Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Các định chế xã hội của người Kơho trong quá trình phát triển (Nghiên cứu trường hợp ở Thị trấn Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.03 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 3( 28) - Tháng 5/2015

CÁC ĐỊNH CHẾ XÃ HỘI
CỦA NGƯỜI KƠHO TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN
(Nghiên cứu trường hợp ở Thị trấn Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng)
LÊ MINH CHIẾN(*)

TĨM TẮT:
Trong khn khổ bài viết, dựa trên kết quả các đợt khảo sát thực địa của tác giả tại
các bon người Chil, người Lạch là những nhóm địa phương của người Kơho tại xã Lát và
thị trấn Lạc Dương từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2014, kết hợp giữa khảo sát định lượng
gồm 280 hộ gia đình với các quan sát, phỏng vấn sâu tại cộng đồng. Tác giả cố gắng phác
họa những đổi thay cơ bản của một số định chế xã hội người Kơho ở thị trấn Lạc Dương
hiện nay so với trước đây, nêu lên các bối cảnh, các q trình và các yếu tố dẫn đến sự
biến đổi này. Trong đó tập trung vào hai định chế căn bản là già làng và hệ thống quản lý
xã hội và dựa trên luật tục trong q trình phát triển.
Từ khóa: định chế xã hội, già làng, luật tục, người Kơho, biến đổi xã hội
ABSTRACT:
In the article, based on the result of field surveys in the Chil and Lach’s hamlets of Lat
village and Lac Duong town carried out from May to September 2014, combined with the
quantitative survey of 280 households with observations, in-depth interviews in the
community, the author tries to outline the fundamental changes of some social institutions
of Koho people in Lac Duong town today compared with the past in order to highlight the
background, the process and the factors that lead to these changes. In this article the
author also focuses on two fundamental institutions as the village elderly and social
management systems, the customary law in the development process.
Keywords: social institution, the village elderly, customary law, Koho people, social
change
1. MỞ ĐẦU(*)


Kơho là một trong bốn dân tộc có dân
số đơng nhất trong các dân tộc thiểu số bản
địa ở Tây Ngun sinh sống tập trung chủ
yếu ở tỉnh Lâm Đồng. Theo thống kê năm
2009 Lâm đồng có khoảng 1.2 triệu dân
trong đó dân tộc thiểu số có 286.258 người
và người Kơho có 145.665 người ở tỉnh
Lâm Đồng chiếm trên 90% dân số các dân
tộc thiểu số của tỉnh, ngồi Lâm Đồng
người Kơho còn sống rải rác ở các tỉnh lân
(*)

cận Ninh Thuận, Bình Thuận và Khánh
Hòa. Trải qua q trình phát triển của lịch
sử, cộng đồng Kơho cũng chịu sự tác động
của nhiều chiều kích chính trị văn hóa xã
hội từ bên ngồi vào một cách khác nhau
song trên hết và quan trọng nhất, người
Kơho đã và đang là “một hợp phần của văn
hóa Tây Ngun” nằm trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam.
Lạc Dương là một thị trấn huyện lỵ của
tỉnh Lâm Đồng nằm cách thành phố Đà Lạt
khoảng 15 km, nơi đây tập trung một bộ

ThS, Trường Đại học Đà Lạt

113



phận đông đảo người Kơho sinh sống đã và
đang chịu tác động mạnh mẽ của quá trình
đô thị hóa nhanh chóng từ thành phố Đà
Lạt, một thành phố cao nguyên với 120
năm tuổi, là địa bàn cư trú lâu đời của
người dân bản địa đã từng sinh sống lâu
nay. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, đến
nay Lạc Dương là một đô thị loại V theo
tiêu chí phân loại đô thị ở Việt Nam.
Huyện Lạc Dương có 19.298 người, trong
đó các tộc người thiểu số bản địa chiếm tỷ
lệ 78.1% dân số toàn huyện. Thị trấn có
tổng diện tích đất tự nhiên 7.061 ha, qui
mô dân số là 2.101 hộ với 9.213 người,
trong đó nhóm tộc người Kơho tại chỗ có
1.156 hộ chiếm gần 56%.
Xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ
quan khách quan khác nhau của các quá
trình xã hội như đô thị hóa, công nghiệp
hóa, sự hội nhập và giao lưu quốc tế hay
đời sống cộng sinh giữa các nhóm cư dân
trở thành quy luật tất yếu tác động đến
chuyển biến xã hội trong “xã hội” người
Kơho. Ở đây hiện đang diễn ra những thay
đổi nhanh chóng về mọi mặt: kinh tế, văn
hóa, xã hội, tôn giáo tín ngưỡng, truyền
thống xã hội, nghề nghiệp, lối sống, đặc
biệt là hệ thống các định chế xã hội.
2. GIÀ LÀNG VÀ HỆ THỐNG
QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trong quá khứ, làng cổ truyền của dân
tộc Kơho là một thiết chế xã hội mang tính
tự quản. Hệ thống “chức sắc” trong làng
(bon) có vị trí và vai trò quan trọng trong
điều hành “bộ máy” và tập thể cộng đồng
mà họ “lãnh đạo”.
Trước hết, đứng đầu là vị chủ làng
(Tom Bon), người có uy tín, am hiểu
phong tục tập quán, có nhiều kinh nghiệm
trong lao động sản xuất, có khả năng tổ
chức, điều hành công việc của làng từ đối
nội đến đối ngoại bao gồm: Chủ trì các lễ

