Tải bản đầy đủ (.docx) (131 trang)

Tìm hiểu quan điểm của đảng về văn hóa việt nam trước cách mạng tháng tám năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.49 KB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

PHÙNG THỊ MAI

TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VĂN
HÓA VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

PHÙNG THỊ MAI

TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VĂN
HÓA VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Viết Nghĩa


Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tìm hiểu quan điểm của Đảng về văn
hóa Việt Nam trƣớc Cách mạng Tháng Tám năm 1945” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu trong luận văn được sử dụng và chú
thích nguồn trung thực.
Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2014
Tác giả

Phùng Thị Mai


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Tr n Vi t Ngh a đã tận tâm định
hướng cho tôi ngay từ những ngày đ u thực hiện luận văn. Những góp ý, chia
sẻ, nhận xét của th y là động lực và tiền đề quan trọng giúp tôi hoàn thành
luận văn này. Đó cũng là những bài học “làm người” cho tôi trong tương lai.
Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình đã tạo điều
kiện cho tôi cả về vật chất và tinh th n. Trân trọng cảm ơn quý th y cô trong và
ngoài khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp tôi
hoàn thành khóa học. Chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động
viên tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Tác giả

Phùng Thị Mai


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................................................... 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................... 5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu...................................................................... 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn.............................................................................................................. 6
7. K t cấu của luận văn.................................................................................................................... 7
Chƣơng 1. THỰC TRẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ KHI ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945............................................................................................................................................ 8
1.1. Chính sách văn hóa của Pháp ở Việt Nam.................................................................. 8
1.2. Thực trạng văn hóa Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945............................................. 15
Tiểu k t chương 1............................................................................................................................ 26
Chƣơng 2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HÓA VÀ VĂN NGHỆ
VIỆT NAM....................................................................................................................................... 28
2.1. Quan điểm của Chủ ngh a Mác - Lênin về văn hóa............................................ 28
2.2. Quan điểm của Đảng về văn hóa................................................................................... 38
2.3. Quan điểm của Đảng về văn nghệ................................................................................ 47
Tiểu k t chương 2............................................................................................................................ 55
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ TUYÊN
TRUYỀN, VẬN ĐỘNG VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG MẶT TRẬN VĂN
HÓA CỨU QUỐC........................................................................................................................ 57
3.1. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về tuyên truyền, vận động văn hóa 57
3.2. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc.. 65


3.3. Ảnh hưởng văn hóa của Đảng tới giới văn nghệ s............................................... 70
Tiểu k t chương 3............................................................................................................................ 78
Chƣơng 4. MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ..........80

4.1. Một vài nhận xét về quan điểm văn hóa của Đảng trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945................................................................................................................... 80
4.2. Một số kinh nghiệm lịch sử.............................................................................................. 86
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 91
PHỤ LỤC.......................................................................................................................................... 98


BẢNG KÝ HIỆU CHỮ CÁI VIẾT TẮT
1
2
3
4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi thành lập năm 1930 đ n trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10/1930 đổi tên là Đảng Cộng sản Đông
Dương) đã từng bước xây dựng hệ thống quan điểm về văn hóa nhằm định
hướng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam. Đảng đã bước đ u khẳng định
văn hóa là một thứ vũ khí sắc bén, một mặt trận quan trọng chống
đ quốc. Với quan điểm văn hóa đúng đắn, Đảng đã thu hút được đông đảo trí
thức, văn nghệ s tham gia phát triển văn hóa và cứu nước.
Giai đoạn 1930 - 1945, ở Việt Nam diễn ra những cuộc tranh luận về tri
t học duy vật và tri t học duy tâm, về “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ
thuật vị nhân sinh” trên diễn đàn báo chí. Giới trí thức liên tục đưa ra nhiều
quan điểm để bảo vệ lập trường, quan điểm của mình khi n cho các cuộc “bút
chi n” trở nên “nảy lửa” hơn. Từ các khuynh hướng văn hóa khác nhau đã
hình thành nên các nhóm phái văn hóa khác nhau. Sự đa dạng về tư tưởng, sự

ra đời của các nhóm phái văn hóa góp ph n thúc đẩy sự phát triển của văn hóa
Việt Nam. Tuy nhiên, sự thi u thống nhất dễ gây mất đoàn k t trong nội bộ trí
thức, văn nghệ s nói riêng, qu n chúng nhân dân nói chung,
nảy sinh xu hướng ly tâm, xa rời thực tiễn dân tộc.
Trong bức tranh văn hóa Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945, việc Đảng đưa
ra các quan điểm văn hóa là c n thi t. Một là thể hiện quan điểm, lập trường
của Đảng về văn hóa. Hai là qua văn hóa để tập hợp lực lượng chống
đ quốc. Do đó, trong quá trình vận động phát triển và lãnh đạo phong trào
cách mạng, Đảng đã từng bước xây dựng và đưa ra các quan điểm về văn hóa,
văn nghệ, các biện pháp vận động, tuyên truyền văn hóa và xây dựng mặt trận
văn hóa cứu quốc. Đảng cũng tích cực tham gia những tranh luận về văn hóa,
văn nghệ (chủ y u thông qua hoạt động văn hóa của một số trí

