Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nội dung, giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 5 trang )

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

NỘI DUNG, GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

n Nguyễn Văn Lập
PGĐ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nghệ An

Sau 10 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 7 (Khoá X) về
nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, dưới sự lãnh đạo sát sao,
quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND,
UBND tỉnh Nghệ An; sự vào cuộc
của các cấp, các ngành, sự nỗ lực
của bà con nông dân và cộng
đồng doanh nghiệp, Nghệ An đã
đạt được kết quả khá toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực. Trong
khuôn khổ của bài viết này, chúng
tôi chỉ nêu một số nội dung xung
quanh vấn đề: nội dung và giải
pháp để nâng cao hiệu quả sản
xuất nông nghiệp.

SỐ 9/2018

Nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp là nội dung
quan trọng trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 7
(khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Kết quả
sản xuất nông nghiệp cao và bền vững sẽ đảm bảo cho


nền nông nghiệp phát triển tốt, từ đó nâng cao đời sống
người nông dân và tăng cường cơ sở vật chất, thay đổi
bộ mặt nông thôn. Để sản xuất nông nghiệp đạt hiệu
quả cao, thời gian qua, tỉnh ta đã áp dụng đồng bộ nhiều
nội dung và giải pháp như sau:
Thứ nhất, về công tác quy hoạch:
Xét cả về lý luận và thực tiễn thì quy hoạch là nội
dung quan trọng để định hướng cho sản xuất phát triển
tốt và hiệu quả. Những năm qua, ngành nông nghiệp
Nghệ An rất quan tâm đến công tác tham mưu xây dựng
và triển khai thực hiện quy hoạch. Bao gồm cả quy
hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm và cả quy hoạch cụ
Tạp chí

KH-CN Nghệ An

[31]


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
thể cho từng dự án. Ngoài ra, để phù hợp
với việc triển khai công nghệ mới vào
sản xuất, ngành còn xây dựng quy hoạch
các vùng, khu nông nghiệp sản xuất nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Cùng
với việc xây dựng triển khai các quy
hoạch, công tác rà soát, điều chỉnh quy
hoạch cho phù hợp với từng giai đoạn cụ
thể cũng được quan tâm thực hiện.
Do công tác quy hoạch và điều chỉnh

bổ sung quy hoạch được thực hiện bài
bản, cụ thể, kịp thời, chúng ta đã định
hướng rõ xu thế phát triển của toàn ngành
nông nghiệp, từng lĩnh vực, từng sản
phẩm. Đã hình thành rõ các vùng nguyên
liệu tập trung gắn với chế biến (chè, mía,
sắn, chanh leo, cây thức ăn chăn nuôi,
cây nguyên liệu gỗ...); đồng thời đã hình
thành các vùng sản xuất hàng hóa, vùng
chuyên sản xuất giống, các vùng sản xuất
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, từ
đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất.
Thứ hai, về ứng dụng, chuyển giao
khoa học và công nghệ (KH&CN):
Tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất: Đây là
nội dung được quan tâm triển khai thực
hiện khá mạnh mẽ trong thời gian qua.
- Về nghiên cứu khoa học: Tuy nguồn
lực của tỉnh có hạn, nhưng trong giai
đoạn 2011-2018, từ nguồn KH&CN của
tỉnh đã triển khai thực hiện 95 đề tài, dự
án về lĩnh vực nông nghiệp. Trong đó, đã
hoàn thành 78 đề tài, đã và đang thực
hiện 17 đề tài. Số đề tài được ứng dụng
vào sản xuất là 57 đề tài/78 đề tài
(73,08%), trong đó ứng dụng toàn phần
là 49 đề tài, ứng dụng một phần là 8 đề
tài (Lĩnh vực trồng trọt: có 25/34 đề tài,
dự án được đưa vào thực hiện mô hình
chiếm 73,52%; Lĩnh vực chăn nuôi: có

5/10 đề tài, dự án được ứng dụng vào xây
dựng mô hình trình diễn phù hợp với
điều kiện địa phương; Lĩnh vực lâm
nghiệp: có 2/5 đề tài, dự án được ứng
dụng đưa vào xây dựng mô hình và phát
triển có hiệu quả; Lĩnh vực thủy sản: có
SỐ 9/2018