hội lễ nghi tinh thần, giải quyết các bất
đồng các vi phạm luật tục, tập hợp dân làng
bảo vệ đất đai, nguồn lực kinh tế, đón tiếp
hay hòa giải khi xung đột xảy ra với các
làng khác, dòng họ khác.
Chủ làng là người có nhiều quyền
hành, nhưng không đứng trên hay tách rời
cộng đồng mà thường là người đại diện cho
lợi ích cho tập thể, ông không có nhiều đặc
quyền đặc lợi, trong cuộc sống hằng ngày
vẫn phải lao động kiếm sống như mọi
người để nuôi mình và gia đình.
Thứ hai, để thực hiện công việc của
làng, chủ làng thường dựa vào ý kiến của
các già làng có kinh nghiệm, được tôn
trọng. Họ trở thành một tập thể quan trọng
tham gia vào quá trình quản lý vận hành

mọi hoạt động sống của làng. Đó là “Hội
đồng già làng” họ tạo thành một cơ chế bao
gồm những người đại diện cho các hộ gia
đình trong làng. Đặc điểm già làng thường
là người cao tuổi, am hiểu núi rừng, có tri
thức bản địa phong phú, nằm vững phong
tục tập quán, lịch sử của làng, được mọi
người tin yêu kính trọng.
Trong nhiều buôn làng Kơho, bên cạnh
chủ làng, các già làng, còn tồn tại một số
chức sắc khác như tộc trưởng, chủ nhà, chủ
đất – người làm nhiệm vụ điều hành sử
dụng và quản lý rừng, đất đai của cộng
đồng. Thầy cúng hay thầy phù thủy theo
cách gọi của các nhà nhân học, họ có
nhiệm vụ giúp chủ làng, giúp cộng đồng
trong các lễ quan trọng, trong giao tiếp
giữa con người và thần linh, họ có chức
năng như B.Maninowski gọi là vừa mang
tính “công khai” vừa “tiềm ẩn” giống như
lễ hội cầu mưa của nhóm cư dân trên các
đảo ở Thái Bình Dương.
Chủ làng và hội đồng già làng (hay già
làng) điều hành quản lý công việc chung
của làng Kơho bằng luật tục (tập quán pháp)
114


nhằm duy trì bảo vệ các giá trị cộng đồng,
đảm bảo sự phát triển lành mạnh và trường

tồn dân tộc mình. Người dân trong làng lo
sợ nhất là bị ruồng bỏ hay bị đuổi ra khỏi
cộng đồng, nên tuyệt đại bộ phận tuân thủ
các quy định vốn có một cách tự giác.
Bước vào xã hội hiện đại nhất là xã hội
thị dân, thiết chế cũ với vai trò chủ làng,
chủ rừng, hội đồng già làng suy yếu. Các
khái niệm chủ làng, chủ rừng trở nên mờ
nhạt, không còn tồn tại trong cộng đồng.
Già làng là những người có uy tín, vẫn
đóng vai trò quan trọng nhất định trong
công tác hòa giải, vai trò động viên tinh
thần trong cộng đồng nhiều hơn, tiếng nói
đại diện cho quyền lực trong cộng đồng
như trong quá khứ có phần suy giảm nhất
là tại các khu vực đô thị.
Phỏng vấn ông B. J. Cán bộ Thị trấn,
sinh năm 1972, ngày 24/08/2014 cho biết:
“Trong thiết chế cộng đồng người Kơho
ở thị trấn Lạc Dương hiện nay vai trò già
làng, chủ làng, chủ rừng không còn nữa. Già
làng trước đây có tiếng nói rất quan trọng
nay còn ít, thay vào đó là những người trong
cộng đồng, dòng họ lớn, giàu có, có trình độ,
ăn nói tốt trong địa phương thì sẽ là những
người có uy tín, nói bà con nghe theo.
Già làng ở thị trấn vẫn còn nhưng uy
tín không bằng trước đây, đang dần dần bị
mất. Hiện nay có nhà thờ, người dân tin
tưởng vào chức sắc tôn giáo hơn”.

