Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

kiểm sát khiếu nại tố cáo - 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.65 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp là một trong những khâu công tác giữ vai trò rất quan trọng của ngành
Kiểm sát nhân dân. Thông qua công tác tiếp nhận, thụ lý, giải quyết khiếu nại, tố
cáo để kiểm tra, xem xét, xác định lại một lần nữa việc thực hiện tố tụng của các
cơ quan tiến hành tố tụng; tiếp nhận, phân loại, xác định đơn thuộc tin báo, tố
giác tội phạm hay đơn kiến nghị phản ánh, đơn thuộc thẩm quyền giải quyết
trong hoạt động tư pháp, từ đó chuyển các phòng nghiệp vụ để kiểm sát kịp thời,
tránh bỏ lọt tội phạm và oan người vô tội hoặc tránh được việc đơn thư kéo dài,
vượt cấp.
Trong thời gian qua, công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động tư pháp của VKSND được thực hiện khá tốt. Tuy nhiên, chúng
ta cũng thẳng thắn thừa nhận rằng, việc kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động tư pháp còn bỏ ngỏ hoặc nếu có làm thì lại lúng túng, sơ sài
chưa sâu sát. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc hạn chế
trong công tác kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
chính là việc vẫn còn một số cán bộ, Kiểm sát viên chưa nắm rõ nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp.
Xuất phát từ những lý do vừa mang tính lý luận và thực tiến như trên nên
em đã chọn đề tài số 04: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp”, để làm
tập lớn cá nhân lần này, thông qua tìm hiểu đề tài, em mong muốn được hiểu rõ
hơn về nhiệm vụ, quyền của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp để trang bị cho mình những kiến thức học tập tại
trường và phục vụ cho nghề nghiệp của bản thân sau này.
Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu nhưng do kiến thức còn hạn chế nên không
tránh khỏi những sai xót, em mong thầy cô thông cảm và nghiêm khắc chỉ bảo.


NỘI DUNG


Quyền khiếu nại, tố cáo là một nguyên tắc hiến định và cơ bản trong mọi
hoạt động của nhà nước ta; quyền này được quy định cụ thể trong Điều 30 Hiến
pháp năm 2013 như sau: " Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân;
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại,
tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật…”. Theo đó, Khiếu nại là việc
cơ quan, tổ chức, cá nhân theo thủ tục do Luật quy định đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại hành vi, quyết định do cơ quan, người
có thẩm quyền ban hành hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn
cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của mình1. Tố cáo là việc Cá nhân theo thủ tục do Luật quy định
báo cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp
luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.2
Xã hội càng phát triển, trình độ dân trí ngày một nâng cao, mọi hoạt đông
của cơ quan nhà nước cần đòi hỏi tính minh bạch, công khai, dân chủ, đúng đắn
trước mọi cá nhân.Tôn trọng quyền khiếu nại, tố cáo của mọi người là yêu cầu
bắt buộc; trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước, tổ
chức, người có thẩm quyền đối với họ được qui đinh rõ trong Hiến pháp và pháp
luật. Để đảm bảo việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được đúng đắn thì Đảng và
nhà nước đã tin tưởng giao cho ngành Kiểm sát nhiệm vụ quan trọng chính là
giải quyết và kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền trong hoạt động tư pháp, đây được coi là một biện pháp hữu hiệu
1 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
2 Điều 2 Luật tố cáo năm 2011.


giúp cơ quan trong hoạt động tư pháp có trách nhiệm hơn khi thực hiện nhiệm

vụ của mình, cũng là một kênh có hiệu quả để xem xét lại việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ của mình, ngành mình một cách cầu thị nhất, khách quan, thận
trọng và công tâm (kênh kiểm soát nội bộ)đúng như lời Chủ Tịch Hồ Chí Minh
căn dặn với ngành Kiểm sát.
Theo Điều 30 Luật TC VKSND năm 2014, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động
tư pháp bao gồm:


Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp tại



cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội
dung tố cáo; kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của
cấp mình và cấp dưới, thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp



hồ sơ, tài liệu có liên quan cho Viện kiểm sát nhân dân.
Ban hành kết luận kiểm sát, thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị theo quy

1.