26/29 đề tài, dự án được đưa vào thực hiện mô hình
chiếm 89,66%). Ngoài các đề tài, dự án từ nguồn ngân
sách KH&CN của tỉnh, chúng ta còn nhận được công
nghệ, kỹ thuật từ kết quả nghiên cứu của các viện,
trường và doanh nghiệp.
- Về xây dựng và nhân rộng mô hình: Đây là cầu
nối để đưa nhanh các kết quả nghiên cứu vào phục vụ
sản xuất, chính vì thế những năm qua Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đã tập trung chỉ đạo các địa
phương, đơn vị triển khai thực hiện xây dựng và nhân
rộng nhiều mô hình. Giai đoạn 2011-2018, Nghệ An
đã xây dựng 5.369 mô hình thuộc 9 lĩnh vực. Trong
đó, ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các đơn vị xây
dựng là 1.371 mô hình, chiếm 25,54% (riêng thông
qua hệ thống khuyến nông là 890 mô hình, chiếm
16,58%); các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng 1.423
mô hình, chiếm 26,5%; doanh nghiệp và dự án hỗ trợ
xây dựng là 598 mô hình, chiếm gần 11,14%; nông
dân tự đầu tư kinh phí với sự hỗ trợ về khoa học kỹ
thuật từ các đơn vị chuyên môn xây dựng 1.977 mô
hình, chiếm gần 38%. Tổng kinh phí xây dựng mô
hình trên địa bàn toàn tỉnh ước đạt 560,375 tỷ đồng.

Trong đó, ngân sách nhà nước hỗ trợ gần 107,342 tỷ
đồng, chiếm 19,17 %; các doanh nghiệp và tổ chức,
dự án hỗ trợ 76.423 tỷ đồng, chiếm 13,66%; nông dân
tự đầu tư kinh phí thông qua các trang trại, gia trại
376,31 tỷ đồng, chiếm gần 67,17%. Số lượng mô hình
được nhân rộng là 4.245 mô hình, chiếm gần 80%
tổng số mô hình xây dựng (thông qua nguồn ngân sách
nhà nước đạt 79,58%; thông qua các tổ chức chính trị
- xã hội đạt 72,94%; thông qua các dự án chính phủ,
phi chính phủ: 80,66%; thông qua sự phối hợp với các
doanh nghiệp: 85,75%; các trạng trại, gia trại:
81,63%).
Cùng với việc xây dựng, nhân rộng mô hình, chúng
ta cũng đã đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ cao vào
sản xuất. Đến cuối năm 2017, tổng diện tích canh tác
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là 9.502ha, chiếm
3,1% diện tích canh tác nông nghiệp. Giá trị sản xuất
bình quân từ 200-250 triệu đồng/ha/năm, cao gấp 2-3
lần so với sản xuất nông nghiệp đại trà. Tỷ trọng sản
xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm
khoảng 5-10% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Có
12 doanh nghiệp hoạt động KH&CN và ứng dụng công
nghệ cao trong nông nghiệp.
Kết quả của công tác nghiên cứu khoa học, ứng
Tạp chí

KH-CN Nghệ An

[32]



NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
dụng và nhân rộng các mô hình vào sản xuất, kể cả
việc ứng dụng công nghệ cao đã có tác động lớn đến
sản xuất trong thời gian qua, điều đó được thể hiện
trên các mặt sau:
- Về cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho từng vùng,
từng thời vụ đã được khẳng định rõ, với phương
châm “đất nào cây ấy”, cây con cụ thể cho từng tiểu
vùng sinh thái (mía ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Thái
Hòa, Tân Kỳ, Anh Sơn Con Cuông; chè công nghiệp
ở Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông; chè đặc sản
ở Kỳ Sơn; chanh leo ở Quế Phong, Tương Dương,
Kỳ Sơn; cam ở Quỳ Hợp, Thái Hòa, Nghĩa Đàn, Tân
Kỳ, Con Cuông; cao su ở Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ
Hợp, Anh Sơn, Quế Phong; lạc tập trung chủ yếu ở
Diễn Châu, Nghi Lộc, Nam Đàn; vùng sản xuất
giống lúa tại các huyện: Yên Thành, Quỳnh Lưu,
Diễn Châu, Đô Lương, Hưng Nguyên, Nam Đàn).
- Về cơ cấu giống cho các cây trồng chủ lực đã
được khẳng định và có thay đổi cho phù hợp với mục
tiêu sản xuất của từng thời kỳ: giống chè LDP1,
LDP2, PH1 cho vùng chè công nghiệp; giống Tuyết
Shan cho vùng chè đặc sản; sử dụng cơ bản các giống
ngô lai đơn kể cả sản xuất lấy hạt và lấy thân, lá làm
thức ăn gia súc. Về giống lúa: giai đoạn trước 2015,
với mục tiêu nâng cao sản lượng, chúng ta tập trung
đưa nhanh các giống lúa lai Trung Quốc, thậm chí còn
ưu tiên các giống có năng suất cao, nhưng chất lượng
không cao như: Nhị ưu 838, Nhị ưu 986... Từ 2015