1


thức ti n bộ) để minh chứng cho sự vững vàng trong lập trường về văn hóa
theo chủ ngh a Mác - Lênin của Đảng. Những quan điểm về văn hóa của
Đảng đã có sức ảnh hưởng lớn tới đời sống văn hóa trí thức, văn nghệ s và
nhân dân khi đó.
Nhận thức sâu sắc t m quan trọng của việc làm rõ quan điểm của Đảng
về văn hóa trong giai đoạn tập hợp lực lượng, chuẩn bị đấu tranh giành chính
quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ đó rút ra nhiều bài học về
lý luận cũng như thực tiễn quan trọng đối với lịch sử, tôi lựa chọn đề tài:
“Tìm hiểu quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trƣớc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945” làm luận văn thạc s của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan điểm, đường lối, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam về văn hóa là một trong những nội dung được một số nhà nghiên cứu
quan tâm, phản ánh trong khá nhiều công trình.

Năm 1960, để góp ph n vào việc nghiên cứu lịch sử Đảng, Nhà xuất
bản Sự thật đã sưu t m và giới thiệu một số tài liệu trích trong các văn kiện
của Đảng và bài vi t của các đồng chí lãnh tụ về sự lãnh đạo của Đảng trên
mặt trận tư tưởng và văn hóa từ năm 1930 đ n năm 1960. Tập đ u của cuốn
sách Về sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng và văn hóa (1930 1945) đã tập hợp tương đối đ y đủ các văn kiện của Đảng và bài vi t của
những lãnh tụ thể hiện sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng và văn
hóa giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trước mỗi ph n trích
dẫn tài liệu của từng giai đoạn, Ban Biên tập cuốn sách có một ph n khái lược
về sự lãnh đạo của Đảng, cũng chính là tóm lược nội dung cốt lõi của các văn
kiện được đề cập. Đây là một trong những tài liệu quan trọng giúp tôi dễ dàng
ti p cận những văn kiện của Đảng liên quan tới văn hóa một cách có hệ thống
và tổng hợp. Tuy nhiên, cuốn sách này mới chỉ dừng lại ở việc sưu t m, trích

2


lược thu n túy, chưa đi sâu phân tích đường lối, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Năm 1986, cuốn sách Văn hóa văn nghệ trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Mục tiêu và động lực ra mắt bạn đọc là tập hợp những bài
vi t của Tr n Độ về nhiều khía cạnh xoay quanh văn hóa mới xã hội chủ ngh
a. Trong cuốn sách, Tr n Độ đã đề cập tới một số quan điểm của Đảng trong
việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ ngh a và nhiệm vụ
của văn nghệ, đồng thời nhấn mạnh việc c n thi t phải tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Với đặc thù tập trung vào các vấn đề liên
quan tới văn hóa mới xã hội chủ ngh a, cuốn sách tuy có đề cập tới quan
điểm, sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa nhưng chỉ chủ y u phản ánh giai đoạn
sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công.
Công trình tư liệu - biên soạn Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 1 và
tập 2 (giai đoạn đ u th kỷ XX - 1945) ra mắt độc giả trong năm 2001 và 2002

là hai tập sách cung cấp cho tôi mảng tư liệu “khó ki m tìm” về những cuộc
tranh luận lớn đã diễn ra cách đây g n một th kỷ. Cuốn sách góp ph n nhìn
nhận lại văn hóa, văn nghệ th kỷ XX, đồng thời đưa ra những tìm tòi, gợi ý
mới, ti p tục hoàn thiện sự đánh giá xung quanh diễn bi n, vai trò của các lực
lượng tham gia, ý ngh a thời đại từ các vấn đề đặt ra trong các cuộc tranh luận
văn hóa, văn nghệ. Cuốn sách là một nguồn tư liệu quý giúp tôi nghiên cứu về
những cuộc tranh luận nghệ thuật “nảy lửa” ở Việt Nam trong những năm
1920 - 1940, từ đó thấy được một ph n quan điểm của Đảng về văn hóa thông
qua tư tưởng đấu tranh của các nhà văn hóa Mác-xít, tiêu biểu như Hải Triều.
Bên cạnh Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 1 và tập 2, để tìm hiểu kỹ
hơn về một trong những cuộc tranh luận thể hiện được lập trường, quan điểm
của Đảng trong văn hóa, nghệ thuật, người đọc có thể ti p cận cuốn sách

