Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Đổi mới tư duy và phương thức tự sự trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.59 KB, 12 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 24 (49) - Tháng 01/2017

Đổi mới tư duy và phương thức tự sự trong tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam sau năm 1986
Changes of narrative thinking and method in
Vietnamese historical novels after 1986
TS. Nguyễn Văn Hùng
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
Nguyen Van Hung, Ph.D.
Hue University, College of Sciences

Tóm tắt
Tiểu luận nhận diện, phân tích những đổi mới trong hệ hình tư duy tự sự của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
sau 1986 từ các bình diện cơ bản: người kể chuyện, điểm nhìn tự sự, thời gian tự sự, kết cấu tự sự, diễn
ngơn tự sự và các chiến lược tự sự. Những thể nghiệm sáng tạo mới mẻ của các tiểu thuyết gia về tư duy
và các phương thức tự sự hướng tới phản ánh, luận giải hiện thực lịch sử và con người trong sự phức hợp,
nhiều chiều. Nhìn chung, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 là một bước phát triển mới của tiểu thuyết
lịch sử nói riêng và tiểu thuyết Việt Nam nói chung. Bước phát triển này khơng chỉ là ảnh xạ của những
vấn đề lịch sử, văn hóa, xã hội, khung tri thức thời đại trong khơng gian sáng tạo mới sau 1986, mà còn cả
về phương diện cách tân tiểu thuyết để hòa nhập vào nghệ thuật tiểu thuyết của thế giới.
Từ khóa: luận giải lịch sử, tiểu thuyết lịch sử, tư duy và phương thức tự sự.
Abstract
The essay identifies and analyzes changes in the paradigm of narration in Vietnamese historical novels
after 1986 on basic aspects such as narrator, point of view, narrative time, narrative structure, narrative
discourse and narrative strategy. Vietnamese novelists have experimented new narrative thinking and
methods to reflect and explain the history and human from multi-dimensional perspective. Vietnamese
historical novels after 1986 have made another step in the development of historical novels in particular
and of Vietnamese novels in general. This step of development not only reflects historical, cultural,
social and intellectual issues of the new period of creation, but also innovates Vietnamese novels,


integrating them into international world of novels.
Keywords: historical interpretation, historical novel, narrative thinking and method.

mĩ mới về lịch sử và thể loại văn xi hư
cấu lịch sử; tìm tòi, thể nghiệm tư duy,
phương thức tự sự lịch sử gắn với tinh thần
hiện đại/hậu hiện đại. Lịch sử và diễn giải
lịch sử ln là mối quan tâm của con
người, nhất là khi có một độ lùi nhất định

1. Dẫn nhập
Trong tình hình chung của sự “phục
hưng” thể loại, văn xi hư cấu lịch sử sau
năm 1986 đang làm cuộc chuyển mình với
sự thay đổi trong ngun tắc cảm nhận thế
giới và con người; đề xuất quan niệm thẩm
70


trong cảm nhận cá nhân, được nhà văn nhìn
nhận bằng điểm nhìn văn hóa, triết học lịch
sử và thụ hưởng trên tinh thần nhân văn
hiện đại. Nhiều sự thể nghiệm độc đáo về
phương thức xây dựng nhân vật, kết cấu
tiểu thuyết, mô hình tổ chức tự sự… đã
mang lại những thành tựu lớn lao cho thể
loại văn học lịch sử.
2. Đổi mới tư duy và phương thức
tự sự lịch sử
2.1. Kiến tạo nguyên tắc xây dựng

nhân vật từ điểm tựa đời tư - nhân bản
Vừa mang trong mình những đặc điểm
của tiểu thuyết đương đại đồng thời phải
tuân thủ “luật chơi” riêng của thể loại,
nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử sau năm
1986 có nhiều sự đổi mới về loại hình và
nguyên tắc xây dựng nhân vật lịch sử. Với
thể loại tiểu thuyết lịch sử, thế giới nhân
vật vừa là những con người có thật trong
lịch sử vừa là những con người được nhà
văn hư cấu, tưởng tượng. Thậm chí dù đó
là những “nguyên mẫu” của lịch sử, trước
hết họ vẫn là những nhân vật tiểu thuyết,
được khoác trên mình chiếc áo choàng
nhuốm màu huyền thoại, là nơi gửi gắm
tình cảm sâu kín và tư tưởng nhân sinh,
triết học nhân bản của người nghệ sĩ.
Từ chân dung lịch sử đến chân dung
nghệ thuật, các nhân vật sau năm 1986 hiện
lên không còn là những pho tượng cẩm
thạch vô tri vô giác mà mang một hình hài
chân thực, sống động. Nếu như nhân vật
của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn trước còn
khá đơn giản trong tính cách, nhất phiến
trong tư tưởng, chân dung chủ yếu khắc
họa bằng hành động và lời nói thì nhân vật
giai đoạn này được nhìn nhận ở tính đa trị,
lưỡng diện của nó. Nhiều nhân vật hiện lên
như một trạng thái đời sống, một dòng
chảy tư tưởng, một tiếng nói, một cái nhìn.

Và để thể hiện cái nhìn mới về lịch sử, tác

về thời gian cùng nhu cầu nhận thức lại,
định giá lại lịch sử. Viết trong bầu không
khí dân chủ, bối cảnh hiện đại/hậu hiện đại,
các tiểu thuyết gia đã thể hiện khát vọng
khám phá, giải mã và đối thoại với lịch sử
bằng nhãn quan cá nhân của mình. Không
còn minh họa cho chính trị, không bị hối
thúc bởi hoàn cảnh chiến tranh, người nghệ
sĩ trở thành “nhà thám hiểm cuộc sống”
(M.Kundera). Sứ mệnh thiêng liêng của họ
là khơi mở những khuất lấp, nhìn vào “bề
sâu, bề sau, bề xa” của quá khứ để nối kết
thực tại, gửi gắm niềm tin và khai phóng
tương lai. Từ đó, nhà văn buộc phải tìm
kiếm hình thức mới cho thể loại và không
ngừng cách tân, đổi mới tư duy nghệ thuật
tiểu thuyết.
Đối với các tiểu thuyết gia giai đoạn
trước, dường như câu hỏi “viết về cái gì”
quan trọng hơn là “viết như thế nào”. Thay
vì tìm tòi những hình thức kết cấu mới cho
tiểu thuyết, họ quan tâm nhiều đến yếu tố
chất liệu cũng như độ hoành tráng sử thi và
tính chất giáo huấn từ lịch sử. Xem phương
thức xây dựng tiểu thuyết quan trọng như
chính chất liệu, các nhà văn viết về đề tài
lịch sử sau năm 1986 đã chủ động làm mới,
làm khác bằng việc kiếm tìm những lối viết