định của pháp luật.
Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Cần lưu ý trong việc áp dụng biện pháp trực tiếp kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng khi kiểm sát việc giải

quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự và thi hành án hình sự và không
nhất thiết phải khảo sát để nắm dấu hiệu vi phạm mà có thể thường kỳ hoặc bất
thường tiến hành kiểm sát trực tiếp.3
Theo đó, đối tượng trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
tố tụng hình sự và thi hành án hình sự, gồm: Tòa án, Cơ quan điều tra, Cơ quan
thi hành án hình sự, Cơ quan quản lý thi hành án hình sự Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Cơ quan được giao một số nhiệm
3 Văn bản số 04/HD-VKSTC hướng dẫn Công tác Kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp năm 2018.


vụ thi hành án hình sự. Tuy nhiên, không phải tất cả các cơ quan trên đều có
thẩm quyền giải quyết cả khiếu nại và tố cáo chẳng hạn như:


Đối với Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại mà không có thẩm quyền giải quyết tố cáo mà do
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra có thẩm quyền xem
xét, giải quyết. Do đó không kiểm sát việc giải quyết tố cáo đối với cơ quan



này.4
Đối với Trại giam, theo Luật thi hành án hình sự thì Trại giam không có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, do đó không kiểm sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo đối với cơ quan này trong lĩnh vực thi hành án hình sự. Nhưng theo
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì Trại giam có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại (không có thẩm quyền giải quyết tố cáo), do đó được kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại đối với Trại giam trong lĩnh vực tố tụng hình sự (ví dụ: khi giải
quyết đơn tố giác theo thẩm quyền điều tra của mình, Phó Giám thị Trại giam ra

quyết định không khởi tố vụ án và bị khiếu nại, Giám thị Trại giam có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại này và Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát việc



giải quyết khiếu nại của Giám trị Trại giam).5
Đối với Tòa án, là cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự, nhưng theo Điều 152 Luật Thi hành án hình sự Tòa án không có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THAHS, do đó, Viện kiểm sát
không kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Tòa án trong lĩnh vực thi
hành án hình sự.
Về căn cứ kiểm sát trực tiếp: Các văn bản luật và Quy chế số 51 không quy
định căn cứ để tiến hành kiểm sát, do đó, các Viện kiểm sát cần chủ động và linh
hoạt khi thực hiện biện pháp này, căn cứ theo tình hình thực tế của nhiệm vụ.
Chẳng hạn, trong lĩnh vực Tạm giữ, tạm gian thì việc tiến hành kiểm sát có thể
được áp dụng khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng xảy ra ở
nhà tạm giữ, trại tạm giam (như: vi phạm về căn cứ, về thời hạn, về thủ tục tạm
4 Khoản 1 Điều 481 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
5 Tập bài giảng môn giải quyết khiếu nại, tố cáo, trang 69.


giữ, tạm giam; vi phạm về việc thực hiện các chế độ quản lý, các chế độ ăn, ở,
sinh hoạt, chữa bệnh… của người bị tạm giữ, tạm giam) hoặc trong trường hợp
người bị tạm giữ, tạm giam trốn, phạm tội mới, chết do tai nạn lao động hoặc
dịch bệnh, chết bất thường không rõ nguyên nhân, tự tử…Việc tiến hành kiểm
sát ngay bất kỳ thời gian nào, không kể là ngày hay đêm. Tiến hành đột xuất
kiểm sát phải có quyết định trực tiếp kiểm sát, khi kết thúc có kết luận bằng văn
bản; trong đó xác định nguyên nhân và hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật
gây ra và yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam có biện pháp
chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và xử lý người vi phạm.6