3


Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh? của Nguyễn Ngọc
Thiện (năm 2004). Bên cạnh việc tập hợp các bài “bút chi n” của những người
tham gia tranh luận khi đó, Nguyễn Ngọc Thiện còn đưa ra một số nhận định
“đắt giá” về cuộc đụng độ này. Qua đó, người đọc hình dung được sự sôi động
trong đấu tranh về mặt văn hóa, văn nghệ ở Việt Nam trong những năm 1935 1939, đồng thời thấy được những quan điểm của Đảng về văn hóa, văn nghệ
trong thời gian này. Cũng bởi chỉ tập trung tổng hợp các tư liệu liên quan tới
các cuộc tranh luận nên hai công trình trên mới chỉ phản ánh được một ph n
quan điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm
1945.
Văn nghệ - một bộ phận quan trọng của văn hóa là khía cạnh được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Nghiên cứu về đường lối văn nghệ
của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đ n nay, Hà Xuân Trường có
công trình Đường lối văn nghệ của Đảng - Vũ khí, trí tuệ, ánh sáng (năm
1972); Hoàng Xuân Nhị có công trình Tìm hiểu đường lối văn nghệ của Đảng

và sự phát triển của văn học cách mạng Việt Nam hiện đại (năm 1975)…
Về văn hóa Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, một nội dung dành
được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu là tác phẩm Đề cương văn
hóa Việt Nam. Nhân dịp kỷ niệm 40 năm, 50 năm… kể từ khi Đề cương văn
hóa Việt Nam ra đời, các Nhà xuất bản đã liên ti p xuất bản nhiều cuốn sách vi
t về nội dung này. Bên cạnh các sách, giáo trình chuyên khảo, nhiều bài
nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành cũng đề cập tới các khía cạnh
khác nhau của Đề cương văn hóa Việt Nam.
Nhóm sách và bài nghiên cứu trên trọng tâm phân tích những giá trị nổi
bật của Đề cương văn hóa Việt Nam - một trong những văn kiện quan trọng
của Đảng về văn hóa, cũng như những ảnh hưởng của Đề cương đối với các
giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Đây là những tư liệu quan trọng giúp tôi

4


tập trung làm rõ quan điểm của Đảng về văn hóa từ năm 1943 - 1945. Tuy
nhiên, do đặc thù nghiên cứu riêng các giá trị tiêu biểu của một tác phẩm, do
đó, các cuốn sách và bài vi t này chưa đáp ứng được yêu c u khái quát quan
điểm của Đảng về văn hóa Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
Đường lối văn hóa, nhất là văn nghệ của Đảng đã được một số nhà
nghiên cứu dành thời gian sưu t m, khảo cứu, phân tích từ lâu, trong đó có
nhiều công trình có giá trị lớn. Mỗi cuốn sách, mỗi bài nghiên cứu là tài liệu
quý báu giúp tôi thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, các nghiên
cứu trước đây chủ y u phản ánh quan điểm của Đảng sau khi Đề cương văn
hóa Việt Nam ra đời và quá trình xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ ngh a
sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Quan điểm của Đảng về văn hóa Việt
Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 c n được nghiên cứu chuyên sâu
và hoàn thiện hơn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu
Trình bày và phân tích một cách có hệ thống các quan điểm của Đảng
về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Nhiệm vụ
-

Trình bày thực trạng của văn hóa Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản

Việt Nam ra đời đ n Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Nêu được những quan điểm của Đảng về văn hóa, văn nghệ Việt
Nam.

-

Nêu được tác động của những quan điểm văn hóa của Đảng tới văn

hóa Việt Nam và cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945.
-

Rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.

5


4.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, tôi vận dụng cơ sở lý thuy t của chủ

ngh a
Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về văn hóa.
-

Các phương pháp mà tôi sử dụng để thực hiện đề tài này là: Phương

pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp lô gic, phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh.
5.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quan điểm Đảng về văn hóa
Việt Nam được thể hiện trong các văn kiện Đảng và trong thực tiễn lãnh đạo
cách mạng Việt Nam trên mặt trận văn hóa giai đoạn 1930 - 1945.
Phạm vi nghiên cứu
-

Về thời gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài bắt đ u từ khi Đảng cộng

sản Việt Nam ra đời năm 1930 đ n thời điểm Cách mạng Tháng Tám thành
công năm 1945.
-

Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các quan điểm và một số chỉ

đạo về văn hóa của Đảng.
6.


Đóng góp của luận văn

Luận văn làm sáng tỏ quan điểm của Đảng về văn hóa trong
giai đoạn
1930 - 1945.
Luận văn làm rõ tác động từ các quan điểm văn hóa của Đảng
tới văn
hóa Việt Nam và quá trình vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945.
văn

Luận văn là một tài liệu tham khảo góp ph n nghiên cứu lịch sử

hóa Việt Nam nói chung, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.


6


7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài ph n mở đ u, k t luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Thực trạng văn hóa Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời đ n Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Chương 2: Quan điểm của Đảng về văn hóa và văn nghệ Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng về tuyên truyền, vận
động văn hóa và xây dựng mặt trận văn hóa cứu quốc

Chương 4: Một vài nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.