hiện đại, mạnh dạn đổi mới tư duy tự sự
lịch sử bằng các phương thức độc đáo.
Trong tinh thần dân chủ hóa và tự do
sáng tác, lĩnh vực thể loại văn xuôi hư cấu
lịch sử bắt đầu hồi sinh và trở thành một
trong những đề tài chủ chốt của văn học
nước nhà. Văn học đã đi đúng vào bản
chất, khám phá lịch sử, văn hóa và con
người ở tầng vỉa sâu của những bí ẩn,
khuất lấp, ý thức và vô thức, khát vọng cao
cả và dục vọng tầm thường. Trong khi
miêu tả lịch sử, nhà văn đã mang lại cho
lịch sử những “gương mặt người”. Lịch sử
trong tiểu thuyết lúc này trở thành lịch sử
71


giả đã đặt các nhân vật trong vô vàn mối
quan hệ đời thường, để nhân vật đối thoại
với chính mình, xoáy sâu vào phần khuất
lấp và bi kịch nội tâm, nơi có sự giao tranh
giữa ánh sáng và bóng tối, phi thường và
đời thường, hữu thức và vô thức, nhằm tìm
ra “tiếng nói tối hậu về con người”. Suy
cho cùng, dẫu là các nhân vật lịch sử, các
vĩ nhân, anh hùng dân tộc, danh nhân văn
hóa, huyền thoại tôn giáo như Trần Thủ Độ
(Bão táp cung đình), Nguyễn Huệ (Sông
Côn mùa lũ, Gió lửa), Từ Đạo Hạnh, Ỷ
Lan (Giàn thiêu), Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly),

Nguyễn Trãi, Lê Lợi (Hội thề, Oan khuất),
Nguyễn Du (Nguyễn Du),… trước tiên họ
vẫn là con người, mà đã là con người thì
luôn bị chi phối và tác động bởi muôn vàn
mối quan hệ phức tạp, ngổn ngang của đời
sống xã hội.
Nhân vật lịch sử sau năm 1986 được
nhìn nhận, khám phá trong muôn vàn mối
quan hệ đời tư, thế sự, khiến nó trở nên gần
gũi, đời thường hơn bao giờ hết. Lịch sử
được “đời thường hóa” từ giác độ nhân bản
và được nhìn ngắm dưới tọa độ đời tư - thế
sự. Bằng cách đan cài, tạo dựng nhiều chủ
đề như tình yêu và ước mơ hạnh phúc, khát
vọng tự do, giải phóng bản năng, ý chí
quyền lực…, Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị
Hảo, Nguyễn Mộng Giác, Nam Dao,
Nguyễn Thế Quang... đã thể hiện cảm quan
về cuộc sống đa chiều, ngổn ngang cùng
quan niệm về con người đa diện, phức tạp.
Chúng ta bắt gặp sự phức tạp, đa đoan
trong tính cách của Nguyễn Huệ (Sông Côn
mùa lũ, Gió lửa), Lê Lợi (Đất trời),
Nguyễn Trãi (Oan khuất), Từ Đạo Hạnh, Ỷ
Lan (Giàn thiêu), Hồ Quý Ly, Trần Khát
Chân (Hồ Quý Ly)…. Những góc tối,
những vùng mờ mà lịch sử “bỏ quên”, nay
đã được soi rọi và giải mã một cách chân
thực, sắc nét.


Chọn Hồ Quý Ly để luận bàn về tư
tưởng đổi mới, ý nghĩa thời thế, Nguyễn
Xuân Khánh đã khắc họa rõ nét hai mặt
tính cách ở cả phần khuất lấp và lộ diện, cả
phần sáng và phần tối của một trong những
nhân vật phức tạp bậc nhất trong lịch sử
Việt Nam. Hành động “tiếm ngôi đoạt vị”
của Hồ Quý Ly là thái độ vứt bỏ lời thề với
nhà Trần (chữ Trung), phũ phàng chà đạp
lên sự yêu vì của Nghệ Tông (chữ Nghĩa),
đang tâm mưu hại những người thân nhất
của mình (chữ Nhân), nhưng trong thâm
tâm, ông tự nhủ ông không vứt bỏ nhân
nghĩa mà “trái lại! Chính vì nhân nghĩa nên
đã vứt bỏ”. Ông chủ trương bằng mọi cách,
mọi giá phải canh tân đất nước, ngăn chặn
sự khủng hoảng, xác lập sức mạnh tự
cường, tự chủ của dân tộc. Hồ Quý Ly
càng lạnh lùng, nghiệt ngã, tàn nhẫn trên
chính trường bao nhiêu thì ông lại càng bộc
lộ sự trắc ẩn, day dứt, đớn đau bấy nhiêu
trong cuộc sống đời tư của mình. Chính
khoảnh khắc sám hối bên tượng người vợ
yêu là “nỗi cô đơn khủng khiếp”, “nỗi cô
đơn của một kẻ thoán nghịch, một kẻ làm
việc lớn”. Nguyễn Xuân Khánh đã khám
phá một góc khuất tâm hồn với những khát
khao thầm kín, thành thực rất người, rất đời
của nhân vật.
Trong Sông Côn mùa lũ, bên cạnh

mạch chảy cuồn cuộn của những chuyển
vần lịch sử, là dòng chảy âm thầm, ám ảnh
và bất diệt của tiếng gọi tình yêu. Người
anh hùng đánh Nam dẹp Bắc bách chiến
bách thắng Nguyễn Huệ suốt một đời ân
hận, day dứt về mối tình đầu ngây dại với
An. Đặt Nguyễn Huệ vào một cuộc tình
không trọn vẹn, trong sự giăng mắc của
quan hệ đời tư, thế sự, Nguyễn Mộng Giác
đã khám phá người anh hùng này ở khía
cạnh đời thường nhất, để thấy ông là người
nặng ân tình và cũng bị bủa vây bởi những
72


giới hạn thường tình.
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm
1986 cũng xây dựng cho mình hệ thống các
nhân vật mang ý nghĩa biểu tượng, song so
với truyền thống, chúng ta nhận thấy đã có
những khác biệt trong quan niệm nghệ
thuật, ý thức thẩm mĩ cũng như cách thức
xây dựng nhân vật. Trong các tiểu thuyết
lịch sử truyền thống, các nhân vật mang ý
nghĩa biểu tượng chủ yếu là những nhân
vật có thật trong lịch sử, chí ít là đã được
ghi lại trong chính sử, nay được nhà văn hư
cấu thêm cho hấp dẫn. Trong khi đó, nhân
vật biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử sau
1986 bên cạnh là các nhân vật có thật trong