Biện pháp trực tiếp kiểm sát được áp dụng đối với kiểm sát vụ việc và kiểm
sát tình trạng, cụ thể:


Đối với kiểm sát vụ việc, có thể kiểm sát đối với một hoặc nhiều vụ việc, tuy
nhiên, mặc dù không bắt buộc, nhưng trước khi trực tiếp kiểm sát đối với vụ
việc, các Viện kiểm sát nên áp dụng các biện pháp yêu cầu trước để xác định vi
phạm, nếu không có hiệu quả hoặc cần thiết phải mở rộng phạm vi phát hiện vi



phạm thì mới áp dụng biện pháp trực tiếp kiểm sát.
Đối với kiểm sát tình trạng, tiến hành trong một thời điểm nhưng không nên quá
2 năm từ thời điểm kiểm sát trở về trước, có thể kiểm sát định kỳ (theo kế hoạch
công tác đầu năm) hoặc kiểm sát bất thường (theo yêu cầu nhiệm vụ).7
Theo Khi tiến hành kiểm sát, cần thực hiện đúng thủ tục theo quy định của
Ngành, gồm:



Nghiên cứu đơn hoặc văn bản yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hoặc các
nguồn thông tin khác và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp; nếu cần thiết, có thể làm việc trực tiếp với người
khiếu nại, người bị khiếu nại, người tố cáo, người bị tố cáo, người có liên quan

6 Điều 41 Quy chế 501 ban hành ngày 12 tháng 12 năm 2017 về công tác kiểm sát việc tạm giư, tạm giam,
thi hành án hình sự.
7 Tập bài giảng môn khiếu nại, tố cáo, trang 70.



để xác minh những vấn đề cần làm rõ hoặc thu thập những thông tin, tài liệu,


chứng cứ cần thiết khác.
Xây dựng Kế hoạch kiểm sát do lãnh đạo VKSND phê duyệt, lưu ý văn bản này
chỉ lưu hành trong nội bộ, không được gửi cho cơ quan được kiểm sát, bởi vì
việc giữ bí mật sẽ đảm bảo cho công tác trực tiếp kiểm sát được bất ngờ và hiệu



quả.
Ban hành Quyết định kiểm sát kèm theo các văn bản có liên quan (theo mẫu do
VKSND tối cao quy định), trong đó phải đảm bảo được những nội dung cơ bản



như: thời gian kiểm sát, thời điểm kiểm sát, phạm vi kiểm sát.
Trong mọi trường hợp, kết thúc trực tiếp kiểm sát đều phải ban hành kết luận,
đây là một quy định mới tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm sát dễ dàng,
theo đó trong kết luận phải đánh giá cả ưu điểm và hạn chế của cơ quan bị kiểm
sát. Bên cạnh đó, chúng ta phải xem xét mức độ, tính chất vi phạm ( nếu có) để

2.

ban hành kiến nghị, kháng nghị theo quy đinh của pháp luật. 8
Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận
nội dung tố cáo; kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư
pháp của cấp mình và cấp dưới, thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân
dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan cho Viện kiểm sát nhân dân.
2.1. Biện pháp yêu cầu ra văn bản giải quyết

Căn cứ áp dụng: Ngoài áp dụng theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền,
biện pháp này chỉ được áp dụng khi có căn cứ kết luận vi phạm của cơ quan tư
pháp, đó là không ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc đã giải quyết
nhưng không ra văn bản giải quyết theo quy định.
Chẳng hạn, trong lĩnh vực tố tụng hình sự, khi căn cứ kết luận vi phạm của cơ
quan tư pháp, đó là không ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc đã giải
quyết nhưng không ra văn bản giải quyết theo quy định thì VKSND sẽ yêu cầu
ra văn bản giải quyết, cơ quan được yêu cầu có trách nhiệm thực hiện yêu cầu