7


Chƣơng 1
THỰC TRẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ KHI ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM RA ĐỜI ĐẾN CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945
1.1. Chính sách văn hóa của Pháp ở Việt Nam
Trước khi ti p xúc với nền văn hóa Pháp, Việt Nam đã trải qua một thời
Hán hóa về văn hóa. Trong bài vi t “Ti p xúc giữa văn hóa Việt Nam và văn
hóa Pháp”, Phan Ngọc cho rằng văn hóa Trung Hoa đã đóng vai trò ki n trúc
thượng t ng, nhưng không vì vậy mà nó cấu trúc hóa lại nền văn hóa Việt
Nam.
Sang th kỷ XIX, sau khi xâm lược nước ta, bên cạnh các chính sách về
kinh t , thực dân Pháp đã ban hành nhiều chính sách về văn hóa đối với Việt
Nam. Nhìn một cách tổng quát, trước h t, để truyền bá văn hóa Pháp một cách
sâu rộng vào Việt Nam, chúng đã mưu đồ hình thành ở nước ta đội ngũ trí
thức Tây học thay th cho đội ngũ trí thức Nho học thịnh hành trước đây, từng
bước đưa trí thức Tây học trở thành bộ phận áp đảo hơn về số lượng trong
toàn bộ giới trí thức Việt Nam, có quyền lợi gắn với thực dân Pháp, từ đó trở
thành đội ngũ tay sai phục vụ đắc lực cho lợi ích của nước Pháp.
Đi liền với việc xây dựng đội ngũ trí thức Tây học, thực dân Pháp chủ
trương từng bước loại bỏ ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam,
trong đó quy t liệt nhất là làm rạn nứt và thủ tiêu nền giáo dục Nho học. Trên
thực t , khi được giao trọng trách trở thành Toàn quyền Đông Dương, các nhà
chính trị gia người Pháp đều lo ngh tới việc loại bỏ văn hóa Trung Hoa ra khỏi
xã hội Việt Nam, bởi chỉ có như th , văn hóa Pháp mới xác lập được vị th
trong đời sống xã hội Việt Nam. Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã

nhận thức sâu sắc về ảnh hưởng của nền giáo dục Trung Hoa đối với người

8


Việt Nam: “Những nguyên tắc làm cho gia đình vững chắc, cha mẹ được tôn
kính, chính quyền được tuân thủ đều rút ra từ các sách Hán học. Bắt đ u tập
đọc những chữ đ u tiên là họ học những nguyên tắc rường cột của luân lý đạo
Nho, họ khắc sâu vào lòng những nguyên tắc sẽ hướng dẫn họ suốt cả cuộc
đời. Chính các trường làng sẽ cung cấp cho họ nền giáo dục đó” [41, 30].
Nhận thức sâu sắc về t m ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở Việt
Nam, với nguyện vọng đưa văn hóa Pháp vào Việt Nam, những nhà c m
quyền tại Đông Dương lựa chọn những cách thức khác nhau nhưng nhằm tới
mục đích cuối cùng là loại bỏ văn hóa Trung Hoa, xây dựng t m ảnh hưởng và
sự thống trị của văn hóa Pháp trong đời sống xã hội Việt Nam.
Chính phủ Pháp l n lượt ban hành các Sắc lệnh mang tính áp đặt đối với
người Việt về mặt văn hóa và có những động thái chính trị mạnh mẽ để từng
bước hạn ch sự cố k t về văn hóa của người Việt. Ngày 25/5/1881, Chính phủ
Pháp ban hành Sắc lệnh quy định: “Dân bản xứ An Nam, sinh ra và cư ngụ ở
Nam Kỳ là người Pháp, một khi người dân bản xứ đã chấp nhận sự thống trị
của người Pháp thì họ bắt buộc phải học ti ng của chúng ta và chấp nhận
những phong tục, tập quán của chúng ta, chúng ta không thể nào ban bố tất cả
những quyền lợi của một công dân cho những ai không hiểu được nền văn
minh của chúng ta” [70, tr.31]. Năm 1883, Jules Harmand cho rằng người
Pháp c n phải chia cắt lãnh thổ Việt Nam để làm tan rã sự cố k t của nước Việt
Nam, người Việt Nam nhằm tránh một cuộc nổi dậy của toàn thể dân chúng.
Trên tinh th n đó, bản Hiệp ước Harmand đã chia cắt lãnh thổ Việt Nam thành
ba kỳ với ba ch độ chính trị khác nhau: Nam Kỳ là xứ thuộc địa, Trung Kỳ là
xứ bảo hộ và Bắc Kỳ là xứ bán bảo hộ.
Đ


n năm 1885, lời tuyên bố của Thủ tướng Pháp Jules Ferry: “Bổn

phận của các nòi giống thượng đẳng là phải giúp đỡ các nòi giống hạ đẳng để
đưa họ thoát ra khỏi sự man rợ” đã cho thấy rõ hơn chính sách “đồng hóa”