lịch sử, còn là những nhân vật được nhà
văn hư cấu, tưởng tượng hoàn toàn. Các
nhân vật như Sử Văn Hoa, Phạm Sinh,
Thanh Mai (Hồ Quý Ly), bà Tổ Cô, Mùi,
Nhụ (Mẫu Thượng Ngàn), giáo Hiến, An,
Lãng, Lợi, Kiên (Sông Côn mùa lũ), Nhuệ
Anh, Ngạn La (Giàn thiêu), Toàn, Thức
(Gió lửa), Gia Tân, Ngô Minh (Bí mật hậu
cung), Cả Hinh, Lụa (Thế kỉ bị mất)… là
những nhân vật hư cấu hoàn toàn nhưng đã
trở thành những biểu tượng sâu sắc.
Ngay trong bản thân nhân vật có thật
trong lịch sử, tính chất và ý nghĩa biểu
tượng so với các tác phẩm giai đoạn trước
đã có sự thay đổi trên nguyên tắc đối thoại,
tinh thần dân chủ và cảm quan cá nhân.
Chân dung biểu tượng không hoàn toàn
thuần khiết như trong tâm thức cộng đồng
và ở nhiều sáng tác trước đó. Nguyễn
Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị
Hảo, Lưu Văn Khuê đã hé mở “một sự thật
khác” về các thần tượng của dân tộc
(Nguyễn Huệ, Trần Khát Chân, Ỷ Lan)
cũng như đối thoại với cái nhìn phiến diện,
một chiều bằng cái nhìn đa chiều, công
bằng hơn về các “tội nhân” (Hồ Quý Ly,
Mặc Đăng Dung). Rõ ràng nhân vật mang

giá trị biểu tượng không hề được xây dựng
một cách đơn phiến, một chiều mà ở đó

luôn có sự tranh biện, đối thoại, một hình
thức “giải huyền thoại” của tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam đương đại.
Có thể nhận thấy, những nhân vật
trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau
1986 không còn là những sản phẩm được
đắp nặn theo một khuôn khổ, kích cỡ có
sẵn mà đã được tái tạo, thụ hưởng trên một
tâm thế hoàn toàn mới. Quan niệm “con
người đời thường”, “không hoàn hảo”, con
người đa trị, phức tạp vừa giống như một
sự đối thoại với quá khứ, khước từ những
quy phạm cũ, vừa đề xuất những giá trị,
nguyên tắc mới để định giá lịch sử và con
người: hệ giá trị nhân bản và nguyên tắc
đối thoại đa chiều. Nhờ đó, văn học có
những khám phá đa diện, nhiều chiều về
con người, mở ra những tầng sâu mới mẻ
và thú vị đời sống đầy bí ẩn, vô cùng vô
tận của những cá thể người sinh động và
gần gũi.
2.2. Những dịch chuyển động hình diễn
ngôn lịch sử - văn hóa
Suy cho cùng, lịch sử là sự diễn giải,
là cách hình dung, là lối tự sự/diễn ngôn
của chủ thể (sử gia/tiểu thuyết gia, cá
nhân/cộng đồng). Với cái nhìn đa nguyên
về thế giới và con người, nhiều vấn đề
trong cuộc sống và nhân sinh tưởng chừng
như là những chân lí tuyệt đối, xác tín, hiển

nhiên thì nay được lật xới lại, soi rọi dưới
nhiều giác độ khác nhau. Đa nguyên lúc
này đồng nghĩa với đa trị. Lịch sử được giả
định như là một “khả năng khác” của đời
sống. Đó thật sự là một bước chuyển đổi hệ
hình tư duy lịch sử của các nhà văn. Sự
chuyển đổi ấy diễn ra trước hết và quan
trọng nhất ở bình diện diễn ngôn lịch sử.
Diễn ngôn trong văn học giai đoạn
trước năm 1986 chủ yếu là diễn ngôn cách
73


vị thế con người, chủ nhân của lịch sử đến
con người, nạn nhân nhỏ bé mang bi kịch
và hệ lụy lịch sử; từ vị thế con người bị
giới hạn bởi kinh nghiệm cộng đồng đến
con người chủ động thụ hưởng, đối thoại
lại lịch sử bằng suy tư, cảm thụ cá nhân.
Trong “khí hậu” hiện đại/hậu hiện đại,
chưa bao giờ, sự đòi hỏi khả năng nắm bắt
hằng số lịch sử, văn hóa trên tinh thần dân
tộc, nhân bản lại trở nên ráo riết với người
cầm bút như vậy. Những tác phẩm của
Nam Dao, Nguyễn Mộng Giác, Võ Thị
Hảo, Nguyễn Xuân Khánh, Trần Thu
Hằng, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Thái Bá
Lợi, Uông Triều… không chỉ dừng lại ở
việc tái hiện các sự kiện, nhân vật lịch sử
mà còn kiếm tìm, lí giải những giá trị cùng

những yếu tố bền vững đảm bảo cho sự
trường tồn của văn hóa dân tộc trong mối
xung đột, xâm thực với văn hóa ngoại lai.
Trong các sáng tác về đề tài lịch sử
của mình, Nguyễn Xuân Khánh đã khởi đi
từ tâm thức đạo Phật và tín ngưỡng văn
hóa bản địa để suy tư về con đường chính
đạo cũng như sức mạnh nội tại trong hành
trình khẳng định “căn cước” dân tộc. Nếu
như ở Hồ Quý Ly, tác giả đã luận giải vấn
đề “hồn nước” - “phần linh thiêng, phần
chìm, phần lặng lẽ và phần thâm thúy của
núi sông” qua tâm thức Phật giáo và tư
tưởng Trần Nhân Tông, thì trong Mẫu
Thượng Ngàn, ông đề cập đến “Hồn Đất”,
“Hương Đất” như là biểu tượng cho sức
mạnh và bản sắc của một phương Đông
huyền bí. Cùng với các thành tố của nền
văn hóa bản địa, thiên nhiên và con người
hiện diện như một sức sống mãnh liệt
nhằm phản kháng trước âm mưu đồng hóa
của văn hóa ngoại lai. Thông qua tín
ngưỡng đa thần độc đáo, niềm tin thiêng
liêng vào sức mạnh của Mẫu, cùng với việc
khám phá cuộc sống đời thường ở một làng

mạng, diễn ngôn dân tộc gắn liền với giai
cấp. Yếu tố đời tư, cuộc sống riêng của mỗi
người ít được quan tâm chú ý, mà được tập
trung cho lí tưởng, quan điểm cách mạng.