Đợt khảo sát tháng 08/2014, chúng tôi
có nêu ra câu hỏi: “Khi giải quyết các ranh
chấp/ xung đột mà không thể tự hòa giải
được thì ông/bà thường tìm đến tổ chức, cá
nhân nào?” Kết quả cho thấy rằng trong
280 người được hỏi là: Xung đột vợ chồng
có 47.3% số người được hỏi nói là tìm đến
người uy tín trong dòng họ, trong khi đó
già làng chiếm 8.2%. Mâu thuẫn anh em, tỉ
lệ là: 59.1% và 12.2%.

Nguyên nhân vai trò, vị thế xã hội của
các “chức sắc” vốn có ảnh hưởng quyết
định đến đời sống cộng đồng trong truyền
thống trước đây nay ít nhiều đã suy giảm
đó là do các yếu tố cơ bản của chuyển biến
thiết chế. Cụ thể:
Cuộc sống người dân Kơho Lạc
Dương đã định cư từ lâu, đời sống không
quá phụ thuộc vào tự nhiên, rừng núi,
nương rẫy, …
Chịu sự chi phối và ảnh hưởng của các
định chế xã hội hiện đại, mang tính quan
phương.
Khi thị trấn thành lập, cách tổ chức
quản lý công dân theo hình thức mang tính
thiết chế, đô thị: Tổ dân phố, khu phố văn
hóa, văn minh đô thị. Thị trấn là nơi có sự
tiếp nhân và thường xuyên chịu sự tác
động của các hoạt động kinh tế – chính trị

– xã hội thông qua các quá trình như: Đô
thị hóa ở địa phương xuất phát từ chủ
trương hình thành khu công nghệ cao; các
hoạt động du lịch ảnh hưởng do là yếu tố
vùng ven thành phố Đà Lạt
Trình độ dân trí so với nhiều địa
phương trong tỉnh có trình độ học vấn từ
trung học cơ sở trở lên (chiếm 60,2%).
3. LUẬT TỤC TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN
Mỗi cộng đồng cư dân Tây Nguyên
đều có một Luật tục riêng, nhằm duy trì
các mối quan hệ xã hội bao gồm quản lý
điều hành xã hội, kiểm soát, chế tài các
hành vi con người. Luật tục cũng chính là
thái độ ứng xử giữa con người với con
người trong xã hội và con người với môi
trường tự nhiên.
Luật tục được các nhà khoa học nghiên
cứu với nhiều tên gọi khác nhau: Luật
phong tục (Customary Law), luật dân gian
(Folk – Law), Luật truyền thống
(Traditional Law), Luật địa phương ( Local
115


Law), nhưng dù dưới tên gọi nào đi nữa,
Luật tục cũng cho thấy nó được hình thành
trong quá trình phát sinh, phát triển của tộc
người, được tích lũy và luân chuyển từ thế

hệ này đến thế hệ khác, không ngừng được
bổ sung hoàn chỉnh để trở thành dạng “ luật
pháp đặc thù” của một dân tộc, đảm bảo cho
dân tộc đó ổn định, phát triển bền vững.
Luật tục có đặc điểm chung là sản
phẩm của các xã hội cổ truyền gắn liền với
những đặc điểm, điều kiện xã hội, địa lý tự
nhiên của mỗi cộng động dân cư, gắn với
tư duy là sự suy nghĩ, tình cảm, quan niệm
về sở hữu, tâm linh, ứng xử văn hóa của
cộng đồng. Có những nét tương đồng, có
nét khác biệt giữa luật tục và pháp luật.
Luật tục là của một tộc người, còn luật
pháp là của một nhà nước quốc gia dân tộc.
Luật tục phản ánh mối quan hệ cộng đồng
được xây dựng trên cấu trúc, xã hội cổ
truyền, là thói quen, kinh nghiệm của con
người được hình thành trong quá trình tồn
tại, vận đồng tại gia đình – dòng họ – buôn
làng và có tính cố kết cao. Luật tục là hình
thái sơ khai của luật pháp trong xã hội chưa
có nhà nước, chưa phân chia giai cấp nhằm
hướng dẫn, điều chỉnh, điều hòa các quan
hệ cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng
đồng, cộng đồng này với cộng đồng khác.
Luật tục được lưu giữ từ đời này sang đời
khác thông qua trí nhớ, thông qua truyền
miệng của người dân. Nó góp phần gìn giữ,
củng cố sự ổn định của buôn làng và tạo
nên các giá trị văn hóa cho từng dân tộc.