9


của thực dân Pháp trong cái vỏ bọc [54, 617]. Các viên toàn quyền người
Pháp đều cơ bản lựa chọn phương thức tán dương chính sách “khai hóa văn
minh” của Pháp. Chẳng hạn, toàn quyền Albert Sarraut bày tỏ: “Nước Pháp ta
là nước đã đề xướng ra cái chủ ngh a nhân quyền, lịch sử chan chứa một cái
tư tưởng công ngh a…, nước Pháp ra tay nặn cho nên một nhân loại mới…
Cái công khai hóa ấy đối với những dân tộc còn kém hèn, không thể một buổi
mà thành được, không thể bi n hóa mau cho đ n nỗi chỉ trong một thời kỳ
ngắn có thể rút lại cái bước đường dài của mấy mươi th kỷ đã xa cách các dân
tộc ấy với ta trong cuộc ti n hóa về trí thức và tinh th n”. Toàn quyền Pièrre
Pasquier nhấn mạnh đ n những thay đổi vật chất to lớn mà người Pháp đã
mang đ n cho người Việt Nam, hứa hẹn nước Pháp sẽ còn đem lại những thay
đổi vật chất to lớn hơn nữa nhằm bi n xứ sở lạc hậu này thành một xứ sở thịnh
vượng. Trong khi đó, Toàn quyền Martial Merlin coi những thành tựu trong sự
nghiệp khai hóa là sợi dây k t nối thuộc địa với mẫu quốc, mà ở đó mẫu quốc
có trách nhiệm dẫn dắt, còn thuộc địa phải có trách nhiệm phục tùng [50, 95102].
Để thực hiện âm mưu “đồng hóa”, thực dân Pháp còn chú trọng phát triển
ở Việt Nam các cơ quan truyền bá văn hóa, nhất là sách, báo chí, tạp chí để vừa
biện minh cho hành động xâm lược của chúng, vừa phổ bi n rộng rãi các thành
tựu văn hóa Pháp đ n người dân Việt. Ở Nam Kỳ, dưới sự trợ giúp của Pháp,
Trương V nh Ký đứng ra làm chủ bút tờ Gia Định báo, xuất bản từ năm 1865.
Trương V nh Ký còn cho in nhiều tập sách giới thiệu phong tục, tập quán của

nhân dân ta như Gia huấn ca (1882), Phép lịch sử An Nam (1883), về văn học có
Lục Vân Tiên, Phan Trần (1889). Bên cạnh đó, Trương V nh Ký còn xuất bản
một số sách hỗ trợ học ti ng Pháp, học chữ Nho và chữ Quốc ngữ như các cuốn:
Pháp - Việt từ điển (1884), Việt - Pháp từ điển (1887), Từ điển địa lý An Nam
(Dictionnaire Géographique Annammité), Đại Nam nhân vật bị

10


khảo (Dictionnaire Biographique Annammité) [40, 16-17]. Chính quyền thực
dân còn cho xuất bản Đông Dương tạp chí để truyền bá tư tưởng thân Pháp;
mặt khác bỏ thi chữ Hán, mở trường Hậu bổ, trường Thông ngôn và bắt đ u
mở các trường Pháp - Việt, trường Cao đẳng Y khoa Hà Nội [8, 38].
Chính quyền Pháp ở Đông Dương còn bảo trợ cho các hội văn hóa hoạt
động nhằm quy tụ những trí thức thượng lưu thực hiện nhiệm vụ truyền bá
văn hóa Pháp. Năm 1883, Hội Đông Dương học ra đời tại Sài Gòn. Ngày
3/7/1886, Paul Bert (Tổng trú Bắc và Trung Kỳ) đã ký Nghị định thành lập
Viện hàn lâm Bắc Kỳ bao gồm 40 nhà khoa bảng Việt Nam và 10 người Pháp.
Viện có nhiệm vụ truyền bá văn minh nước Pháp, đồng thời giúp cho người
Pháp hiểu được văn hóa Việt Nam để dễ bề cai trị.
Năm 1919, thực dân Pháp cho lập Hội Khai trí ti n đức. Hội thường tổ
chức các hoạt động văn hóa như giới thiệu các tác phẩm văn học cổ - kim,
dịch sách, in sách, làm từ điển, diễn kịch và diễn thuy t. Với ảnh hưởng của
mình, chính quyền thuộc địa đã bi n một số hội viên trong Hội trở thành tay
sai cho thực dân Pháp. Sự xuất hiện của các tổ chức này đã tạo điều kiện khuy
n khích người Pháp tăng cường ti p xúc và tìm hiểu phong tục tập quán văn
hóa Việt Nam [40, 16-17] để thực hiện âm mưu “đồng hóa”.
Ngoài ra, thực dân Pháp còn xây dựng các công trình hạ t ng cơ sở như
phố xá, nhà cửa, công sở, nhà máy, khu vui chơi, giao thông… tạo điều kiện
cho công cuộc khai thác thuộc địa, đồng thời khu ch trương sức mạnh nền văn

minh công nghiệp của nước Pháp, làm bệ đỡ cho sự tồn tại văn hóa Pháp và
chinh phục tinh th n nhân dân bản xứ. Cũng bởi th , những chính sách và hoạt
động thực tiễn của chính quyền thuộc địa đã tác động đáng kể
đ n một bộ phận trí thức Việt Nam, chủ y u là bộ phận người có quyền lợi gắn
bó mật thi t với ch độ thực dân.

