Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Góp phần tìm hiểu thêm về chính sách Dinh điền và khu Trù mật của Mĩ-Diệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.86 KB, 7 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 24 (49) - Tháng 01/2017

Góp phần tìm hiểu thêm về chính sách Dinh điền và
khu Trù mật của Mĩ-Diệm
Contribution to the study of Resettlement projects and Agroviles
policy of The U.S and Ngo Dinh Diem Government
ThS. NCS. Nguyễn Vũ Thu Phương
T ư ng
h
n
Nguyen Vu Thu Phuong, M.A. Ph.D. student.
Saigon University
Tóm tắt
Trong suốt những năm thống trị miền Nam Việt Nam, chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ ln o bình
định là chính sách chiến lượ ơ bản h ng đầu. ể thực hiện được mụ t êu đó, Mĩ-Diệm đã th h nh ất
nhiều chính sách, cụ thể như: Luật 10/59, cả á h đ ền địa, lập “khu D nh đ ền”, “khu Trù mật”, “tố
cộng, diệt cộng”,… Tuy nhiên, trong bài viết này chỉ tập trung nghiên cứu hính sá h “D nh đ ền” v
“khu Trù mật” để phán ánh đầy đủ về những âm mưu v thủ đo n của chính quyền này trong việc lừa
bịp nơng dân, biến nơng thơn miền Nam Việt Nam th nh “pháo đ hống Cộng”, ngăn hặn làn sóng
cách m ng, và củng cố chế độ thống trị của Mĩ-Diệm.
Từ khóa: Dinh điền, khu Trù mật, chính quyền Mĩ - Diệm, nơng thơn.
Abstract
During the years of dominating South Vietnam, the US and Ngo Dinh Diem government has established
many policies such as migration policy after the Geneva Agreement, Law 10-59, Agrarian reform,
resettlement projects, and agrovilles. By analyzing the U. . and D em’s “Rural pacification” policy
through “ esettlement p oje ts and ag ov lles”, th s a t le fully eveals the plot and t ks used by th s
government to deceive farmers, turning South Vietnam into an “anti-communist bastion”, stopping the
revolutionary waves, and consolidating their domination over South Vietnam.
Keywords: Resettlement projects, Agrovilles, US-Diem government, rural.



nơng thơn vừa ngăn hặn lự lượng cách
m ng ảnh hưởng vào nơng thơn, biến miền
Nam thành thuộ địa của chủ nghĩa thực
dân mớ , ngăn hặn ảnh hưởng của làn
sóng cộng sản phát triển ở khu vự
ơng
Nam Á? ể thực hiện ý đồ trên, chính
quyền Ngơ ình D ệm đã ho a đ i nhiều
hính sá h “Tố cộng, diệt cộng”, Luật 1059, “Cả á h đ ền địa”, lập “D nh đ ền” v

1. Đặt vấn đề
Dưới sự g úp đỡ của Mĩ, ng y 7-71954, Ngơ ình D ệm chính thức lập chính
phủ ở Sài Gòn, mở đầu một chế độ độc tài,
g a đình t ị ở miền Nam Việt Nam. Lên
nắm chính quyền, Ngơ ình D ệm nhận
thứ được rằng muốn củng cố chế độ thống
trị thì phải lơi kéo cho bằng được nơng
dân. Nhưng l m á h n o vừa ổn định
82


“Khu trù mật”,… Các chính sách vừa nối
tiếp nhau, vừa song song với nhau; chính
sách sau quy mô và nham hiểm hơn chính
sách trước, gây ảnh hưởng không nhỏ đến
đ i sống của nhân dân miền Nam. ó
chính là nguyên nhân làm bùng nổ những
cuộc đấu tranh chống Mĩ - Diệm trên toàn
miền Nam Việt Nam trong giai đo n này.

