bình thường đồng thời phải thông báo
bằng văn bản với liên Bộ kế hoạch và đầu tư và Tổng cục thống kê để có văn bản hướng dẫn nếu ngành nghề
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 20

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

kinh doanh mới đó là ngành nghề cấp I còn nếu là ngành, nghề mới đó là cấp II, III, IV theo Quyết định số
10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007của Thủ tướng Chính phủ thì cơ quan đăng ký doanh nghiệp báo
cáo với Bộ kế hoạch và đầu tư để Bộ thống nhất mã số mới cho ngành, nghề đó.
Cơ quan đăng ký doanh nghiệp không được từ chối việc đăng ký các ngành, nghề kinh doanh không
thuộc diện pháp luật cấm kinh doanh, kể cả những ngành, nghề chưa có trong danh mục ngành, nghề kinh
doanh sử dụng trong đăng ký doanh nghiệp. Sau đây là một số quy định của pháp luật về điều kiện ngành, nghề
trong đăng ký doanh nghiệp.
1.2.2.1. Các ngành, nghề bị cấm kinh doanh
Các ngành nghề bị cấm kinh doanh là các ngành, nghề gây nhiều phương hại đến quốc phòng, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và sức khỏe của
nhân dân.

Theo quy định tại điều 7 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/01/2010 hướng dẫn thi hành môt số điều
của Luật doanh nghiệp 2005 và Nghị định 43/2009/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung danh mục
hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 hướng dẫn thi
hành Luật thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện, và
được quy định cụ thể trong phần phụ lục I danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh.
Ngày 30/12/2009 Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản số 369/TB-VPCP yêu cầu không được tổ chức
và thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi hình thức, mọi hoạt động liên quan đến
kinh doanh sàn giao dịch vàng phải chấm dứt hoạt động trước ngày 30/3/2010, đồng thời Thủ tướng cũng yêu
cầu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bãi bỏ ngay quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở
nước ngoài theo Quyết định số 3/2006/QĐ-NHNN ngày 18/1/2006. Kinh doanh vàng trên tài khoản là hoạt
động đầu tư tài chính ở cấp cao và chuyên nghiệp chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro rất cao, hoạt động này hoàn
toàn tương đồng với hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa và ở mức độ nhất định và có nhiều
điểm tương đồng với hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán, các nhà kinh doanh mua vàng trên tài
khoản với giá thỏa thuận vào thời điểm hiện tại, nhưng mới phải nộp tiền ký quỹ bằng một phần giá trị hợp
đồng, và sẽ chỉ thanh toán và nhận vàng vào thời điểm ấn định trong tương lai.

Lý do kinh doanh vàng trên

tài khoản bị cấm là thiếu quy chế pháp lý cho hoạt động cụ thể, mang tính rủi ro cao và ảnh hưởng trực tiếp đến
nền kinh tế. Nhưng cũng phải nhìn nhận nhiều ưu điểm của nó, kinh doanh vàng trên tài khoản đem lại cho
nhiều nhà đầu tư khoản lợi lớn làm cho nhà đầu tư bớt tập trung vào vàng vật chất, vàng kinh doanh là ảo sẽ
không dẫn tới tình trạng nhập khẩu vàng ồ ạt, hoạt động giao dịch mua - bán là thông qua sàn nên hoàn toàn có
thể kiểm soát được khối lượng mua - bán vàng, đồng thời giá giao dịch là khách quan và có sự liên thông mật
thiết với giá vàng quốc tế và đây là một nhu cầu kinh doanh của nhiều nhà đầu tư. do đó, ta nên đưa kinh doanh
vàng trên tài khoản vào diện kinh doanh có điều kiện, chúng ta nên tạo ra sân chơi an toàn để thu hút các nhà
đầu tư với một luật chơi chặt chẽ, công bằng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể tham gia vì
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 21


SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

trên thực tế thị trường vàng rất phát triển thay vì chạy theo nhu cầu xã hội để cấm, luật pháp nên cho phép các
hoạt động này được tiến hành và quy định rõ điều kiện thực hiện, chúng ta cần xây dựng một quy chế cụ thể và
một hệ thống pháp luật để cho phép kinh doanh sàn vàng.
1.2.2.2. Các ngành nghề hạn chế kinh doanh
Các ngành nghề hạn chế kinh doanh là các ngành nghề có thể gây mất trật tự công cộng, gây nhiều bất
lợi cho xã hội thất thoát nhiều ngân sách nhà nước và người dân
1.2.2.3. Các ngành nghề kinh doanh phải có điều kiện trước khi đăng ký kinh doanh
· Các ngành nghề kinh doanh cần phải có chứng chỉ hành nghề
Chứng chỉ hành nghề là văn bản mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hoặc hiệp hội nghề
nghiệp được Nhà nước ủy quyền cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về
một ngành, nghề nhất định. Người có chứng chỉ hành nghề được đăng ký trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và
phải chịu trách nhiệm về việc tuân thủ đúng các quy định về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Chứng chỉ hành nghề chỉ cấp cho cá nhân không cấp cho tổ chức.
· Các ngành nghề kinh doanh cần phải có vốn pháp định
Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu mà doanh nghiệp phải có theo quy định của pháp luật để thành lập
doanh nghiệp và trong suốt quá trình kinh doanh, vốn sở hữu của doanh nghiệp không được thấp hơn số vốn
pháp định hay có thể hiểu vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập
doanh nghiệp hoặc bổ sung hoạt động kinh doanh. Mức vốn pháp định được cụ thể do cơ quan có thẩm quyền
quản lý nhà nước về vốn pháp định, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định.
Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc (Tổng giám đốc) đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn, Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) đối với công ty cổ phần, tất cả các
thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh và chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp tư
nhân phải chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác của vốn được xác nhận là vốn pháp định khi thành

lập doanh nghiệp. Doanh nghiệp có nghĩa vụ bảo đảm mức vốn điều lệ thực tế không thấp hơn mức vốn pháp
định đã được xác nhận trong cả quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với đăng ký thành lập doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề phải có vốn pháp định, trong hồ sơ
đăng ký doanh nghiệp phải có thêm xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định.
Người trực tiếp xác nhận vốn pháp định cùng liên đới chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của số vốn
tại thời điểm xác nhận.
Đối với doanh nghiệp đăng ký bổ sung ngành, nghề phải có vốn pháp định thì không yêu cầu phải có
thêm xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định nếu vốn chủ sở hữu được ghi trong
bảng tổng kết tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm không quá 03 tháng, kể từ ngày nộp hồ sơ, lớn hơn hoặc
bằng mức vốn pháp định theo quy định.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 22

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

Việc một số ngành nghề quy định mức vốn pháp định là nhằm bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng
và chủ nợ của các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề đó. Cơ quan xác nhận mức vốn pháp định phải
luôn giám sát số vốn sở hữu của doanh nghiệp để cảnh báo cho người tiêu dùng và chủ nợ khi vốn chủ sở hữu
của doanh nghiệp có nguy cơ bị giảm sút dưới mức vốn pháp định và kịp thời có biện pháp quản lý cần thiết khi
số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp giảm dưới mức vốn pháp định.
· Các ngành nghề kinh doanh cần phải có điều kiện về an ninh, trật tự
Để tăng cường công tác bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quyền kinh doanh của
các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh doanh góp phấn phát triển kinh tế xã hội, chính phủ quy định về an

ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh mà trong quá trình hoạt động có liên quan nhiều đến an
ninh, trật tự an toàn xã hội.
Mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi kinh
doanh tại việt Nam trong những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự thì không phân biệt
thành phần kinh tế điều phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam.
Các ngành, nghề kinh doanh cần phải có điều kiện về an ninh, trật tự được quy định tại điều 1 Nghị định
72/2009/NĐ-CP ngày 03/09/2009 quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện. Riêng đối với các hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ, chính phủ có văn bản quy định riêng điều
kiện về an ninh, trật tự.
1.2.3. Những qui định về tên doanh nghiệp
1.2.3.1. Tên doanh nghiệp
Việc đặt tên doanh nghiệp trong Nghị định 43/2010/NĐ-CP được mở rộng hơn so với trước đây, phần
tên của doanh nghiệp phải viết được bằng các chữ cái trong Bảng chữ cái tiếng Việt, chữ số và ký hiệu, phát âm
được và bao gồm hai thành tố. Đầu tiên là loại hình doanh nghiệp, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, cụm
từ trách nhiệm hữu hạn có thể viết tắt là TNHH; công ty cổ phần, cụm từ cổ phần có thể viết tắt là CP; công ty
hợp danh, cụm từ hợp danh có thể viết tắt là HD; doanh nghiệp tư nhân, cụm từ tư nhân có thể viết tắt là TN.
Sau đó là tên riêng của doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ được sử dụng ngành, nghề kinh doanh, hình thức đầu tư
để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có đăng ký ngành, nghề đó hoặc thực hiện đầu tư
theo hình thức đó. Tên tập đoàn kinh tế nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định, đây là điểm mới của
Nghị định 43/2010/NĐ-CP. Bên cạnh đó Nghị định 88/2006/NĐ-CP quy định riêng doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước nước ngoài có thể sử dụng tên riêng bằng tiếng nước ngoài đã đăng ký để cấu thành một phần hoặc toàn
bộ tên riêng của doanh nghiệp, nhưng Nghị định 43/2010/NĐ-CP thì lại không có quy định về vấn đề này. Một
điểm mới trong Nghị định 43/2010/NĐ-CP này là hết sức cần thiết mà từ trước tới nay chưa thấy có một điều
luật nào quy định điều chỉnh về tên của chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh, ngoài những quy
định trên về tên của doanh nghiệp thì tên của chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh còn phải

