Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Đời thừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.81 KB, 3 trang )

Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Đời thừa
Bài làm
Trước cách mạng tháng tám văn chương của Nam Cao đi vào hai đề  tài chủ  yếu đó là  
người nông dân và người trí thức trong xã hội cũ, đặc biệt vốn là một nhà văn nên đề  tài  
về  người tri thức phải nói chính là sở  trường của Nam Cao. Và Đời thừa là một trong  
những tác phẩm thành công nhất khi tác giả viết về đề tài người tri thức với nhiều giá trị 
nhân đạo và nghệ thuật sâu sắc.
Phân tích nhan đề tác phẩm để hiểu được nội dung của câu chuyện, thì Đời thừa có nghĩa  
là cuộc sống vô ích, vô tích sự, đời không cần đến, mà ở  đây đối với nhân vật Hộ  ấy là 
văn chương không cần đến anh. Đời thừa là một tác phẩm mang tính luận đề, có tính tư 
tưởng mà qua đó tác giả  có thể  trình bày những quan điểm của mình về  nghệ  thuật, về 
nhân sinh. Ngoài những quan điểm về văn chương của tác giả thì giá trị nhân đạo của tác  
phẩm là một phần rất trọng tâm của tác phẩm, bởi nó xuyên suốt cả câu chuyện, đem đến 
cho độc giả những cái nhìn mới và chân thực về nghệ thuật "vị nhân sinh" của Nam Cao.
Đầu tiên truyện ngắn Đời thừa lên án xã hội cũ vô nhân đạo đã tước đi ý nghĩa của cuộc  
sống và ngấm ngầm hủy hoại đi nhân cách của con người. Điều  ấy thể  hiện rõ nhất  
trong nhân vật Hộ, vốn là một con người muốn sống có ích, có hoài bão và ước mơ  lớn  
lao về văn chương nhưng vì cuộc sống đưa đẩy vì cơm áo gạo tiền mà phải từ bỏ  đi cái  
suy nghĩ thuở  ban sơ, lao vào viết những thứ  văn chương nhạt nhẽo, không có giá trị. 
Nhân vật Hộ từ một con người với chí khí hăng hái bừng bừng tưởng sẽ làm nên chuyện  
cuối cùng lại rơi vào bước đường khổ  sở, trở  thành một kẻ  thừa trong chính mộng ước  
mà anh gầy dựng bấy lâu nay. Hơn thế  nữa Hộ  vốn là một chàng trai nhân hậu và tốt  
bụng biết bao khi sẵn sàng cưu mang một người phụ nữ lầm lỡ bị tình nhân ruồng bỏ, lại  
có con riêng, rồi nhận làm vợ, trong khi đó ngoài kia đang có biết bao người nhìn vào và  
khinh bỉ cô. Thế nhưng cái tình thương, tình yêu, lòng trắc ẩn của một người đàn ông nó  
cũng không đủ  để  thắng được cái nghiệt ngã của cuộc sống, từ  một người cha người  
chồng thương yêu vợ con, anh dần bỏ bê, rồi rơi vào những cuộc say đến mất lý trí, đến  
mức đánh và đuổi cả  người vợ  tội nghiệp ra ngoài. Tất cả  những bi kịch trên đều xuất  
phát từ một chữ "tiền" và văn chương trong xã hội ấy cũng chẳng đáng giá hay được coi 



trọng là mấy, người ta đọc văn, đọc báo cốt chỉ để mua vui chứ có hơi sức đâu mà tìm tòi  
nghiên cứu mà thấm nhuần cái nghĩa lý bên trong. Cứ như thế những tác phẩm chân chính  
dần dà biến mất và thay vào đó là những thứ văn chương đến chính chủ còn phải xấu hổ 
đỏ mặt, chỉ muốn xé đi cho khuất mắt. Đấy chính là nguồn cơn của bi kịch cuộc đời Hộ.
Thứ  hai, với truyện ngắn Đời thừa Nam Cao còn phát hiện và khẳng định cái cuộc đấu  
tranh tinh thần đầy cam go, sự thức tỉnh của lương tâm trong người trí thức chân chính, để 
từ đó vươn lên một cuộc sống đàng hoàng xứng đáng hơn. Nam Cao luôn có một niềm tin  
vững chắc vào tâm hồn của những người làm tri thức, ta có thể thấy rằng trong tác phẩm  
của ông thường xuất hiện những giọt nước mắt,  ấy là giọt nước mắt của sự ân hận, hối  
lỗi. Những người tri thức trong tác phẩm của Nam Cao, ít nhiều đều phạm những lỗi lầm  
riêng biệt có thể là chuyện trái lương tâm đạo đức hoắc bất nghĩa nào đó mà nguồn cơn là 
bị  xã hội vô nhân đạo kể  trên bức ép đến đường cùng. Một khi nhận ra sai lầm, họ 
thường khóc, những giọt nước mắt  ấy được Nam Cao ví cho một cái tên rất hay "giọt  
châu của loài người", đó là dấu hiệu sâu sắc nhất thể hiện lương tâm người tri thức vẫn 
còn đó và nó đã chiến thắng được những suy nghĩ xấu xa đang ám đen nhân cách của con 
người. Trong tác phẩm, cuối truyện Hộ  đã khóc, khóc "nức nở, khóc như  thể  không ra 
tiếng khóc", hẳn anh đã phải đấu tranh và giành xé tâm can lắm, thì những giọt nước mắt 
của anh mới đau đớn đến xót xa như vậy. Nhưng cũng chính những giọt nước mắt này đã 
giúp Hộ  thanh lọc tâm hồn, kịp thời giữ  Hộ  lạ  trước bờ  vực của sự sa ngã bê tha, đánh  
mất đi cái bản tính lương thiện nguyên sơ của mình.
Giá trị  nhân đạo thứ  ba của tác phẩm,  ấy là dường như  Nam Cao cũng đang hướng tới 
giải quyết những bi kịch của lớp trí thức bằng một cái giải pháp xã hội, làm sao cho một  
người trí thức chân chính có thể  sống có ích và sống được bằng chính những tác phẩm 
tâm huyết của mình, được sống đúng với nhân cách, sống trong tình thương yêu trong một 
xã hội phi nhân tính. Để làm được điều ấy, chúng ta buộc phải thay đổi hoàn cảnh, chỉ khi 
sống trong một xã hội nhân đạo thì người trí thức mới có thể hoàn toàn được sống và làm  
việc đúng với bản ngã lương tâm của mình, tạo ra những tác phẩm có giá trị cho xã hội.
Đời thừa là một truyện ngắn xuất sắc, nó đã vượt qua mọi rào cản và giới hạn để tiến tới 
là tác phẩm của loài người, bởi những giá trị  nhân văn, nhân đạo sâu sắc  ẩn chứa bên  



trong một tác phẩm, thông qua nhân vật cụ thể. Đồng thời càng khẳng định tài năng của  
Nam Cao trong việc xây dựng cốt truyện với tất cả những kết tinh trong quan điểm nghệ 
thuật của ông mà đi đầu ấy là quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh.



×