Luật tục bên cạnh những mặt tích cực
thì còn một đặc điểm nữa là có những hạn
chế nhất định, đôi khi rất nghiệt ngã, thiếu
dân chủ, thiếu khách quan mang nặng tính
cảm tính, đối xử với con người trong bối
cảnh xã hội mà con người sống gắn chặt
với môi trường tự nhiên nên không tránh
khỏi những vấn đề mang tính hủ tục. Ví dụ

như những hình phạt quá khắc khe: phạt
bằng đền bù trâu bò, ăn bằng máng dưới
đất, hay khi bị kết tội là “ ma lai” bị đuổi ra
khỏi cộng đồng, bị bệnh tật nặng nghi
truyền nhiễm thì không được cộng đồng
chăm lo chữa trị mà bị cách ly với xã
hội…. Điều này không phù hợp trong xã
hội tiến bộ, hiện đại ngày nay.
Luật tục Kơho được hình thành và đúc
kết từ các giá trị nhân văn lâu đời được hình
thành qua quá trình lao động, sáng tạo, và
sống hòa đồng với thiên nhiên. Luật tục
Kơho đề cập đến khá nhiều vấn đề mang
tính “ toàn diện của luật pháp sơ khai” trong
đó chứa đựng các nguyên tắc khai thác, sử
dụng, bảo vệ rừng và đất đai, các quy định
về sở hữu tài sản cá nhân, cộng đồng, mang
tính giáo dục, định hướng hành động xã hội
theo các chuẩn mực đạo đức, phân biệt
thiện- ác, đúng-sai. Đồng thời có tính răn
đe, xử phạt – động viên, khen thưởng áp đặt

lên cá nhân và cộng đồng.
Luật tục vận hành trong xã hội Kơho với
nhiều quy định liên quan đến nhiều vấn đề tổ
chức xã hội. Khoảng hơn 400 “ điều khoản”
tập trung vào các chủ đề trong cuộc sống:
quy định ứng xử với rừng, thần linh, lễ hội,
cưới xin, ma chay… và các hình phạt.
Bước vào xã hội ngày nay, nhiều điều
quy định trong luật tục không còn phổ
biến. Xã hội tộc người Kơho ở trung tâm
thị trấn Lạc Dương chấp hành các chủ
trương chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Mọi xét xử liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ công dân được thực
hiện bởi cấp thấp nhất là các tổ hòa giải, tổ
văn hóa khu phố, cao hơn là tòa án các cấp.
Khảo sát, phỏng vấn 280 người tại Lạc
Dương, mọi người đều khẳng định “ Tòa
án phong tục” của người Kơho thị trấn hiện
nay không còn hiện hữu. Ông B.J cho rằng
“Luật tục còn giữ ít thôi, giải quyết theo
116


luật pháp hết, tình trạng con cô con cậu lấy
nhau còn rất ít, tòa án phong tục thì không
còn nữa.” Không còn tín ngưỡng theo kiểu
cúng tế như trước đây, Đảng và nhà nước
đưa ra chủ trương chính sách mang tính
định hướng rồi, ma chay hay cưới xin đều

thực hiện trong nhà thờ.”
Đa số người dân được khảo sát cho
rằng: Mọi cúng tế không theo nghi thức
trước đây, người dân đã bỏ nhiều hủ tục
như không còn ăn uống linh đình kéo dài
nhiều ngày nữa, lể vật mang theo còn rất ít,
chủ yếu là đi phong bì, việc chôn cất người
chết không theo dòng họ rải rác như trước
mà hình thức giống người Kinh.
Qua nghiên cứu, quan sát và phỏng vấn
sâu chúng tôi nhận thấy luật tục tuy đã suy
giảm nhiều, song một số vấn đề quan trong
mang tính giáo dục, lưu truyền, truyền
thống tộc người không hoàn toàn biến mất
tại thị trấn. Hình thức lưu truyền là những
lời răn dạy, khuyên bảo, những vật dụng
cổ, hay các nghi thức quan trọng trong gia
đình, dòng họ. Chiếc “ché” cổ của cộng
đồng dòng họ không phải ai cũng được trao
quyền nắm giữ. Khi tổ chức một nghi lễ
quan trọng như mừng thọ hay lễ cúng trong
đời sống thường nhật, mọi thành viên khi
tham gia uống rượu cần vẫn phải có những
câu khấn cầu nguyện hay tục “ xoay cần”,
“chạm cần” như là một nét văn hóa vừa
trang trọng vừa linh thiêng phải có.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy có từ
50-80% những người được hỏi rằng khi
giải quyết những vấn đề có liên quan đến
gia đình thì ít khi đưa nhau ra cơ quan công