Vùng chè nguyên liệu ở Thanh Chương

SỐ 9/2018

đến nay, khi sản lượng đã thỏa mãn nhu
cầu, chúng ta chuyển sang các giống chất
lượng có giá trị cao hơn, nhất là các giống
vừa có năng suất cao, vừa có chất lượng
tốt như: AC5, Hương thơm 1, Bắc thơm
7, Thái xuyên 111, Nghi hương 2038,
Japonica, BC 15, TBR 225, VTNA6,
VTNA2... Về cây lâm nghiệp, đã đưa
nhanh giống keo lai năng suất bình quân
18-20m3/ha/năm vào sản xuất. Chuyển đổi
lợn nái nội sang lợn ngoại.
- Các tiến bộ kỹ thuật cũng được
chuyển giao nhanh vào sản xuất như: sản
xuất lúa chất lượng cao theo hướng
VietGAP; thâm canh lúa cải tiến SRI; Kỹ
thuật nhân giống chè bằng giâm hom; kỹ
thuật nhân giống chanh leo; nâng cao hiệu
quả sử dụng đất dốc, tăng thu nhập cho bà
con vùng miền núi; sản xuất rau các loại,
nấm ăn theo hướng VietGAP như dưa
chuột, dưa hấu, bí xanh, đậu co ve, dưa
bở, dưa lê; ứng dụng đồng bộ các giải
pháp kỹ thuật trong thâm canh các giống
mía mới năng suất cao nhân rộng gần;
thâm canh cam theo hướng VietGAP; áp

dụng biện pháp tưới nhỏ giọt trên cây mía,
cam. Chăn nuôi an toàn sinh học đảm bảo
vệ sinh môi trường; vỗ béo trâu, bò hàng
hóa; ứng dụng máy dò cá, ra đa hàng hải,
thông tin tầm xa trong khai thác thủy hải
sản; nuôi tôm thẻ VietGAP; nuôi cá lồng
trên sông, hồ đập; ương nuôi các giống
cấp 2 miền núi.
Thứ ba, đổi mới và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các hình thức tổ chức sản
xuất:
Việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt
động của các công ty nông, lâm nghiệp đã
được quan tâm chỉ đạo triển khai thực
hiện. Đến nay, các công ty lâm nghiệp đã
chuyển đổi xong; các công ty nông nghiệp
đã và đang thực hiện. Kết quả nổi bật nhất
trong nội dung này là thông qua rà soát,
Tạp chí

KH-CN Nghệ An

[33]


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
sắp xếp lại, dự kiến sẽ chuyển về địa
phương trên 14.000ha đất, trong đó đã
lập xong thủ tục chuyển về địa phương
quản lý trên 10.000ha đất của các công

ty nông, lâm nghiệp, từ đó để nâng cao
hiệu quả sử dụng đất kể cả tập thể và hộ
gia đình. Đồng thời, thay đổi phương án
sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới
để nâng cao hiệu quả của các công ty
nông, lâm nghiệp.
Về tổ chức lại hợp tác xã nông nghiệp
theo Luật hợp tác xã 2012, đến nay cơ
bản Nghệ An đã thực hiện xong, hiện
toàn tỉnh có 503 hợp tác xã nông nghiệp,
trong đó có 178 hợp tác xã hoạt động có
hiệu quả (35,38%) và 180 hợp tác xã
trung bình (35,78%). Hệ thống hợp tác
xã nông nghiệp đã góp phần tích cực cho
các việc cung ứng đầu vào, hướng dẫn kỹ
thuật, thời vụ và một phần đầu ra của sản
phẩm nông nghiệp, nâng cao hiệu quả
sản xuất cho ngường nông dân.
Về phát triển trang trại và gia trại,
hiện tại trên địa bàn tỉnh có 912 trang
trại, đang quản lý sử dụng 6.776,16ha
đất, với 3.063 lao động, tổng doanh thu
dự kiến 1.753 tỷ đồng và 4.744 gia trại,
quản lý sử dụng 12.365ha đất, với 9.412
lao động, với doanh thu năm 2018 dự
kiến 980 tỷ đồng. Đây là hướng tổ chức
sản xuất vừa nâng cao hiệu quả sử dụng
đất đai và nâng cao thu nhập cho người
lao động, đồng thời thuận lợi hơn trong
việc xử lý môi trường và tạo ra sản