Phạm trù cái bi nhường chỗ cho cái hùng,
cái tầm thường, nhỏ bé được thay thế bởi
cái cao cả, lớn lao. Đi cùng với cảm thức
ngợi ca truyền thống, tôn vinh các anh
hùng, danh nhân của dân tộc là diễn ngôn
mang tính khẳng định, chiêm bái, ngưỡng
vọng. Điều này đã ảnh hưởng đến cách
thức lựa chọn, xử lí chất liệu cũng như
cách thức xây dựng nhân vật lịch sử của
các nhà văn.
Sau năm 1986, khi ý thức cá nhân
được khai phóng, lịch sử và diễn ngôn lịch
sử đã mang một hình hài, tinh thần mới.
Lịch sử chỉ là cái cớ, là chất liệu để các tác
giả trình bày những suy tư, trăn trở của
mình về cõi nhân sinh vốn dung chứa vô
vàn những yếu tố tất yếu và ngẫu nhiên,
hợp lí và phi lí. Ở một phương diện nào đó,
chính diễn ngôn văn học với việc kiến tạo
ra thế giới quan mới đã có khả năng thay
đổi thói quen cảm nhận và đánh giá về lịch
sử của người đọc. Nó tìm cách tạo ra ý
nghĩa mới về sự vật, đem lại cho con người
cách nhìn khác/mới về hiện thực lịch sử và
bản chất con người.
Khám phá sự vận động của diễn ngôn
trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau
1986, chúng tôi thấy có sự dịch chuyển
động hình diễn ngôn so với tiểu thuyết lịch
sử những giai đoạn trước đó: Từ diễn ngôn

mang tính khẳng định, chiêm bái, ngưỡng
vọng sang diễn ngôn mang tính giả định,
phân tích, giải thiêng; từ diễn ngôn dân tộc,
đạo lí, giai cấp sang diễn ngôn đời tư, thế
sự, nhân văn; từ diễn ngôn lịch sử - đấu
tranh sang diễn ngôn lịch sử - văn hóa
phong tục… Song song với quá trình đó là
sự “chuyển vai” chủ thể của diễn ngôn: từ
74


quê bán sơn địa ở Bắc Bộ cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX, Nguyễn Xuân Khánh đã vẽ
cho mình một nẻo đi riêng, làm nên một
cuộc hành trình vô cùng thú vị, kiếm tìm
và giải mã sức sống văn hóa Việt qua tín
ngưỡng thờ Mẫu. Vẻ đẹp của tín ngưỡng
đậm màu bản địa này được nhà văn soi rọi
ở nhiều giác độ, trên một tinh thần hiện đại
thấm đẫm chất nhân văn sâu sắc.
Đất trời, Gió lửa (Nam Dao), Đàn đáy
(Trần Thu Hằng), Minh sư (Thái Bá Lợi)
cũng thể hiện mối quan tâm đặc biệt về các
vấn đề văn hóa, dân tộc. Nam Dao thấy
được sức mạnh nối kết quá khứ, hiện tại và
tương lai của văn hóa thông qua phong tục
tập quán, cách làm người với nhau, làm
người cùng nhau, làm người trước tương
lai. Từ đó, nhân vật của ông đi tìm lẽ sống,
lẽ tồn vong của dân tộc, khẳng định bản

sắc văn hóa qua ngôn từ giản dị, trong trẻo,
giàu sức sống của ca dao, tục ngữ, dân ca
ví dặm… (Đất trời). Để lí giải xung đột
trong đời sống chính trị và trong tâm thức
người Việt, tìm ra mẫu hình văn hóa
chung, Gió lửa lại đặt văn hoá trong sự
xung đột cá nhân và xã hội, văn hóa trong
sự áp chế của quyền lực, văn hóa trong
hành trình truy tìm những giá trị vĩnh hằng
của tự do, dân chủ. Ở một nẻo đường khác,
Trần Thu Hằng trong Đàn đáy, qua những
ngón đàn mê hoặc, tiếng hát tài hoa đã tái
hiện số phận của các ca nữ và kép đàn
trong một giáo phường hát ca trù nổi tiếng
kinh kì. Trong mỗi lời ca, tiếng đàn không
chỉ là khát vọng một cuộc sống bình yên
mà còn mang những nỗi đau thế thái nhân
tình, chuyên chở những thân phận mong
manh của người nghệ sĩ trong cơn giông
bão của thời cuộc. Thiên nhiên hùng vĩ với
núi non điệp trùng, biển cả bao la, cảnh
tượng huyền bí, u tịch của kinh đô Trà
Bàn, Thánh địa Mỹ Sơn trong Minh sư lại

gợi biết bao khắc khoải, nuối tiếc về quá
khứ một đi không trở lại. Đằng sau hình
ảnh phế đô oai nghiêm một thuở chỉ còn lại
những nền đất, kinh thành Sư tử lẫm liệt
mấy trăm năm giờ chỉ còn lác đác những
bóng người dưới chân thành rêu phong là

những suy tư, trăn trở của Thái Bá Lợi về
lẽ tồn vong và bản sắc dân tộc trong những
xung đột văn hóa, lịch sử. Qua hành trình
mở cõi của cha ông, tác giả đã phân tích
quy luật tất yếu của bước đi lịch sử khi
những toan tính, những ứng xử, những
hành động trong việc tìm kiếm không gian
sống cho dân tộc này là nguồn cơn tạo nên
sự suy yếu, đồng hóa và biến mất của cả
một dân tộc khác.
Quan trọng hơn cả, nhiều nhà văn qua
các câu chuyện về lịch sử muốn chuyển tải
nghĩ suy cá nhân về vận mệnh và sức mạnh
dân tộc trong những cuộc thử lửa cam go,
trong sự thịnh suy, đổi dời của các triều
đại. Hoàng Quốc Hải là một trong những
nhà văn thể hiện sâu sắc nhãn quan dân tộc
tính trên tinh thần của triết học lịch sử.
Trong Bão táp triều Trần, Tám triều vua
Lý, quan điểm “Các triều đại hưng vong
thành bại xoay vần như con thò lò sáu mặt:
chợt mặt nhất, thoắt đã mặt tam, mặt lục;
chỉ có dân tộc, phải, chỉ có dân tộc mãi mãi
là trường tồn” cứ trở đi trở lại tạo thành nốt
nhất chi phối cảm hứng và thi pháp hư cấu
lịch sử của nhà văn.
Trong “khí hậu” hiện đại/hậu hiện đại,
việc các nhà văn đưa ra cách lí giải về dân
tộc, văn hóa tất sẽ tạo ra sự cộng cảm từ
phía người đọc. Từ đó khơi gợi trong tâm

thức người đọc niềm tin, sự kiêu hãnh về
sự vĩnh cửu của văn hóa bản địa. Bởi chính
sự giao lưu, tiếp xúc và xung đột văn hóa
bên ngoài không những không làm mất đi
bản sắc dân tộc mà ngày càng bồi đắp
khiến văn hóa dân tộc trở nên phong phú,
75