11


Nhìn chung, sau khi đặt ách thống trị lên đất nước ta, thực dân Pháp đã
ban hành và thực hiện nhiều chính sách nhằm “khai thác thuộc địa”. Riêng về
khía cạnh văn hóa, thực dân Pháp đã âm mưu “đồng hóa” bằng những chính
sách về văn hóa nhằm thay đổi diện mạo văn hóa và con người Việt Nam theo
xu hướng “thuộc Pháp”. Tuy nhiên, y u tố Trung Hoa tồn tại trong xã hội Việt
Nam từ lâu đời nên mặc dù có nhiều cố gắng nhưng thực dân Pháp không thể
ngay lập tức loại bỏ được những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Cũng bởi
th , văn hóa thống trị ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc cơ bản vẫn mang đặc
điểm chính là: Nội dung lộn xộn, phức tạp, hình thức vừa lai Pháp, vừa lai
Trung Quốc [8, 38].
Sự thay đổi mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam những năm đ u th kỷ XX
đã làm cho đội ngũ nhà Nho bị phân hóa. Một nhóm nhà Nho đã đ u hàng
thực dân Pháp, cam chịu làm tay sai để hưởng vinh hoa phú quý. Dưới ảnh
hưởng của sự gieo rắc vào đ u óc người trí thức Việt Nam tinh th n phục Pháp,
nhiều trí thức đã vào làng Tây, nói ti ng Tây, bắt chước một cách lố lăng từ
cách ăn diện đ n cuộc sống hưởng lạc và đồi trụy của Pháp. Tư tưởng sùng
ngoại này dẫn tới đ u óc tự ti dân tộc và miệt thị văn hóa dân tộc. Một số
người đã không còn bi t đ n truyền thống yêu nước, khí phách anh hùng, tính
lao động c n cù, sáng tạo, phẩm chất cao quý của dân tộc ta trong suốt mấy
nghìn năm lịch sử [74, 15]. Chẳng hạn trường hợp của Tôn Thọ Tường ra sức
cường điệu sức mạnh vật chất của phương Tây, đồng thời phân tr n ta kém nên

không thể nào địch nổi quân thù… Tôn Thọ Tường khuyên những người
kháng chi n mau đ u hàng Pháp kẻo “hối không kịp”.
Trong khi đó, một nhóm nhà Nho bảo thủ vẫn ti p tục chống đối văn
minh phương Tây và phản đối duy tân. Với những ảnh hưởng và ràng buộc
sâu sắc của học thuy t và ý thức hệ Nho giáo, nhóm nhà Nho bảo thủ tìm mọi
biện cớ để phủ nhận sức mạnh kỹ thuật của phương Tây, chống đối Ki-tô giáo
và phản đối lối sống phương Tây.

12


Tuy nhiên, có một nhóm nhà Nho cấp ti n hơn đã từng bước ti n nhận và ti
p bi n văn minh phương Tây để duy tân đất nước. Tiêu biểu là Nguyễn Trường
Tộ, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản... với tư tưởng canh tân đất nước trong
giáo dục; Bùi Viện, Đặng Huy Trứ... với tư tưởng cải cách đất nước trong phát
triển kinh t , nhất là thương nghiệp. Một số trí thức khác lựa chọn dung hòa văn
minh Đông - Tây để thúc đẩy dân tộc mau chóng ti n bộ, tiêu biểu như trường
hợp của Trương V nh Ký. Vào những năm 1920, trong khi Nguyễn An Ninh,
Phạm Quỳnh đề cao việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc với những nội dung
thiên về chủ ngh a quốc gia, Nguyễn Văn V nh đã đưa ra vấn đề bài trừ hủ tục,
coi đó là động lực thúc đẩy sự phát triển của văn hóa và xã hội Việt Nam. Giới trí
thức Việt Nam trong nhóm nhà Nho cấp ti n bên cạnh việc tuyên truyền cho văn
minh phương Tây vẫn không quên phê phán những mặt trái của văn minh
phương Tây và giữ vững tư tưởng “chống đồng hóa”.