phẩm an toàn.
Thứ tư, thu hút doanh nghiệp vào
đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, tạo
chuỗi liên kết trong sản xuất:
Giai đoạn 2008-2017, Nghệ An đã thu
hút được 56 dự án đầu tư thuộc lĩnh vực
nông nghiệp với số vốn đăng ký hơn
46.000 tỷ đồng. Một số dự án đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn điển hình đã
được triển khai: Dự án chăn nuôi bò sữa
SỐ 9/2018

theo quy mô công nghiệp; Dự án trồng rau và hoa
trong nhà kính tại vùng Phủ Quỳ; Dự án Nhà máy chế
biến tinh bột sắn Hoa Sơn; Dự án Nhà máy chế biến
gỗ tại Nghệ An; Dự án bảo tồn dược liệu và phát triển
nguồn dược liệu chất lượng cao gắn với phát triển bền
vững tại Nghệ An; Dự án xây dựng vườn ươm giống
chanh leo công nghệ cao cung cấp giống, phát triển
vùng chanh leo.
Đến cuối năm 2017, trên địa bàn tỉnh có 467
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm,
thủy sản, tăng 94 doanh nghiệp so với năm 2008. Các
dự án trên đã có đóng góp rất quan trọng vào phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển nông
nghiệp nói riêng của tỉnh, tạo việc làm cho lao động
nông thôn (hàng năm giải quyết việc làm ổn định cho
11.500-12.500 lao động), nâng cao thu nhập, góp
phần xóa đói, giảm nghèo.
Cùng với việc tổ chức sản xuất, ứng dụng KH&CN

để nâng cao thu nhập cho đơn vị, các doanh nghiệp
cũng là nhân tố quan trọng để thực hiện liên kết sản
xuất theo chuỗi sản phẩm. Đến năm 2017, toàn tỉnh
đã xây dựng thành công 55 “cánh đồng lớn” trong sản
xuất lúa, ngô, lạc, chè, mía... đạt năng suất, chất lượng
tốt, hiệu quả kinh tế tăng tối thiểu 15%. Các doanh
nghiệp chế biến (chè, cao su, sắn, mía, gỗ, sữa...) đã
trở thành nơi tiêu thụ sản phẩm hàng chục ngàn ha cây
nguyên liệu; cùng với việc ký hợp đồng tiêu thụ, các
doanh nghiệp còn có chính sách cho nông dân ứng
vốn, vật tư, trực tiếp chuyển giao giống mới và tiến
bộ kỹ thuật mới để nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm, giúp người sản xuất đạt được hiệu quả cao.
Thứ năm, tập trung tích thụ đất đai, đưa nhanh
cơ giới hóa vào sản xuất:
Về tập trung, tích tụ đất đai, thời gian qua, Nghệ
An là địa phương cũng rất sôi động. Đến nay, chúng
ta đã cho 63 doanh nghiệp tích tụ đất để sản xuất nông
lâm ngư nghiệp với tổng diện tích 20.742,77ha. Các
trang trại, gia trại trên địa bàn tỉnh cũng đã tập trung
được 19.141,16ha. Ngoài ra còn có 7.959 hộ nông dân
tích tụ ruộng đất được từ 2ha trở lên, với tổng diện tích
28.435,44ha. Như vậy, toàn tỉnh có 68.319,27ha đất
sản xuất nông nghiệp có quy mô tập trung trên 2ha
lên, trong đó có gần 6.118ha ứng dụng công nghệ cao
(chiếm 64,38% diện tích sản xuất nông nghiệp công
Tạp chí

KH-CN Nghệ An


[34]