đậm đà hơn.
Trước năm 1986, cảm thức và diễn
ngôn chiêm bái, ngưỡng vọng, khẳng định
đã đem lại cho các tiểu thuyết một tinh
thần dân tộc và một nội dung yêu nước sâu
sắc. Cảm hứng ấy đã được nối dài trong
nhiều sáng tác sau năm 1986 như Tám
triều vua Lý, Bão táp triều Trần, Vằng vặc
sao Khuê, Sao Khuê lấp lánh, Minh sư, Thế
kỉ bị mất… Tuy vậy, trong những sáng tác
này, lịch sử đã được nhìn nhận đa chiều
hơn, được phân tích, luận giải sâu sắc hơn
cũng như phương thức tự sự cũng phức tạp
và độc đáo hơn.
Ảnh hưởng “tiếng gọi của trò chơi”
(M.Kundera), tiểu thuyết lịch sử trở thành
mảnh đất để các nhà văn tự do đưa ra những
giả định lịch sử, tiến hành những thử
nghiệm, thậm chí “tùy tiện” trong cách ứng
xử với đề tài như là một sự khiêu khích,
thách đố với những cách ứng xử, kinh

nghiệm quen thuộc của cộng đồng. Viết về
thần tượng của dân tộc, rõ ràng, Nguyễn
Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Mộng
Giác, Nguyễn Quang Thân, Bùi Anh Tấn đã
khước từ diễn ngôn ca ngợi, chiêm bái một
chiều để lựa chọn diễn ngôn phân tích, giả
định, “giải thiêng”. Các nhà văn đã kéo thần
tượng của cộng đồng trở về với kích cỡ của
con người mang thân phận làm người, quan
tâm khắc họa những khía cạnh nhân tính và
nhân bản chìm khuất phía sau các biến cố,
tình huống lịch sử. Nhờ đó, những góc tối,
những vùng mờ mà chính sử không hề nhắc
tới, nay đã được soi rọi và giải mã trên tinh
nhân bản và nguyên tắc đối thoại.
Dưới con mắt của con người hôm nay,
lịch sử được nhìn nhận, lí giải qua số phận
của dân tộc, qua hành trình gìn giữ bản sắc
và trên tất cả là qua số phận, bi kịch của
mỗi cá nhân trong tiến trình lịch sử. Chưa
bao giờ thân phận con người trong lịch sử

lại được nhắc nhiều và ám ảnh đến vậy.
Tái hiện lại những giai đoạn có tính chất
bước ngoặt của mỗi triều đại, nhiều nhà
văn đã suy tư về thân phận vương giả trong
lẽ thịnh suy của thời đại, trăn trở với số
phận người phụ nữ trong cơn bão tố của
lịch sử và ưu tư cùng bi kịch người trí thức
trong mối xung đột của thời cuộc. Nhận

thức sâu sắc sứ mệnh của tiểu thuyết gia
viết/diễn giải về lịch sử, các tác giả đã
không quên khắc họa số phận của những
đám đông nhỏ bé, vô danh trong sự xoay
vần của lịch sử. Lần đầu tiên trong tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam, những con người
nhỏ bé được cất lên tiếng nói của mình.
Chủ thể diễn ngôn từ vị thế con người chủ nhân của lịch sử chuyển dần sang vị
thế con người - nạn nhân nhỏ bé thua thiệt.
Từ người dân chốn kinh thành trong những
ngày gió lửa của chiến tranh, loạn lạc
(Sông Côn mùa lũ, Bão táp triều Trần,
Tám triều vua Lý), trong cơn bão tranh
giành quyền lực (Hồ Quý Ly), đến những
người dân trong làng Cổ Đình xa xôi, heo
hút (Mẫu Thượng Ngàn), những anh kép cô
đào trong phường hát ca trù Cổ Tâm (Đàn
đáy), những người dân quanh năm chân
lấm tay bùn ở đất nghèo xứ Quảng (Thế kỉ
bị mất)… tất cả đã trở thành điểm tựa nhân
bản trong cái nhìn về lịch sử của các nhà
văn. Lắng nghe từ những số phận nhỏ bé
ấy, tiểu thuyết gia giúp người đọc nhận ra
gương mặt, tiếng nói, bước đi của lịch sử.
Gần gũi, bình dị nhưng mỗi cuộc đời, mỗi
số phận lại mang một chiều sâu của thứ
triết học nhân sinh - lịch sử sâu sắc.
2.3. Tổ chức mô thức tự sự trên
nguyên tắc đối thoại, luận giải
Sự dịch chuyển, gia tăng, gấp bội điểm

nhìn là biểu hiện độc đáo trong nỗ lực hiện
đại hóa mô hình tổ chức tự sự của các tiểu
thuyết gia viết về đề tài lịch sử sau năm
76


1986. Với những tác phẩm hư cấu lịch sử
thì điều này nên xem là một đột phá táo
bạo. Nó đã giúp tiểu thuyết vượt thoát tính
đơn thanh, độc thoại một chiều của kiểu tự
sự truyền thống.
Nhìn lại tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
giai đoạn trước năm 1986, hầu hết các tác
phẩm đều sử dụng lối tự sự toàn tri với
điểm nhìn đơn nhất của người kể chuyện.
Người kể chuyện trong các sáng tác của
Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Tử Siêu, Thái
Vũ, Nguyễn Huy Tưởng, Chu Thiên…
luôn là con người thông tuệ, có thể trải
rộng góc nhìn, quan sát với tầm bao quát
rất lớn về nhiều giai đoạn với vô vàn sự
kiện, nhân vật lịch sử. Tất cả những biểu
hiện bên ngoài cùng thế giới nội tâm bên
trong của nhân vật đều nằm trong “tầm
kiểm soát”, “sự hiểu biết”, “tài điều khiển”
của người trần thuật. Việc lựa chọn hình
thức tự sự này, các tiểu thuyết gia giai đoạn
trước đã đáp ứng đòi hỏi sự chính xác,
khách quan của sử liệu, và đặc biệt quan
trọng là trùng khít với cái nhìn, hiểu biết

của cộng đồng. Tuy nhiên, điều đó đã hạn
chế rất nhiều cá tính sáng tạo cũng như
cảm thức nhận thức lại lịch sử của nhà văn.
Trở lại tiểu thuyết lịch sử sau năm
1986, với ý thức đòi quyền bình đẳng giữa
kinh nghiệm cá nhân bên cạnh hiểu biết
cộng đồng, diễn ngôn cá nhân bên cạnh
diễn ngôn tập thể, nhiều tác phẩm đã cung
cấp cho người đọc thêm nhiều điểm nhìn
mới về các sự kiện, nhân vật quen thuộc.
Bằng thủ pháp gia tăng và gấp bội
điểm nhìn trên nguyên tắc đối thoại, nhiều
tác phẩm có khả năng luận giải cao, đem
lại những khám phá thú vị cho người đọc.
Nguyễn Xuân Khánh trong tiểu thuyết của
mình đã từ bỏ quan niệm truyền thống về
tiểu thuyết thế kỉ XIX và chọn lựa một
cách kể chuyện phân đoạn. Điểm nhìn của