Xuất phát từ thái độ mong muốn canh tân đất nước, trước những chính
sách văn hóa mang tính áp đặt của thực dân Pháp, các nhà trí thức Việt Nam
đã có những hành động tích cực trong việc dung hòa mối quan hệ văn hóa
Đông - Tây, ti p nhận văn hóa Pháp để duy tân đất nước.
Từ trước năm 1914, nhiều nhà Nho cấp ti n đã sử dụng báo chí làm

phương tiện truyền bá văn minh phương Tây và cổ động duy tân trên Lục tỉnh
tân văn, Nông cổ mín đàn, Đăng cổ tùng báo. Trong thời gian Chi n tranh th
giới thứ nhất diễn ra (1914 - 1918), một số tờ báo ti p tục hoạt động mạnh như
Đông Dương tạp chí, đồng thời một số tờ báo mới ra đời như Trung Bắc tân
văn, Công thị báo, Nam Phong tạp chí. Mặc dù chịu sự kiểm soát chặt chẽ của
chính quyền Pháp ở Đông Dương với xu hướng thân Pháp nhưng những tờ
báo này vẫn có đóng góp cho việc truyền bá văn minh Pháp - văn minh của
một dân tộc phát triển hơn vào Việt Nam.

13


Đ

n thời gian thực dân Pháp ti n hành cuộc khai thác thuộc địa l n thứ

hai (1919 - 1929), giới trí thức Việt Nam đã tham gia vi t bài và làm chủ bút
của hàng chục tờ báo và tạp chí mới ra đời, trong đó có những tờ báo mang y
u tố yêu nước rõ rệt như: Tờ La Cloche felée (Chuông rè) do Nguyễn An Ninh
làm chủ bút, công khai tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam, đòi các
quyền tự do dân chủ và tuyên truyền những tư tưởng ti n bộ; các tờ báo có xu
hướng cách mạng vô sản như tờ Thanh niên, Búi liềm, Công hội đỏ với nội
dung chống đ quốc và tuyên truyền chủ ngh a Mác - Lênin.
Bên cạnh việc tham gia phát triển báo chí, trí thức Việt Nam còn đi
đ u trong việc cải cách giáo dục. Nhóm nhà Nho cấp ti n ở Quảng Nam do
Phan Châu Trinh đứng đ u đã phát động phong trào Duy tân (1905 - 1908),
kêu gọi mọi người học theo phương Tây và từ bỏ hủ tục; Phan Bội Châu khởi
xướng phong trào Đông Du (1905 - 1908) với mục đích đưa thanh niên Việt
Nam sang học tập tại Nhật Bản để cứu quốc; Lương Văn Can thành lập
Trường Đông Kinh ngh a thục (năm 1907) ở Hà Nội nhằm chấn hưng nền

giáo dục nước nhà.
Như vậy, khi ti p xúc với văn hóa Pháp, thái độ chống đối văn hóa Pháp
chi m vị trí chủ đạo trong tư tưởng của t ng lớp trí thức Việt Nam. Thái độ này
bắt nguồn từ lòng yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc. Từ nhận thức thực dân
Pháp là kẻ thù của dân tộc Việt Nam, nhiều trí thức đã cố tình phủ nhận văn
minh phương Tây, đôi khi phản ứng rất gay gắt. Một số trường hợp sợ hãi
trước những thành tựu về văn hóa của một nước phát triển, từ đó hình thành
tâm lý đ u hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, trong xã hội Việt
Nam khi đó vẫn có một bộ phận trí thức có thái độ ti p nhận văn hóa Pháp
trên nền tảng ki n thức, hiểu bi t về cả hai nền văn hóa Đông - Tây, nhận ra
những y u tố ti n bộ trong văn hóa Pháp, mong muốn dung hòa những xung
đột trong văn hóa Đông - Tây và từng bước canh tân đất nước [50, 84-86].

14


1.2. Thực trạng văn hóa Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945
Những bi n động về kinh t theo chiều hướng tiêu cực trong những năm
1929 - 1933 làm cho nền kinh t của các nước tư bản chủ ngh a, trong đó có
nước Pháp bị khủng hoảng, đình trệ. Giới tư bản tài chính Pháp tìm cách trút
hậu quả nặng nề của khủng hoảng lên nhân dân lao động ở chính quốc cũng
như ở các nước thuộc địa, trong đó có nhân dân Đông Dương. Việc đ u tư vốn
của tư bản Pháp ở Đông Dương h u như ngừng lại. Từ năm 1934 trở đi, tư bản
Pháp tái đ u tư trở lại, tuy nhiên tốc độ và quy mô đ u tư vào các ngành kinh t
giảm hẳn so với những năm 1920. Về chính trị, thực dân Pháp ti n hành khủng
bố một cách tàn bạo ở cả thành thị và nông thôn, nhất là từ sau khởi ngh a
Yên Bái (tháng 2/1930), đồng thời đề cao tư tưởng chống cộng.
Trong điều kiện kinh t , chính trị mới, chính quyền thực dân ở Đông
Dương ti p tục thi hành các chính sách về văn hóa dưới vỏ bọc “khai hóa văn
minh” nhằm tăng cường ảnh hưởng của văn hóa Pháp ở thuộc địa, nhất là về