8 Điều 19 Quy chế 51 ban hành ngày 02 tháng 02 năm 2016 về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và kiểm sát giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp.


của VKSND trong thời hạn 3 ngày, trường hợp cần có thêm thời gian do trở ngại
khách quan thì phải thông báo cho Viện kiểm sát.9
Biện pháp này được áp dụng trong các trường hợp: Nghiên cứu các quy
định pháp luật thì có thể rút ra một số trường hợp áp dụng việc yêu cầu ra văn
bản giải quyết như sau:


Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại, tố cáo việc cơ quan, người có thẩm



quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không ra văn bản giải quyết theo quy định.
Có căn cứ xác định việc cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố
cáo không ra văn bản giải quyết theo quy định như thông qua các nguồn thông
tin hoặc sau khi chuyển đơn khiếu nại, tố cáo đến cơ quan tư pháp có thẩm
quyền giải quyết và theo dõi việc giải quyết này, nếu đủ căn cứ kết luận hết thời
hạn theo quy định mà cơ quan tư pháp chưa giải quyết hoặc đã giải quyết nhưng

không ban hành văn bản giải quyết theo đúng quy định.10
2.2. Biện pháp yêu cầu kiểm tra việc giải quyết
Biện pháp này được áp dụng trong các trường hợp như sau:



Khi có cơ sở xác định dấu hiệu vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,



tức là chưa đủ căn cứ kết luận vi phạm, thì áp dụng biện pháp này.
Khi có căn cứ kết luận vi phạm, nếu thấy chưa cần thiết phải ban hành kiến nghị,
Viện kiểm sát vẫn có thể áp dụng biện pháp yêu cầu kiểm tra việc giải quyết với



mục đích để cơ quan tư pháp tự phát hiện và khắc phục vi phạm.
Viện kiểm sát nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, trường hợp nhận
được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền thì xử lý tương tự như việc áp dụng
biện pháp yêu cầu ra văn bản giải quyết, cụ thể: phải kiểm tra, rà soát, nếu Viện
kiểm sát đã nắm được kết quả giải quyết của cơ quan tư pháp, thì chỉ thông báo
cho cơ quan có thẩm quyền đã yêu cầu, mà không áp dụng biện pháp này nữa;

9 Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP ngày 10/8/2005 hướng thi hành Bộ
luật tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo.
10 Ts. Phạm Mạnh Hùng, Bình luận Khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Lao động, năm
2018, Trang 772.


nếu Viện kiểm sát chưa nắm được kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo mà cơ



quan có thẩm quyền yêu cầu, thì áp dụng biện pháp này.11
Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại, tố cáo việc cơ quan, người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm trong giải quyết.12
Khi nhận được yêu cầu của VKSND thì cơ quan được yêu cầu phải có trách
nhiệm kiểm tra lại việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan mình và phải
thông báo cho Viện kiểm sát. Chẳng hạn, trong lĩnh vực tố tụng hình sự thì thời
hạn trả lời thông báo cho Viện kiểm sát là 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu
cầu, trường hợp cần gia hạn vì lý do khách quan thì phải có văn bản thông báo.13
2.3. Biện pháp yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu
Biện pháp này được áp dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động tư pháp . Về
căn cứ áp dụng, thực hiện tương tự như biện pháp yêu cầu kiểm tra việc giải
quyết. Biện pháp này chủ yếu được áp dụng khi kiểm sát đối với một hoặc một
số việc khiếu nại, tố cáo cụ thể (kiểm sát vụ việc). Đối với kiểm sát trong một
thời điểm nhất định (kiểm sát tình trạng), các Viện kiểm sát cần linh hoạt trong
việc áp dụng biện pháp này, cụ thể: chỉ áp dụng đối với cơ quan tư pháp có ít vụ
việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết trong thời điểm dự định kiểm
sát hoặc chỉ áp dụng trong một thời điểm ngắn (từ 1 – 3 tháng), nếu yêu cầu
cung cấp quá nhiều hồ sơ sẽ không thuận lợi cho việc giao nhận và nghiên cứu;
trường hợp cơ quan tư pháp có nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền
giải quyết trong thời điểm dự định kiểm sát, thì nên áp dụng biện pháp trực tiếp
kiểm sát. Ngoài ra, Viện kiểm sát có thể áp dụng biện pháp này để yêu cầu các
cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo để phục vụ cho công tác kiểm sát. Tuy nhiên, việc yêu