người kể chuyện di chuyển từ nhân vật này
sang nhân vật khác, cho ta một cái nhìn
vạn hoa về các sự kiện, nhân vật. Với cách
tiếp cận theo từng mảng, tiểu thuyết Hồ
Quý Ly được chia thành nhiều chương, mỗi
chương được đặt theo tên của một nhân vật
tiêu biểu (Chương III: Ông vua già,
chương V: Trần Khát Chân, chương VII:
Vua Thuận tông và bà hoàng Thánh Ngẫu,
chương IX và X: Một ngày của Thái sư).
Các sử gia có thể nhìn nhận ở Hồ Quý Ly

một con người có tài, khát khao quyền lực
vô biên và một kẻ độc tài bạo tàn, nhưng
dưới điểm nhìn của các nhân vật thì con
người này lại được khám phá dưới góc độ
một con người rất đỗi bình thường, thậm
chí là một nhân vật mang bi kịch đời
thường. Con người này cũng chứa đựng
những ý chí khát khao lớn lao nhằm làm
thay đổi, canh tân đất nước (điểm nhìn của
Hồ Hán Thương, Nguyên Cẩn), đa mưu, đa
sát, thâm hiểm (điểm nhìn của Trần
Nguyên Uyên, Trần Khát Chân), biết yêu
và rung động trước tình yêu (điểm nhìn của
Huy Ninh), cũng có những giây phút cô
đơn, yếu đuối, đáng thương (điểm nhìn của
Hồ Nguyên Trừng), vừa vĩ đại vừa bạo tàn
(điểm nhìn của Phạm Sinh, Sử Văn Hoa)…
Vấn đề canh tân đất nước, thông qua
điểm nhìn của các nhân vật, cũng có những
cách nhìn và theo đó là hành động, ứng xử
khác nhau. Với chính công trình sư Hồ
Quý Ly, ông đã nhìn rõ được tình thế buộc
phải “thay máu” nếu không muốn đất nước
rơi vào sự suy thoái, sụp đổ hoàn toàn. Với
quan Thái bảo Nguyễn Hàng, ông thấy rõ
sự bế tắc, hỗn loạn của đất nước nhưng ông
lại không hiểu đất nước cần đổi thay. Còn
Sư Hiền, bằng những trải nghiệm của kẻ
sắp đi trọn con đường trần thế, ông hiểu
vận mệnh nhà Trần đã hết. Ông đành giả

câm giả điếc mặc cho cơn bão lịch sử xoay
77


vần, bởi trong “thời thiên túy” này, cái
đúng cái sai khó mà phân định.
Soi rọi vấn đề lịch sử, văn hóa dưới
nhiều điểm nhìn khác nhau, của người
trong cuộc lẫn người ngoài cuộc như là
phương thức để Nguyễn Xuân Khánh đã
“giải phẫu” sức sống văn hóa Việt trong sự
đối kháng và xung đột văn hóa. Hình tượng
Mẫu và hình thức lên đồng, với những
người trong cuộc, cộng đồng làng Cổ Đình,
đặc biệt là những người phụ nữ, đó là một
điều thiêng liêng, huyền nhiệm đã ăn sâu
vào tâm thức từ ngàn đời. Còn với những
nhà chinh phục thuộc địa, điểm nhìn được
phân tán theo hai chiều hướng: chiêm
ngưỡng, thức tỉnh (Pierre, René), coi
thường, chế giễu (Philippe, Julien). Suy tư
về đồng hóa và phản đồng hóa tiếp tục
được tác giả đưa ra bàn luận, đối thoại
nhiều chiều. Trong cuộc đối thoại ở
chương X, người kể chuyện đã đặt vấn đề
này dưới nhiều điểm nhìn khác nhau.
Khẳng định sứ mệnh khai hóa văn minh
cho dân bản xứ, Julien đã đặt ra mục tiêu
muốn biến xứ sở này thành một nước Pháp
thu nhỏ… Anh ta đã bảo vệ quyết liệt niềm

tin về sự đồng hóa của phương Tây, cụ thể
là Pháp với xứ sở phương Đông. Với ông
Lềnh, bài học nhãn tiền của tổ tiên hàng
ngàn đời với tư tưởng “Hán hóa” người
Việt khiến ông tỉnh ngộ, cay đắng nhận ra
thân phận “chú khách”, đến rồi lại đi của
mình. Qua cái nhìn khách quan, biện chứng
khoa học pha chút màu sắc siêu hình, thần
bí, nhà dân tộc học René đã lờ mờ nhận ra
bi kịch “bị đồng hóa” trở lại của những kẻ
đi xâm lược, được ông lí giải bằng sự
nhiệm màu của thần thánh và nguyên lí Mẹ
trong văn hóa xứ sở. Từ những tình cảm
sâu nặng với mảnh đất và con người hiền
hòa, cần cù, nhà truyền giáo Colombert sẵn
sàng chấp nhận “bị đồng hóa ngược” để trở

thành một ông già An Nam đích thực.
Cuộc đối thoại, tranh cãi tuy chưa có
hồi kết, song chúng ta cũng cảm nhận được
ưu thế của những người coi trọng và bênh
vực tín ngưỡng bản địa. Đây rõ ràng là một
“đụng độ” không khoan nhượng giữa hai
nền văn hóa Tây và Đông. Người phương
Tây đã nhận ra sức kháng cự tuy vô hình
nhưng mạnh mẽ của người bản xứ để bảo
vệ bản sắc văn hóa mà cha ông họ đã bao
đời gìn giữ. Họ hiểu rằng, sức mạnh đó
không có lí giải nào thuyết phục, sinh động
bằng hình tượng người Đàn bà giàu sức

sống, đằm thắm, dịu dàng, cam chịu trong
tâm thức Việt.
Chính việc kiến tạo, tổ chức các góc
nhìn, cách nhìn, quan điểm nhìn đã giúp
nhà văn thể hiện sự luận giải, đối thoại đa
chiều về nhiều vấn đề của quá khứ, từ đó
nói kết với hiện tại, tìm ra những bài học
sâu sắc cho hiện tại và tương lai. Những
vấn đề được đặt ra trong Hồ Quý Ly như
cách tân hay bảo thủ, cách tân như thế nào,
vai trò và cách hành xử của trí thức trước
thời cuộc, vấn đề đổi mới với quyền lực,
đổi mới như thế nào để phù hợp với thời
thế, nhân tâm, số phận, bi kịch những cá
nhân, cộng đồng trong cơn cuồng nộ của
lịch sử…, khiến người đọc phải trăn trở,
suy ngẫm, nối kết quá khứ với thực tại tình
hình đổi mới đất nước hôm nay. Mẫu
Thượng Ngàn lại là sự suy tư của nhà văn
về vấn đề cội nguồn sức mạnh văn hóa dân
tộc Việt, làm sao để giữ gìn và phát huy
bản sắc dân tộc trong quá trình giao lưu,
tiếp biến, xâm lấn văn hóa trong khu vực
và trên thế giới, đâu là giá trị của các thành
tố văn hóa trong cộng đồng người Việt.
Bằng việc gia tăng điểm nhìn, Nguyễn
Quang Thân, Nguyễn Mộng Giác, Võ Thị
Hảo, Thái Bá Lợi, Nguyễn Thế Quang,
Hoàng Quốc Hải đã có những khám phá,
78