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 23


SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

mang tên doanh nghiệp đồng thời kèm theo cụm từ "Chi nhánh" đối với đăng ký thành lập chi nhánh, cụm từ
"Văn phòng đại diện" đối với đăng ký thành lập văn phòng đại diện, hình thức tổ chức của địa điểm kinh doanh.
Tên doanh nghiệp phải được viết hoặc gắn tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh
nghiệp và phải được in hoặc viết trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát
hành.
Các doanh nghiệp đã đăng ký tên phù hợp với quy định tại Nghị định số 88/2006/NĐ-CP nhưng không
phù hợp với quy định tại Nghị định 43/2010/ NĐ-CP này thì không bắt buộc phải đăng ký đổi tên. Khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có tên trùng và tên gây nhầm lẫn tự thương lượng với
nhau để đăng ký đổi tên doanh nghiệp hoặc bổ sung tên địa danh để làm yếu tố phân biệt tên doanh nghiệp, các
doanh nghiệp có thể bổ sung tên địa danh nơi mà doanh nghiệp đặt trụ sở chính để làm yếu tố phân biệt tên
doanh nghiệp.
Trước khi đăng ký đặt tên doanh nghiệp, doanh nghiệp tham khảo tên các doanh nghiệp đang hoạt động
lưu giữ tại cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền chấp thuận
hoặc từ chối tên dự kiến đăng ký của doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật và quyết định của cơ quan
đăng ký kinh doanh là quyết định cuối cùng.
1.2.3.2. Tên doanh nghiệp viết bằng tiếng nước ngoài và tên viết tắt của doanh nghiệp
Tên doanh nghiệp có thể được đặt bằng tiếng nước ngoài nhưng phải dịch được sang tiếng Việt, tên bằng
tiếng nước ngoài của doanh nghiệp được in hoặc viết với khổ chữ nhỏ hơn tên bằng tiếng Việt của doanh
nghiệp tại cơ sở của doanh nghiệp hoặc trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp
phát hành. Tên viết tắt của doanh nghiệp được viết tắt từ tên bằng tiếng Việt hoặc tên viết bằng tiếng nước
ngoài.
1.2.3.3. Những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp
Nghị định 88/2006/NĐ-CP quy định không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh

nghiệp khác đã đăng ký chỉ trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đây là quy định khá rộng cho
các nhà doanh nghiệp qua nhiều năm áp dụng đã thấy nhiều bất cập cần phải chỉnh sửa, nay Nghị định
43/2010/NĐ-CP ra đời đã thu hẹp phạm vi về việc đặt tên cho doanh nghiệp có tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn
với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký trong phạm vi toàn quốc, trừ những doanh nghiệp đã bị thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã giải thể. Đây chính là điểm mới của Nghị định
43/2010/NĐ-CP. Đồng thời doanh nghiệp không được sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang
nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh
nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó. Không được sử dụng từ ngữ, ký
hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc, tên danh nhân để đặt
tên riêng cho doanh nghiệp.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 24

SVTH: Nguyễn Trung Đang


Luận văn tốt nghiệp

Thủ tục đăng ký doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn

Từ những vấn đề pháp lý trên là những vấn đề cần thiết làm hành trang cho các nhà đầu tư bước vào
thương trường Việt Nam mà cần phải tìm hiểu trước khi muốn thành lập được một doanh nghiệp trong khuôn
khổ của pháp luật Việt Nam, không dừng lại ở đó để có được một doanh nghiệp hoạt động thật sự thì các nhà
đầu tư cần phải tiến hành nhiều thủ tục pháp lý theo quy định của pháp luật, đó là quá trình đăng ký doanh
nghiệp mà người viết sẽ trình bày giúp các nhà đầu tư hiểu rõ vấn đề hơn trong phần tiếp theo.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận


Trang 25

SVTH: Nguyễn Trung Đang


×