2. Nội dung
2.1. Chính sách “khu Dinh điền”
Khu Dinh điền là khu định cư chính
quyền Ngô ình Diệm lập ra từ năm 1957
t i những vùng xung yếu d c biên giới và
vùng đệm giữa miền núi v đồng bằng
giành cho một bộ phận dân cư dân tộc ít
ngư i, một phần cư dân các tỉnh đồng bằng
và phần lớn dân di cứ từ miền Bắc vào.
Trên danh nghĩa l thực hiện chính sách
“Tái định cư v cứu tế dân di cư”, thực
chất khu Dinh điền là những tr i tập trung
trá hình nhằm mục đích an ninh nhiều hơn
kinh tế, nhằm t o lập tuyến ngăn chặn lực
lượng cách m ng xâm nhập đồng bằng và
đô thị, ngăn cách các trung tâm đông dân
cư với những vùng căn cứ địa cách m ng
miền núi; bố trí và phát triển lực lượng của
chính quyền Sài Gòn, tổ chức các ho t
động thu thập tình báo, tin tức, xây dựng
địa bàn xuất phát các cuộc hành quân tảo
thanh ở miền núi. Chính quyền Ngô ình
Diệm đã xác định: “Khu Dinh điền là biện
pháp xẻ đư ng…” [8, tr.355-356].
Việc thành lập các khu Dinh điền
nhằm mục đích xây dựng hậu thuẫn chính
trị cho chế độ của Ngô ình Diệm: “Khu
dinh điền là biện pháp xẻ đường đưa dân
vào chiến khu, mật khu Việt Cộng, dùng
dân để đẩy cộng sản ra khỏi vùng đó, và

dinh điền là nơi cung cấp tin tình báo, nơi
xuất phát để hành quân ngăn chặn xâm
nhập.” [4, tr.129]. Ng y 23/ 4/1957, MĩDiệm bắt đầu thực hiện chính sách “Khu

Dinh điền”. Diệm ban Sắc lệnh số 103TTP giải tán Phủ Tổng ủy phủ di cư” th nh
lập Phủ Tổng ủy phủ Dinh điền (trực thuộc
Phủ Tổng thống), đặt các chức vụ từ Tổng
Ủy trưởng đến Ban Trị sự địa điểm. Tất cả
phương tiện và nhân viên thuộc chương
trình di cư được chuyển sang cho Dinh
điền sử dụng.
Tổ chức bộ máy hành chính của Dinh
điền gồm: Tổng ủy phủ đứng đầu là Tổng
ủy trưởng (ngang bộ trưởng) dưới là các
vùng hoặc các dinh điền do một quản đốc
vùng hay khu trưởng phụ trách, dưới nữa là
các trưởng tr i dinh điền. Ở Tổng ủy phủ
dinh điền có các nha: kĩ thuật, tài chính,
định cư… và các ban: an ninh, thanh tra,
công chính,… chịu trách nhiệm điều hành
và v ch kế ho ch h nh động. T i các vùng
hoặc các khu dinh điền có các nhân viên
phụ tá các mặt, giúp khu trưởng điều hành
công việc. Các khu trị sự địa điểm do địa
điểm trưởng điều hành và các nhân viên
giúp việc ở những địa điểm cụ thể. Với
nhiệm vụ xây dựng hệ thống Dinh điền,
“nhằm thiết kế những đơn vụ hành chánh
có võ trang tại thôn quê để tự bảo vệ và
được huấn luyện chính trị, để từ đó đan

vào nhau thành một hàng rào vừa phòng
ngự vừa tấn công, xem đó như là một sách
lược quan trọng khã dĩ có thể công phá
được lọ chiến tranh du kích của cộng sản
tại chiến trường miền Nam…” [2, tr.117],
biến nông thôn thành những tr i tập trung
để tiến hành kiểm soát dân chúng, thực
hiện “tát nước, bắt cá”. Một khu Dinh điền
được tổ chức thành nhiều liên gia. Mỗi liên
gia gồm từ năm đến 7 gia đình. Liên gia
trưởng chịu trách nhiệm điều động và kiểm
soát những gia đình trong liên gia mình.
M i ngư i ra hay khu Dinh điền phải được
phép và chịu sự kiểm tra của nhân viên
Dinh điền. Thanh niên trong các Dinh điền
83


đều bắt buộc phải luyện tập quân sự và sẵn
sàng tham gia quân dịch khi có lệnh.
Thực thi chính sách khu Dinh điền,
chính quyền Mĩ-Diệm tiến h nh đưa số dân
miền Bắc di cư, v đồng bào ở các tỉnh
đồng bằng lên vùng rừng núi d c biên giới
từ Kon Tum đến miền ông Nam Bộ, đó l
những vùng “kinh tế mới”, lấy đất đai của
dân chúng sở t i, thành lập các khu dân cư
tập trung. Các khu Dinh điền được thiết lập
theo từng xứ đ o, h đ o. Ví dụ khu dinh
điền Hố Nai l dân di cư công giáo xứ Bùi