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

nghệ cao). Những hình thức này tuy còn
nhiều vấn đề vướng mắc, nhưng nó là
khởi đầu cho việc tập trung đất đai sản
xuất lớn, ứng dụng công nghệ cao.
Xác định tập trung, tích tụ đất đai để
giúp các doanh nghiệp tạo các vùng sản
xuất quy mô lớn, đẩy mạnh sản xuất hàng
hóa. Tuy nhiên, chúng ta đang có số lượng
nông dân rất lớn, nếu họ không có đất thì
không thể nâng cao đời sống cho họ,
nhưng nếu để sản xuất nhỏ lẻ quá thì hiệu
quả sẽ không cao. Vì vậy, Chỉ thị 08 CT/TU ngày 08/5/2012 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh vận động nông
dân “dồn điền, đổi thửa” và khuyến khích
tích tụ ruộng đất để phát triển sản xuất
quy mô lớn trong nông nghiệp là bước
chuyển lớn của Nghệ An. Thông qua thực
hiện chủ trương này, đến hết năm 2015,
toàn tỉnh đã có 313/313 xã có khả năng
dồn điền đổi thửa đã hoàn thành tại thực
địa, có 357.937 hộ tham gia, với tổng diện
tích đất thực hiện là 91.139,1ha. Kết quả:
tổng số thửa trước dồn điền đổi thửa là
1.868.909 thửa, sau dồn điền đổi thửa là
691.717 thửa (giảm 2,7 lần); bình quân

mỗi hộ từ 5,3 thửa giảm xuống 2,3 thửa
(2,3 lần); diện tích bình quân 1 thửa tăng
từ 982m2 lên 1.801m2 (1,83 lần).
Từ việc tập trung, tích tụ đất đai và
thực hiện tốt công tác dồn điền đổi thửa,
cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp đã
có bước chuyển mạnh mẽ. Đến nay, toàn
tỉnh có trên 55.323 máy nông nghiệp các
loại (15.993 máy cày đa chức năng; 850
máy gặt đập liên hợp; 4.957 máy gặt rải
hàng; 7.427 máy tuốt lúa có động cơ;
11.266 máy phun thuốc sâu có động cơ;
10.238 máy và thiết bị chế biến; 4.592
máy tàu thuyền khai thác thủy sản...), tăng
2,53 lần so với năm 2007. Các khâu sản
xuất được cơ giới hóa nhanh như: làm đất
SỐ 9/2018

(lúa 90%, cây hàng năm 92%, mía 100%), thu hoạch
lúa 70%, vận chuyển ở nông thôn cho cây lúa, mía
95-100%, máy móc thiết bị phục vụ trong chăn nuôi,
tàu thuyền khai thác thuỷ sản có động cơ trên 90CV...
Thứ sáu, về chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển
nông nghiệp:
Thời gian qua lĩnh vực nông nghiệp và phát triển
nông thôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ được triển
khai. Ngành nông nghiệp cùng các ngành đã tham
mưu triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách,
tuy nhiên nguồn lực cân đối của Trung ương có hạn

nên kết quả đạt được còn hạn chế.
Ngoài các chính sách của Trung ương, thời gian
qua Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối
hợp với các Sở, ngành, địa phương tham mưu cho
UBND tỉnh trình HĐND tỉnh ban hành nhiều chính
sách hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn
và các chính sách luôn được điều chỉnh, bổ sung cho
phù hợp, tính từ 2012 đến nay, chúng ta đã điều chỉnh
bổ sung 3 lần (Quyết định số 09/2012/QĐ-UBND, số
87/2014/QĐ-UBND, Quyết định 15/2018/QĐUBND). Tuy nguồn ngân sách tỉnh có hạn nhưng hàng
năm đều bố trí khoảng trên dưới 80 tỷ để thực hiện các
chính sách này. Kết quả nổi bật nhất của chính sách
hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp là: Góp phần
phát triển bền vững các vùng nguyên liệu chè, cao su,
mía, cây ăn quả; Chuyển giao nhanh giống mới vào
sản xuất, nhất là ở các huyện miền núi; Đưa nhanh cơ
giới hóa vào sản xuất; Một số cây trồng tăng nhanh
năng suất, sản lượng, như: lạc nhờ chính sách hỗ trợ
giống mới và nilon; lúa, ngô nhờ hỗ trợ giống; giảm
công thu hoạch tăng cao hiệu quả cho người trồng chè
nhờ chính sách hỗ trợ máy thu hoạch...
Trên đây là một số nội dung, giải pháp chính nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp thời gian qua,
đồng thời cũng là những định hướng tập trung chỉ đạo
trong thời gian tới nhưng ở mức độ cao hơn. Tuy
nhiên, các giải pháp trên muốn phát huy tác dụng phải
được ứng dụng một cách đồng bộ và phải được tổ
chức thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, cụ thể và cần
sự phối hợp chặt chẽ của các địa phương./.
Tạp chí


KH-CN Nghệ An

[35]



×