kiến giải vô cùng tinh tế và độc đáo về các
nhân vật lịch sử. Trong Hội thề, Nguyễn Du,
Oan khuất với sự dịch chuyển điểm nhìn
bên trong vào nhân vật, Nguyễn Quang
Thân, Nguyễn Thế Quang, Bùi Anh Tấn đã
khai thác chiều sâu thế giới nội tâm phức
tạp cũng như tấn bi kịch tâm hồn của các vĩ
nhân Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.
Những đấu tranh nội tâm, những cảm xúc
phức tạp, những nỗi lòng thầm kín cùng tấn
bi kịch tâm hồn được trình hiện chân thực
bởi chính điểm nhìn của nhân vật.
Từ điểm nhìn bên trong, nhiều bí mật,
khuất lấp trong lịch sử được khơi mở, phân
tích thấu đáo, thuyết phục. Trong Sông Côn
mùa lũ, điểm nhìn liên tục được dịch
chuyển từ nhân vật này sang nhân vật khác.
Có lúc được trao cho Nguyễn Huệ (chương
17, 19, 30, 32…), có khi lại gửi gắm ở giáo
Hiến (chương 1, 7, 15…), nhiều lúc lại
chuyển sang An (chương 75, 92, 97), có
lúc lại dời chỗ vào Lãng (chương 87,
99…)… Những bí mật của lịch sử như việc
Nguyễn Huệ chọn Phú Xuân làm thủ phủ,
hành động quay nòng pháo về Quy Nhơn
nhằm vào vua anh của Huệ… được lí giải
bằng chính điểm nhìn bên trong của
Nguyễn Huệ. Qua điểm nhìn đó, Nguyễn

Mộng Giác đã hé mở “một sự thật khác”
đằng sau hình tượng anh hùng dân tộc
Nguyễn Huệ và sự nghiệp sáng chói của
ông. Theo sự phân tích đa chiều của nhà
văn, sự nghiệp vinh hiển ấy phần lớn do tài
năng, bản lĩnh cá nhân của Nguyễn Huệ,
nhưng cũng có yếu tố rất quan trọng là do
thời thế và sự may mắn. Hơn nữa, bên cạnh
sự thật về người anh hùng áo vải còn có
một sự thật khác: chính Nguyễn Huệ là
người chủ động quay nòng súng về Quy
Nhơn, nhằm vào vua anh Nguyễn Nhạc,
khuấy động bàn thờ ông bà, cha mẹ để xác
lập quyền uy và ngôi báu của mình, làm

tiền đề để thống nhất đất nước.
Gia tăng điểm nhìn gắn với độc
thoại/đối thoại nội tâm là thủ pháp độc đáo
được Võ Thị Hảo sử dụng trong việc khắc
họa nhân vật lịch sử. Trong Giàn thiêu, tác
giả đã đưa ra những “giả thuyết” mới mẻ
về nhân vật lịch sử và cũng là nhân vật
truyền thuyết Từ Đạo Hạnh. Nhà văn đã
dành nhiều tiết đoạn để cho Từ Đạo Hạnh
phân thân và tự đối thoại với chính mình.
Tác giả có ý thức lý giải lịch sử theo cách
riêng của mình. Điều đó bộc lộ cái nhìn mỉa
mai, ngược chiều, xoay chiều lịch sử, phi
huyền thoại hoá những nhân vật, sự kiện đã
bị huyền thoại hoá. Từ nhận thức của con

người đương đại, Võ Thị Hảo đã hé mở sự
thật lịch sử: chính Nguyên phi Ỷ Lan đã giết
chết Dương Thái hậu và bảy mươi sáu cung
nữ. Còn với Từ Đạo Hạnh, tác giả đã “lật
tẩy”, phơi bày khía cạnh con người phàm
tục, nhận ra sự ham hố quyền lực, bản năng
dục vọng, sự ích kỉ nhỏ nhen nơi nhân vật
lịch sử - huyền thoại tôn giáo này.
Đặc biệt, các tiểu thuyết gia sau năm
1986 đã thể nghiệm hình thức tự sự từ ngôi
thứ nhất như là phương thức tiếp cận,
khám phá, luận giải có chiều sâu về lịch sử
và con người. Người kể chuyện ngôi thứ
nhất xưng “tôi” trong Hồ Quý Ly, Mẫu
Thượng Ngàn, Oan khuất, Đàm đạo về
Điều Ngự Giác Hoàng, Thế kỉ bị mất vừa
là chứng nhân của câu chuyện vừa tham
gia trực tiếp vào các biến cố, sự kiện của
tác phẩm. Nhờ đó, sự kiện lịch sử được cá
thể hóa vào đời sống cá nhân, được khúc
xạ qua cuộc đời, số phận mỗi người. Cá
nhân trở thành trung tâm của tự sự. Lịch sử
lúc này còn được khám phá qua hàng loạt
chuỗi sự kiện về tâm lý của những con
người đã sống, chứng kiến, góp phần tham
gia làm nên lịch sử thời kỳ ấy.
Đan xen việc sử dụng người kể chuyện
79