Chu. Khu Dinh điền Mương Mán (Bình
Thuận) l dân di cư thuộc xứ h đ o Th
Ninh v ông Tr ng (đều thuộc h t Nghĩa
Yên, địa phận Vinh trước đây). ồng th i,
chính quyền Diệm đưa thân tín vào trong
các Dinh điền làm tai mắt cho chính quyền,
kiểm soát m i sinh ho t của dân chúng.
Bên c nh đó, c n áp dụng những chính
sách ưu đãi cho những khu Dinh điền này,
để t o ra bộ mặt nông thôn phát triển “phồn
vinh” nhằm đề cao cho chế độ Diệm,
khẳng định tính ưu việt của chính sách thực
dân mới Mĩ. Mỗi hộ gia đình được cấp đất,
gỗ, tranh tre, tôn để làm nhà theo một quy
ho ch nhất định; trợ cấp, cho vay tiền để
sắm dụng cụ, mua h t giống, phân bón để
tiến hành sản xuất và chi tiêu hàng ngày.
Hơn nữa, chính quyền đã lấy cớ sắp xếp
nhà cửa ở thành phố, thị xã nơi đồng bào di
cư đang cư trú để đẩy hàng lo t các gia
đình không muốn v o khu Dinh điền bắt
buộc phải ra đi. Chính quyền còn cho tổ
chức những vụ đốt nhà, gây hỏa ho n bí
mật từ đó buộc dân chúng phải từ bỏ nhà
cửa, ruộng vư n v o các khu Dinh điền,…
Tính từ năm 1955 đến 1960, Mĩ-Diệm
đã tổ chức xây dựng được 146 địa điểm
Dinh điền tập trung gồm 20 v n nông dân
di cư. Các vùng Dinh điền được thiết lập ở
Tây Nguyên d c theo biên giới Việt-Lào,


Việt-Campuchia, vùng cao nguyên xung
quanh Buôn Mê Thuột. Vùng đồi núi cao
nguyên d c quốc lộ 14, 20, 13, vùng đồi
núi cao nguyên phía Tây tỉnh Bình Thuận
cũng l các vùng Dinh điền. Lập các khu
Dinh điền Tây Nguyên chính quyền địch
c n ép các đồng bào dân tộc phải như ng
nương rẫy cho đồng b o di cư v dân di cư
được thể chính quyền bênh vực tiến hành
ăn hiếp ngư i dân tộc gây ra sự chống đối
lớn của các đồng bào dân tộc thiểu số với
chính quyền. Tài liệu Lầu Năm óc có ghi:
“Chúng (các kế hoạch định cư) cũng nhanh
chóng gây ra những phản ứng chính trị bất
ngờ của những người dân vùng núi Tây
Nguyên. Rốt cuộc do đưa người Kinh vào
những vùng vốn xưa này của người dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên, và do tập trung họ
vào các khu có thể bảo vệ được chính phủ
của Nam Việt Nam đã tạo ra lí do để đấu
tranh và hướng nỗi bất bình của họ chĩa
vào Diệm. Do vậy, chính phủ Nam Việt
Nam đã tạo ra điều kiện chứ không phải
ngăn chặn để sau này Việt Cộng hoạt động
lật đổ trong các bộ lạc.” [1, tr.112]
Mĩ-Diệm cho lập các khu Dinh điền
vào trung tâm các chiến khu miền ông
như Sình, B
ả, Váng Khương, Bàu Cá

Trê, Nước V ng, Căm Xe, Xóm Ruộng,
ồng Hưu, Nh Bè, B i L i,… Ở Trung
Nam Bộ, lập các khu Dinh điền ở vùng ven
biên giới Việt-Campuchia ở Mộc Hóa và
các vùng Gò Xà Rài ở phía Bắc ồng Tháp
Mư i. Ở phía Bắc ồng Tháp Mư i, Tây
Nam Bộ, lập khu Dinh điền ở Tân Hiệp
(Kiên Giang), Thới Bình (An Xuyên), vùng
trung tâm căn cứ của cách m ng miền Nam
trong kháng chiến chống Pháp. Như vậy,
các khu Dinh điền đều nằm ở các vùng
chiến lược hoặc tổ chức vào ngay trung
tâm các căn cứ, chiến khu trước đây của
cách m ng. ây l những vùng rừng núi,
84