quyền có thẩm quyền để gia quyết mà chủ
yếu thực hiện trong dòng họ với nhau.
Điều này cho thấy yếu tố luật tục không
“hiện” ra bên ngoài nhưng lại “ẩn” trong
dòng họ, giải quyết những bất đồng khi
không còn tòa phong tục thì vừa có những

quy định riêng trong mỗi dòng họ và hầu
như được “ thu xếp” ổn thỏa, chỉ những
vấn đề nghiêm trọng mới đưa ra chính
quyền để giải quyết.
Cuối cùng tôn giáo và các thiết chế của
tôn giáo xâm nhập cồng đồng Kơho những
năm 30-40 của thế kỷ XX cũng như sự
phát triển nhanh của đạo Tin lành và Thiên
Chúa giáo góp phần làm biến đổi không
chỉ thiết chế làng bản mà cả hệ thống chức
sắc bon làng cùng hệ thống niềm tin, các
tín ngưỡng truyền thống.
4. KẾT LUẬN
Nhìn chung, trong quá trình tồn tại và
phát triển trước khi chuyển sang xã hội đô
thị, thị tứ bước đầu hình thành lối sống thị
dân thì cộng đồng cư dân Kơho ở thị trấn
Lạc Dương đã phải trải qua thời gian dài
sống trong cơ cấu tổ chức xã hội cổ truyền
mà nền tảng của nó là bon với các định chế
cơ bản bao gồm luật tục và hệ thống “ chức
sắc” như chủ làng, già làng, chủ đất. Sau
ngày giải phóng quá trình di dân ồ ạt và

nhiều chính sách vĩ mô thời kỳ này đã làm
cho tình hình Tây Nguyên và Lâm Đồng có
nhiều chuyển biến quan trọng, cục diện tổ
chức xã hội có nhiều thay đổi. Ở thị trấn
Lạc Dương được bổ sung thêm bằng tác
động của các nhân tố đô thị hóa như ảnh
hưởng văn hóa du lịch, quá trình phát triển
của thành phố Đà Lạt, Xã Lát trở thành thị
trấn cấp huyện ( Đô thị loại V). Bên cạnh
đó, các sự xâm nhập tôn giáo ( Tin Lành,
Thiên chúa giáo) có tác động không nhỏ
góp phần làm thay đổi tổ chức xã hội truyền
thống của cư dân thị trấn Lạc Dương. Do
vậy, vấn đề đặt ra là toàn bộ hệ thống chính
trị cần có sự quan tâm nghiên cứu để có
những chính sách vĩ mô phù hợp với thực
tiễn hiện đang diễn ra với tốc độ nhanh
chóng cho các cư dân bản địa Tây Nguyên
nói chung, tộc người Kơho nói riêng.
117


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phan Ngọc Chiến (Chủ biên) (2005), Người K’ho ở Lâm Đồng, Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Bùi Minh Đạo (2011), Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát triển
bền vững. Nxb KHXH, Hà Nội.
3. Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng (2003), Dân tộc Kơho ở Việt Nam, Nxb KHXH Hà Nội.
4. Mạc Đường (Chủ biên) (1983), Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Sở văn hóa tỉnh Lâm
Đồng xuất bản.

5. Lê Văn Khoa – Phạm Quang Tú (2014), Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên,
Nxb Tri Thức, Hà Nội.
6. Lê Văn Kỳ (Chủ biên) và đồng nghiệp (2005), Phong tục tập quán cổ truyền một số
dân tộc thiểu số Nam Tây Nguyên, Viện KHXH Việt Nam, Hà Nội.
7. Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu, (1998), Văn hóa các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Nhiều tác giả (1989). Những kết quả nghiên cứu kinh tế – xã hội Lâm Đồng, Nxb
KHXH, Hà Nội.
9. Krajan Plin (2010), Luật tục người K’ho Lạch, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
10. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
1.

* Ngày nhận bài: 06/3/2015. Biên tập xong: 24/4/2015. Duyệt đăng: 04/5/2015.



×