11 Tập bài giảng môn Khiếu nại, tố cáo, trang 68.
12 Ts. Phạm Mạnh Hùng, Bình luận Khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Lao động, năm
2018, Trang 773.
13 Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP ngày 10/8/2005 hướng thi hành Bộ

luật tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo.


cầu các cơ quan nêu trên cung cấp hồ sơ, tài liệu không phải là 1 biện pháp kiểm
sát, vì các cơ quan này không phải là đối tượng kiểm sát.14
Khi nhận được yêu cầu của VKSND thì cơ quan được yêu cầu phải có
trách nhiệm cung cấp hồ sơ, tài liệu để giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chẳng hạn,
trong lĩnh vực tố tụng hình sự thì thời hạn thực hiện yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài
liệu cho Viện kiểm sát là 07 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, trường hợp cần
gia hạn vì lý do khách quan thì phải có văn bản thông báo.15
3.

Ban hành kết luận kiểm sát, thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị theo
quy định của pháp luật.
Theo điểm b khoản 4 Điều 18 Quy chế số 51 quy định kết thúc biện pháp
trực tiếp kiểm sát phải ban hành kết luận về kết quả kiểm sát; nếu có căn cứ kết
luận vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, thì
tùy theo mức độ vi phạm mới tiếp tục ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị.
Việc ban hành các văn bản kết thúc kiểm sát như kết luận, kiến nghị, kháng
nghị phải tuân theo quy định tại khoản 4, Điều 18 Quy chế số 51. Trong đó, cần
lưu ý một số nguyên tắc như:
- Khi thực hiện biện pháp gián tiếp kiểm sát, chỉ ban hành kết luận trong
trường hợp kết quả kiểm sát cho thấy cơ quan được kiểm sát không có vi phạm
hoặc vi phạm không đáng kể, vi phạm ít nghiêm trọng chưa đến mức phải ban
hành kiến nghị, chỉ cần rút kinh nghiệm, nếu có căn cứ để kiến nghị thì ban hành
kiến nghị mà không được phải ban hành kết luận; khi thực hiện biện pháp trực
tiếp kiểm sát trong mọi trường hợp đều phải ban hành kết luận về kết quả kiểm
sát, nếu thấy vi phạm đến mức phải kiến nghị, kháng nghị thì ban hành kiến
nghị, kháng nghị.


14 Tập bài giảng môn Khiếu nại, tố cáo, trang 68,69.
15 Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP ngày 10/8/2005 hướng thi hành Bộ
luật tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo.


- Kháng nghị chỉ được ban hành khi trực tiếp kiểm sát trong tố tụng hình sự
và thi hành án hình sự.
- Trường hợp qua nghiên cứu đơn, văn bản yêu cầu của cơ quan có thẩm
quyền hoặc các nguồn thông tin khác, nếu có đủ căn cứ ban hành kiến nghị, thì
có thể ban hành kiến nghị ngay mà không cần áp dụng các biện pháp kiểm sát.
Theo một số quy định pháp luật như: các Điều 343 Luật TTHC năm 2015;
Điều 159 Luật THADS; khoản 6 Điều 141 Luật THAHS và khoản 4 Điều 18
Quy chế 51 xác định thẩm quyền ban hành kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm
sát nhưng không quy định cụ thể khi nào thì thực hiện quyền kháng nghị, khi
nào thì thực hiện quyền kiến nghị. Tuy nhiên, chúng ta có thể dựa trên quy định
của pháp luật để phân biệt giữa quyền kháng nghị với quyền kiến nghị, đó là căn
cứ vào “mức độ quy phạm”, theo đó: “1. Trường hợp hành vi, bản án, quyết định
của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát phải
kháng nghị…2. Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc
trường hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này thì Viện kiểm sát nhân
dân kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử
lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật”.16
Thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động
tư pháp cho thấy, Viện kiểm sát đánh giá tính chất nghiêm trọng của vi phạm
theo các dạng sau:



Vi phạm được coi là ít nghiêm trọng, gồm: Vi phạm về thủ tục giải quyết khiếu



nại, tố cáo; vi phạm về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Vi phạm được coi là nghiêm trọng, gồm: Vi phạm về thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo mà người khiếu nại, tố cáo không nhất trí, yêu cầu khắc phục vi
16 Điều 5 Luật Tổ chức VKSND năm 2014


phạm; vi phạm về nội dung giải quyết do sai lầm trong việc áp dụng pháp luật
dẫn đến việc giải quyết không đúng bản chất vụ việc.
Khi ban hành văn bản kết luận, kiến nghị, kháng nghị, trừ trường hợp ban
hành kiến nghị gửi cơ quan cấp trên của cơ quan được kiểm sát, thì ấn định thời
hạn là 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản; trường hợp có lý do khách quan
cần kéo dài thời hạn và cơ quan được kiểm sát phải thông báo rõ lý do bằng văn
bản, thì thời hạn là 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản. Điểm đ khoản 4
Điều 18 quy định việc ban hành các văn bản trong hoạt động kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp và hoạt động kiểm tra việc thực
hiện kiến nghị, kháng nghị phải theo mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy
định.
Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả các kháng nghị, kiến nghị của VKSND
trong công tác kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp,
công tác phúc tra kháng nghị, kiến nghị trong hoạt động kiểm sát được thực
hiện. Để đảm bảo thực hiện có hiệu quả công tác này, VKSND các địa phương
cần lưu ý một số vấn đề sau:


Đối tượng của công tác phúc tra là việc thực hiện kháng nghị, kiến nghị của các




cơ quan bị ban hành kiến nghị, kháng nghị.
Phương thức thực hiện phúc tra được tiến hành bằng 02 biện pháp trực tiếp và
gián tiếp; căn cứ vào tình hình, chỉ tiêu phúc tra mà VKSND địa phương tự lựa
chọn phương thức cho phù hợp. Trực tiếp phúc tra là trực tiếp tiến hành kiểm sát
việc thực hiện kháng nghị, kiến nghị đã ban hành của kỳ kiểm sát trước (kết hợp
phúc tra trong các đợt kiểm sát theo định kỳ hoặc đột xuất). Gián tiếp phúc tra là
yêu cầu đơn vị được phúc tra tự kiểm tra và báo cáo kết quả thực hiện kháng
nghị, kiến nghị do Viện kiểm sát đã ban hành khi xét thấy không cần thiết phải
tiến hành phúc tra trực tiếp. Cần lưu ý, đối với các kháng nghị, kiến nghị riêng
(không trong kết luận kiểm sát) phải được theo dõi, quản lý đầy đủ việc tiếp thu,
thực hiện kháng nghị, kiến nghị. Trong thời hạn luật định, đơn vị hữu quan chưa
có văn bản trả lời tiếp thu việc thực hiện kháng nghị, VKSND cấp tỉnh và huyện