khu đất ở sát một trục giao thông có tính
chiến lược thuận tiện cho m i cuộc can
thiệp quân sự khi cần thiết, đối với những
vùng có phong trào kháng chiến m nh hay
những vùng kháng chiến cũ sau khi ch n
được đất, chính quyền Ngô ình Diệm
dùng b o lực đ n áp v dồn dân vào những
nơi quy định, dùng quân đội, đ n áp, cưỡng
bách bắt xâu, đuổi nhà, gom dân, phá
ruộng vư n và phá nhà cửa của dân [3,
tr.136]. Không dừng l i đó, chính quyền
Ngô ình Diệm tổ chức “ban trưng dịch”
nhằm càn quét các ấp, làng. T Cách m ng

Quốc gia – cơ quan ngôn luận của chính
quyền Diệm ra sức quảng bá cho kê ho ch
xây dựng khu Trù mật, cũng phải thừa
nhận rằng “khó khăn lớn nhất là làm thế
nào cho người dân chịu rời khỏi nơi họ đã
sinh sống nhiều năm, nơi học có nhà cửa,
vườn tược kiếm sống một cách dễ dàng,…
bao giờ người ta cũng có khuýnh hướng
cho rằng việc rời nhà là chuyện bắt buộc
trái với ý muốn của mình [9, tr.339].
Chính quyền Ngô ình Diệm kiểm
soát rất chặt, quản lý h ng hóa, lương thực
của nhân dân rất chặt chẽ, xây dựng một
kho lúa công cộng, mỗi gia đình chỉ nhận
đủ lúa ăn trong tháng, c n l i phải nhập
v o kho. Ngư i dân sống trong “khu Trù
mật” bị theo dõi, kiểm soát. Mỗi khu có
một Ban đ i diện gồm: Trưởng Ban phụ
trách chung, một ủy viên tài chính kiêm
Chủ tịch hiệp hội nông dân, một ủy viên
cảnh sát, một ủy viên phụ trách hộ tịch
kiêm y tế. Dưới Ban đ i diện khu là Ban
đ i diện ấp. Các Ban đ i diện khu, ấp đều
là những tên tay sai đắc lực được điều từ
nơi khác về hoặc được cấp trên của chúng
tuyển ch n, chỉ định. Dưới ấp, các gia đình
được ghép l i th nh ngũ gia liên bảo, có
một liên gia trưởng và một liên gia phó
cũng do trên chỉ định. Chúng xếp các gia


cao nguyên, biên giới, những vùng xa xôi,
gây bất mãn lớn trong đồng b o di cư.
“Việc mở những trung tâm Dinh điền để
định cư số giáo dân Bắc Việt di cư và một
số dân di cư chuyển từ miền Trung lên,
bằng cách chiếm đất của người Thượng,
chiếm súc vật, những đồng cỏ nuôi súc vật
và chiếm những khu rừng gỗ của họ,… một
cách ngang nhiên… đã đẩy người Thượng
vào thế kẻ thù của người Kinh, của Việt
Nam Cộng Hòa.” [6, tr.268]. Nhưng
chương trình Dinh điền cũng đã giúp cho
chính quyền Mĩ-Diệm ổn định cuộc sống
cho ngư i di cư, giải quyết gánh nặng kinh
tế chính trị cho gần 1 triệu ngư i dân miền
Bắc di cư đem l i. Bằng biện pháp dùng
b o lực cưỡng ép là chính, các Khu Dinh
điền bị nhân dân chống phá quyết liệt nên
từ năm 1959, Chính quyền Ngô ình Diệm
phải chuyển sang thực hiện chính sách Khu
Trù mật” [8, tr.355-356].
2.2. Chính sách “Khu Trù mật”
Khu Trù mật là khu định cư bắt buộc
tựa như Khu Dinh điền, nhưng được Chính
quyền Ngô ình Diệm lập ra ở cả miền núi
v đồng bằng, chủ yếu l các vùng đông
dân, các địa bàn chiến lược quan tr ng
nhằm thực hiện chính sách bình định của
Mĩ ở miền Nam Việt Nam [8, tr.355-356]
Chính sách khu trù mật là hệ quả của