kỉ bị mất tần số ấy đã được nâng lên đáng
kể. Thế kỉ bị mất là sự gối tiếp liên tục giữa
hình thức tự sự ngôi thứ ba và hình thức tự
sự ngôi thứ nhất. Với tần số xuất hiện của
ngôi thứ nhất là 255 trang/467 trang (chiếm
khoảng 55%), tác phẩm được thi triển trên
nền một câu chuyện tình dân dã nhuốm
màu sắc bi thảm. Cái “tôi” trong tiểu thuyết
Thế kỉ bị mất là cái “tôi” kí ức, hồi tưởng,
chiêm nghiệm về quá khứ. Nó vừa là
chứng nhân của lịch sử, vừa là chủ thể
tham gia vào mọi biến cố, sự kiện lịch sử.
Với điểm nhìn bên trong, người kể chuyện
đã tái hiện một dấu mốc quan trọng của
lịch sử, thời điểm diễn ra phong trào Duy
Tân, một biểu hiện của quá trình vận động,
trưởng thành trong tư tưởng, ý thức dân tộc
Việt. Là người sống cùng thời với các lãnh
tụ của phong trào Duy Tân, người kể
chuyện đã phác họa chân dung của nhiều
nhân vật lịch sử quan trọng. Đặc biệt là
hình tượng Phan Châu Trinh trong sự cảm
nhận của Cả Hinh là một lãnh tụ kiệt xuất,
một nhân cách văn hóa lớn, một nhiệt
huyết phi thường với hoạt động truyền bá
tư tưởng dân quyền nhằm thức tỉnh ý thức
làm chủ của người dân. Khúc ca bi tráng về
một thời đoạn trong lịch sử dân tộc khép
lại bằng bài điếu văn xót thương những số
phận bất hạnh và mở ra những hi vọng về

một thời đại mới theo bước chân của Cả
Hinh nơi miền đất lạ. Từ những quan sát,
trải nghiệm của chính người trong cuộc,
lịch sử được nhìn ngắm từ giác độ đời
thường, cá nhân. Đó chính là một trong
những biểu hiện sâu sắc về sự thức tỉnh của
cái tôi - chủ thể sáng tạo được thẩm thấu,
kết tinh trong cấu trúc bề sâu của các hư
cấu lịch sử.
Ngoài ra, phương thức tổ chức không thời gian và kết cấu tự sự trong tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam sau 1986 cũng được

ngôi thứ ba, Nguyễn Xuân Khánh trong Hồ
Quý Ly sáng tạo hình thức tự sự từ ngôi thứ
nhất - Hồ Nguyên Trừng xưng “tôi” kể
chuyện (165 trang/802 trang, chiếm 20,5%)
trong chương II: Hồ Nguyên Trừng,
chương VI: Cô gái vườn mai, chương XII
(một phần): Đường lên Yên Tử, chương
XIII (một phần): Hội thề Đốn Sơn. Chọn
Hồ Nguyên Trừng kể chuyện là một dụng ý
khá sâu sắc của nhà văn. Trong tác phẩm
của mình, tác giả đã xây dựng nhân vật Hồ
Nguyên Trừng có đời sống nội tâm khá
phức tạp. Anh vừa là trợ thủ đắc lực trong
canh bài canh tân của Hồ Quý Ly đồng
thời lại là một con người nhạy cảm, ưu tư,
giằng xé trong những nghĩ suy miên man
về thời cuộc. Bằng điểm nhìn nội cảm của
một con người mang nỗi buồn thời tao

loạn, Nguyễn Xuân Khánh đã giúp người
đọc không những có một niềm tin vô cùng
lớn lao đối với câu chuyện mà còn tạo
dựng những góc nhìn mới để khám phá, lí
giải về lịch sử và con người.
Mẫu Thượng Ngàn cũng là một tác
phẩm sử dụng hình thức trần thuật ngôi thứ
nhất nhưng dung lượng lại ít hơn so với Hồ
Quý Ly. Mặc dù bà ba Váy xưng “tôi” kể
chuyện (chương XI. Bà ba Váy kể chuyện,
chương XII, tiết 3. Lời bà ba Váy) chỉ
chiếm dung lượng 46 trang/807 trang tiểu
thuyết (khoảng 5,7%) nhưng chừng ấy
cũng đủ để lại những dấu ấn đậm nét về
người đàn bà đa tình, hồn nhiên, ngồn ngộn
sức sống. Với cái tôi thành thực, nếm trải,
người đọc như được chứng kiến cuộc đời
bất hạnh, những rung động, khát khao bản
năng cùng vẻ đẹp Thiên tính nữ như là biểu
tượng sinh động của nguyên lí tính Mẫu
trong văn hóa Việt.
Nếu như trong Hồ Quý Ly và Mẫu
Thượng Ngàn, tần số xuất hiện của NKC
ngôi thứ nhất là khá khiêm tốn thì với Thế
80


nhiều tác giả quan tâm như là nỗ lực đổi
mới trong hệ hình tư duy tự sự hiện đại,
khẳng định tham vọng khắc phục/vượt qua

mô hình truyền thống nhằm đưa tiểu thuyết
tiệm cận quỹ đạo chung của văn học thế
giới. Cùng với tìm tòi hình thức kể chuyện
và đa dạng hóa điểm nhìn, những thể
nghiệm trong việc xử lí thời gian và tổ
chức kết cấu góp phần mở rộng khả năng
phản ánh, chiếm lĩnh, lí giải lịch sử và con
người có chiều sâu, tạo ra một không gian
truyện kể đa tầng bậc, nhiều cấp độ, giàu
giá trị biểu tượng…
3. Kết luận
Như vậy, từ không khí đổi mới và tinh
thần dân chủ của xã hội, tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam sau năm 1986 đang có sự vận
động không ngừng vừa theo kịp với thế
giới đồng thời khẳng định được bản sắc
riêng của mình. Nhiều tác phẩm là sự biểu
hiện sinh động cho tư duy đổi mới trong
quan niệm về thể loại, nguyên tắc xây dựng
nhân vật và phương thức tục sự lịch sử.
Nhờ đó, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đã
vượt qua tâm lí, kinh nghiệm cộng đồng,
để đối thoại, thức nhận lại lịch sử. Lịch sử
luôn biến thiên, luôn có những con đường
khác nhau và mỗi người có những cách
hình dung về gương mặt của nó, nối kết
với thực tại và thụ hưởng trên tinh thần dân
tộc - cá nhân - nhân văn.

Ngày nhận bài: 24/11/2015


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bakhtin M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu
thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Trường viết văn
Nguyễn Du, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam
sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
3. Trương Đăng Dung (1998), “Tiểu thuyết
lịch sử trong quan niệm mĩ học của
G.Lucacs”, Từ văn bản đến tác phẩm văn
học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên), Đoàn Ánh
Dương, Đỗ Hải Ninh (2012), Lịch sử và văn
hóa, cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân
Khánh, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
5. Kundera M. (1998), Tiểu luận (Nghệ thuật
tiểu thuyết và Những di chúc bị phản bội),
Nguyên Ngọc dịch, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006,
đồng chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975,
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
7. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ
thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
8. Popper Karl (2012), Sự nghèo nàn của
Thuyết Sử luận, Chu Lan Đình dịch, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
9. Trần Đình Sử (chủ biên, 2004, 2008), Tự sự

học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, Phần 1
và 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
10. Trần Đình Sử (2014), “Suy nghĩ về lịch sử và
tiểu thuyết lịch sử”, in trong Trên đường biên
của lý luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

Biên tập xong: 15/01/2017

81

Duyệt đăng: 20/01/2017



×