có thể phúc tra trực tiếp theo thẩm quyền bằng cuộc phúc tra riêng hoặc yêu cầu


tự kiểm tra, báo cáo.
Kết thúc phúc tra, Viện kiểm sát phải ban hành Kết luận bằng văn bản, trong
trường hợp phúc tra được kết hợp với các cuộc kiểm sát định kỳ thì nội dung,
kết quả phúc tra được nêu trong Kết luận kiểm sát, trong đó nêu rõ những nội
dung kháng nghị, kiến nghị đã được thực hiện; những nội dung kháng nghị kiến
nghị chưa thực hiện; nguyên nhân, lý do chưa thực hiện; đề ra yêu cầu tiếp tục
thực hiện và kiến nghị xử lý đối với tập thể cá nhân có vi phạm (nếu có). Kết
luận được gửi đến cơ quan được phúc tra để thực hiện; gửi đến cơ quan cấp trên
trực tiếp của đơn vị được phúc tra để biết, chỉ đạo và gửi đến Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp để quản lý tình hình, tổng hợp, chỉ đạo. Đồng thời, việc phúc tra




phải được lập thành hồ sơ, sổ sách để theo dõi, quản lý.
VKSND cấp dưới không tiến hành công tác phúc tra kháng nghị, kiến nghị do
VKS cấp trên ban hành. Trong trường hợp cần thiết, VKSND cấp trên có thể tiến
hành phúc tra việc thực hiện các nội dung đã kháng nghị, kiến nghị của VKSND
cấp dưới.


KẾT LUẬN
Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt đông tư pháp, ngành Kiểm sát không những có vị trí, vai trò quan
trọng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền mà còn thực hiện
thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
đối với các cơ quan tư pháp ngang cấp và cấp dưới nhằm thực hiện đúng theo
quy định của pháp luật; góp phần xây dựng những qui định về khiếu nại, tố cáo
trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Tố tụng hành chính, Luật
thi hành án dân sự… tạo ra sự phối hợp trong khâu giải quyết khiếu nại, tố cáo
giữa các ngành được hoàn chỉnh,đồng bộ và thống nhất. Theo đó, để công tác
kiểm sát khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của VKSND các cấp được
thực hiện đúng đường lối của Đảng, quy định của pháp luật và của Ngành, phục
vụ tốt các nhiệm vụ chính trị, VKSND tối cao hướng dẫn như sau: Viện kiểm sát
các cấp thực hiện nghiêm quy định tại Điều 17 Quy chế số 51, đơn vị chủ trì
kiểm sát thực hiện việc chuyển đơn, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết, khi phát
hiện vi phạm, chủ động áp dụng biện pháp kiểm sát phù hợp, nếu cần thiết, đề ra
yêu cầu phối hợp với đơn vị nghiệp vụ liên quan. Chú trọng kiểm sát giải quyết
vụ việc để phát hiện vi phạm và ban hành kiến nghị, kháng nghị phù hợp.17

17 Văn bản số 04/HD-VKSTC hướng dẫn Công tác Kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp năm 2018.



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
VKSND
KSV
TTHC
THAHS
THADS

Nghĩa đầy đủ
Viện kiểm sát nhân dân
Kiểm sát viên
Tố tụng hành chính
Thi hành án hình sự
Thi hành án dân sự

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.


Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Luật tố tụng hình sự năm 2015.
Luật tố tụng dân sự năm 2015.
Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Luật thi hành án dân sự năm 2008 ( sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Luật khiếu nại năm 2011.
Luật tố cáo năm 2011.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP ngày

10/8/2005 hướng thi hành Bộ luật tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo.
11. Quy chế 51 ban hành ngày 02 tháng 02 năm 2016 về tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và kiểm sát giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp.
12. Quy chế 501 ban hành ngày 12 tháng 12 năm 2017 về công tác kiểm sát việc
tạm giư, tạm giam, thi hành án hình sự.
13. Văn bản số 04/HD-VKSTC hướng dẫn Công tác Kiểm sát và giải quyết đơn
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp năm 2018.
14. Ts. Phạm Mạnh Hùng, Bình luận Khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,
Nxb. Lao động, năm 2018.
15. Tập bài giảng môn Khiếu nại, tố cáo.



×