sự thất b i của chính sách “Dinh điền” v
phong tr o đấu tranh chống dồn dân, cướp
đất, đuổi nhà diễn ra m nh mẽ của nhân
dân miền Nam. Ngày 7-7-1959, Ngô ình
Diệm phát lệnh thành lập “khu Trù mật” để
có thể kết hợp được sự đ n áp bằng b o lực
với sự lừa phỉnh về xã hội và kinh tế, nhằm
bình định nông thôn, khống chế nông dân,
cô lập phong trào cách m ng ngay ở địa
b n cơ sở.
ể lập khu Trù mật, chính quyền Ngô
ình Diệm t i các tỉnh, trước tiên ch n một
85


đình lo i D ở v ng ngo i, đến lo i C, B và
ở giữa l gia đình lo i A. Bắt các gia đình
lo i C, D kiểm soát, theo dõi các gia đình
A, B. Mỗi gia đình phải có t khai ghi rõ
h tên, tuổi, nghề nghiệp và có dán ảnh
từng ngư i. Ngư i dân đi đâu, l m gì đều
phải báo cáo với liên gia trưởng, ấp trưởng,
kiểm soát hết sức gắt gao từ khâu ra v o, đi
l i đến cả ăn ở và thu nhập [3, tr.136].
Chính sách “Khu Trù mật” thể hiện
các mục đích:
Về chính trị, chính quyền Ngô ình
Diệm v tay chân đánh lừa dư luận xây
dựng “khu Trù mật” l để xây dựng các
khu dân cư trong đó ngư i dân có cuộc

sống vật chất v văn hóa cao trên cơ sở
một nền kinh tế trù phú và một nếp sống
dân chủ xã hội tốt đẹp. Bằng b o lực,
Chính quyền Ngô ình Diệm đã cưỡng
bức dân ở các làng nhỏ lẻ khó kiểm soát
vào các khu tập trung lớn, mỗi khu từ
2.000 đến 3.000 ngư i, được chia thành 3
khóm: Nông dân, Công thương v H nh
chính quản trị, đặt dưới sự kiểm soát của
liên cơ quan: Cán bộ h nh chính địa
phương, chuyên viên thiết kế v đ i diện
quân sự. Khu Trù mật được bao quanh bởi
hệ thống hầm hào công sự, tháp canh… để
đề ph ng đối phương đột nhập. Việc đi l i
của dân được kiểm soát nghiêm ngặt [8,
tr.355-356].
Ngày 14/3/1960, khi làm lễ khánh
thành khu Trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu,
Ngô ình Diệm cắt băng khánh th nh
tuyên bố: “Ý nghĩa của khu trù mật là xây
dựng một xã hội mới để thực thi công
bằng, bác ái, đồng tiến xã hội trong một
nước kém mở mang” [7, tr.362-363]. Tuy
nhiên, Báo Cách m ng quốc gia Sài Gòn số
18-2-1960 tiết lộ mục đích đen tối của “khu
trù mật” l : “tách quần chúng ra khỏi những
phần tử cảm tình với cộng sản, lùa cộng sản

vào rừng rồi bị diệt trừ,” [5, tr.23]. Việc
thành lập “khu Trù mật” l nhằm bình định,

khống chế dân, cô lập phong trào cách
m ng ngay ở địa b n cơ sở.
Về quân sự, Mĩ v chính quyền Ngô
ình Diệm nhằm biến miền Nam thành căn
cứ quân sự của Mĩ. ây chính là một mắt
xích quan tr ng trong âm mưu quân sự đó.
Trong khu Trù mật, Mĩ-Diệm ra sức đ o
t o, huấn luyện, trang bị vũ khí, th nh lập
một đ i đội biệt kích, một đ i đội dân vệ
canh gác vòng ngoài, bên trong chúng tổ
chức thanh niên Cộng hòa thành từng cụm
canh gác. Tổ chức này phối hợp với công
an, mật vụ lùng sục suốt ng y đêm. Bên
c nh đó, Mĩ-Diệm mở nhiều cuộc càn quét
nhằm đuổi nh , gom dân v o “khu Trù
mật”. Riêng ở “khu Trù mật Vị Thanh”
(một khu Trù mật kiểu mẫu do chính quyền
Ngô ình Diệm dựng nên) và các xã lân
cận chúng mở 880 cuộc càn quét lớn nhỏ
để bắt lính, gom hàng v n gia đình v o
“khu Trù mật”. ể thực hiện ý đồ của
mình, Mĩ-Diệm dựa vào khủng bố, dùng
công an, mật thám uy hiếp quần chúng,
nhằm làm cho quần chúng khiếp sợ, bị
động theo chế độ thống trị của Mĩ-Diệm.
Về kinh tế-xã hội, chính quyền Sài
Gòn sử dụng nhiều thủ đo n để mị dân
như: tổ chức sản xuất, xây dựng trư ng
h c, bệnh xã, các công trình phúc lợi phục
vụ dân sinh…Tuyên truyền, mục tiêu chính

của khu Trù mật là phối hợp chặt chẽ các
ho t động kinh tế nông thôn thành một hệ
thống nông nghiệp, tiểu công nghiệp vững
chãi v nâng đỡ các ho t động kinh tế đó
để được tiến triển m nh mẽ. Nhưng trên
thực tế, Ngô ình Diệm đã từng tuyên bố:
“Phá nhà, phá vườn rẫy, lấy đất ruộng, bắt
xâu không bồi thường cho ai cả” [3,
tr 138.]. Ở “khu Trù mật”, Mĩ-Diệm đã tổ
chức ra “Ban trưng dịch” do ba sĩ quan phụ
86


trách, lo việc bắt phu đưa đến địa điểm
“khu Trù mật”. Dân tráng từ 18 đến 45 tuổi
phải đi l m mỗi ngư i 10 ng y, đi về bằng
phương tiện của mình, cơm g o, công cụ tự
túc. Bị đẩy v o “khu Trù mật”, nông dân
chẳng những đi l m rất xa, không những
thế khi gặt lúa xong, nông dân không được
đem lúa về nhà, mà phải đem đến “sân
chung”. T i đây, chính quyền sẽ khấu trừ
m i thứ thuế, tô, tiền quyên góp, tiền mua
hình Tổng thống, tiền khẩu hiệu, tiền đóng
góp hàng tháng cho tổ chức phản động...
còn bao nhiêu thì phải gửi vào kho, khi cần
thì đến kho mà lấy. Những biện pháp này
phải phải chăng l “bình đẳng”, l “tự do”
để phát triển kinh tế như chính quyền đã
tung hô. Với ph m vi chật hẹp mà tập trung

hàng v n ngư i sống chen chúc, l i phải
làm vào mùa khô, thiếu nước uống, điều
kiện vệ sinh không có, nên đã gây nhiều
chứng bệnh và thiệt m ng nhiều ngư i.
Nhưng t n ác hơn, l h ng trăm vư n cây
ăn trái, h ng ng n ngôi mộ của đồng bào bị
đ o xới,…
Về văn hóa, muốn biến nơi đây th nh
“Thị Tứ” phồn hoa giả t o, Mĩ-Diệm đã
phổ biến sách báo, phim ảnh đồi trụy và
phản động với mục đích đầu độc thanh
niên Việt Nam, làm cho h lung l c về tư
tưởng, đ o đức, nếp sống. Bên c nh đó,
chính quyền ra sức tuyên truyền chế độ
“Cộng hòa”, “ ảng Cần Lao nhân vị”, sức
m nh Mĩ với mục đích gây tâm lí sợ Mĩ,
làm mất đi ý chí đấu tranh cách m ng, t o
ra tâm lý cầu an, an phận trong nhân dân
miền Nam [3, tr.137-139].
Toàn miền Nam, Mĩ-Diệm đặt kế
ho ch lập trước 80 khu Trù mật “xong khu
trù mật này tiến tới khu trù mật khác, cứ
làm, làm mãi cho đến khi nào nông thôn
trở nên những pháo đài kiến cố của tự do”
[5, tr.23]. Như vậy tính đến năm 1960,

chính quyền Ngô ình Diệm đã lập được
42 “khu trù mật” trên to n miền Nam. Cụ
thể ở miền Tây Nam Bộ, lập 4 khu trù mật
ở R ch Giá, An Giang: Cầu úc (

Quao), Thác Lác (Giồng Riềng), Nam Thái
Sơn (Châu Th nh) v Ba Thê (Tho i Sơn).
Ở Cà Mau lập 5 khu trù mật: Cây Tàng,
Ông ịnh ( ầm Dơi), Khai Quang, Quản
Hảo (sông Ông ốc) và thị trấn Thới Bình.
Ở Sóc Trăng, lập 3 khu trù mật lớn: Phước
Long, Cái Trầu (Châu Thành), Cổ Cò
(Th nh Trị). Ở Vĩnh Long, lập 2 khu trù
mật: Cái ôi (Long Vĩnh, Duyên Hải), Lo
Co (An Trư ng, Càng Long). Ở Cần Thơ,
lập khu trù mật lớn điển hình: Vị Thanh –
Hỏa Lựu. ến cuối năm 1960, chính quyền
S i
n cũng mới chỉ lập được 29 khu
Dinh điền. Năm 1961, Mĩ và chính quyền
Ngô ình Diệm phải bỏ dở kế ho ch này
để thay bằng Ấp chiến lược [8, tr.355-356].
Chính sách “dinh điền”, “khu Trù mật”
của Mĩ-Diệm tiến hành trong th i gian từ
1957-1960 trên khắp địa bàn nông thôn
miền Nam, là một trong những chính sách
“bình định” điển hình của Mĩ-Diệm trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự
v văn hóa, đã t n phá biết bao xóm làng,
đất đai, phong tục tập quán. Thực hiện
chính sách n y Ngô ình iệm muốn quy
thuận lòng dân, tuy nhiên ngay từ khi mới
ra đ i chính sách n y đã đi ngược l i với
những lợi ích và những quyền tối thiểu của
ngư i dân nên đã gặp phải sự chống đối

kịch liệt của nhân dân. iều này tỷ lệ thuận
với nỗi bất bình của nhân dân đối với chính
quyền ngày càng sâu sắc. ó l nguyên
nhân làm bùng nổ những cuộc đấu tranh
chống “khu Dinh điền”, “khu Trù mật” v
châm ngòi nổ cho các phong tr o đấu tranh
chống Mĩ-Diệm trên toàn miền Nam.
3. Kết luận
Trong giai đo n này, chính quyền Mĩ87


Diệm ra sức tập trung, tăng cư ng đầu tư,
củng cố về lực lượng quân sự để chuẩn bị
và thực hiện chiến tranh. ồng th i, phối
kết hợp các biện pháp kinh tế, chính trị,
chiến tranh thực hiện bình định miền Nam
Việt Nam. Mĩ-Diệm đã thực thi các quốc
sách lớn nhằm thu phục nhân dân miền
Nam theo chính sách thực dân mới của Mĩ,
nhưng các quốc sách của Mĩ-Diệm l i đem
l i sự căm phẫn của nhân dân v đều đã
thất b i thảm h i, chính sách bình định đầy
hứa hẹn đó đã tan biến đi cùng với sự mất
an ninh ở nông thôn miền Nam Việt Nam.

3.

4.

5.


6.
7.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. George C. Herring (2004), Cuộc chiến dài
ngày của Hoa Kì và Việt Nam 1950-1975(bản
dịch Ph m Ng c Th ch), Nxb CAND, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Hảo, Nhận định tình hình kinh tế

Ngày nhận bài: 21/3/2016

8.
9.

Việt Nam (1955-1970), tập 1, Ngân hàng
Quốc gia VNCH, Vv.839, TTII.
Nguyễn Thị Thanh Huyền (2014), “Chính
sách “Khu Trù mật” của chính quyền Ngô
ình Diệm những năm 1959-1960”, T p chí
Khoa học và Công nghệ,
i h c KH Huế,
tập 1, số 2.
Lê Hồng Lĩnh (2012), Phong trào Đồng
Khởi của quân dân miền Nam, Nxb Lao
ộng, Hà Nội.
Cao Văn Lượng, Ph m Quang Toàn, Quỳnh
Cư (1981), Tìm hiểu phong trào Đồng Khởi ở
miền Nam Việt Nam, Nxb Hà Nội.
ặng Phong (2007), Kinh tế miền Nam Việt

Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
Tây Nam Bộ 30 năm kháng chiến (19451975), tháng 12/2000.
Từ điển Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb
Q ND, 2011.
Nguyễn Khắc Viện (2008), Miền Nam Việt
Nam từ sau Điện Biên Phủ, Nxb Tri thức.

Biên tập xong: 15/01/2017

88

Duyệt đăng: 20/01/2017



×