giáo dục để tranh thủ lôi kéo các t ng lớp thượng lưu, nhất là trí thức. Về cơ
bản, đ n những năm 1930 - 1935, nền văn hóa Việt Nam vẫn mang đặc trưng
của văn hóa thuộc địa, có sự pha trộn giữa y u tố của văn hóa bản địa, văn hóa
Trung Hoa và văn hóa Pháp.
Cũng trong những năm đ u thập niên 1930, bộ phận trí thức Tây học
nước nhà ít bàn đ n vấn đề nên hay không nên ti p nhận văn minh phương
Tây, bởi h u h t trong số họ đã chấp nhận u hóa. Sự ti p bi n văn minh phương
Tây đã diễn ra trên mọi l nh vực của đời sống văn hóa, xã hội. Sau thất bại của
Việt Nam Quốc Dân Đảng, luồng tư tưởng tư sản đã khi n nhiều người trước
đây tin vào con đường cách mạng tư sản bị mất phương hướng, một số tán
dương chủ thuy t “Pháp - Việt đề huề”, một số khác lại trở nên tiêu cực, chống
phá cách mạng giải phóng dân tộc. Thất bại của khởi ngh a Yên Bái đ u năm
1930 đã chấm dứt vai trò của ý thức hệ tư sản đối với nhiệm vụ giải phóng
dân tộc.

15


Trong khi đó, tư tưởng vô sản dựa trên lý luận của chủ ngh a Mác Lênin d n d n chi m ưu th . Đặc biệt, đ u năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời, khác với các tổ chức chính trị đương thời đã thu hút sự chú ý của đông
đảo các giai t ng trong xã hội vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp. Sự lan tỏa của luồng tư tưởng vô sản không chỉ tạo nên một
Xô vi t Nghệ T nh sôi nổi, mạnh mẽ trong những năm 1930 - 1931 mà còn
xác lập vị th mới cho y u tố Mác-xít trong bức tranh văn hóa Việt Nam.
Sau khi các Xô vi t Nghệ T nh bị dìm trong biển máu, phong trào đấu
tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam gặp nhiều khó khăn do bị tổn thất
nhiều cả về lực lượng và tổ chức, phương thức hoạt động cũng không còn
thích hợp nữa. Thực dân Pháp triệt để thi hành chính sách khủng bố trắng đối
với những người yêu nước, bắt giam các cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng
sản Đông Dương, đưa đi tù đày ở Hỏa Lò, Kon Tum, Côn Đảo, Lao Bảo, Sơn

La… Đồng thời, thực dân Pháp ti p tục đưa ra những cải cách dân chủ dù rất
hạn ch để củng cố nền thống trị ở Đông Dương. Chúng ra sức sử dụng các
hình thức tổ chức tư tưởng và văn hóa để củng cố nền thống trị. Ngoài những
sắc lệnh, luật lệ thời kỳ 1930 vẫn giữ nguyên hiệu lực, giai cấp thống trị đặt
thêm những luật lệ khắt khe, thi hành ch độ kiểm duyệt gắt gao, tìm cách rút
giấy phép hoặc tịch thu báo chí cách mạng. Thống sứ, thống đốc, khâm sứ có
những nghị định cấm lưu hành, tàng trữ sách báo ti n bộ và cách mạng trong
vùng cai trị của chúng.
Từ năm 1932, thực dân Pháp tổ chức cải tổ giáo dục sơ học, cấp học
bổng cho người bản xứ, xuất bản các sách báo lãng mạn, sách th n tiên, sách
bói toán… nhằm ti p tục thu hút và lôi kéo một bộ phận trong t ng lớp thượng
lưu và tiểu tư sản.

16


Lâm Mậu Quang đã nhận định về thời kỳ này như sau: “Tình th

kinh

t , xã hội nằm vào thời kỳ khủng hoảng nguy ngập, ch độ tư bản g n đổ nát,
qu n chúng ta bị thất nghiệp đói rét, lại sắp bị nạn đ quốc chi n tranh…, các
nhà văn phải góp sức vào công việc cứu chữa sự nguy cơ ấy của xã hội, chứ
không thể ngồi yên trên đám mây xanh chót vót ở ngang trời mà ngâm nga và
bảo quản chúng, ngâm nga theo mấy câu thơ mơ mộng như hồi thái bình, no
ấm được đâu” [72, 35-37].
Bối cảnh kinh t , chính trị có nhiều thay đổi đã khi n xã hội Việt Nam
xuất hiện những xu hướng mới trên các l nh vực văn hóa, văn nghệ và tư
tưởng. Trong các chỉnh thể thì trào lưu văn học có ý ngh a bao quát hơn cả.
Phương hướng của nó sẽ có tính chất quy t định đối với các chỉnh thể khác

[39, 88-89]. Trào lưu Thơ Mới, văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê
phán là những dòng văn học ra đời và tồn tại song song trong những năm
1932 - 1935. Đó là những ti ng nói của đội ngũ trí thức tiểu tư sản trước tình
th mới của đất nước.
Giai cấp tư sản dân tộc không dám đấu tranh bằng chính trị và quân sự
chống đ quốc nữa bèn chuyển sang đấu tranh bằng văn hóa chống phong ki n
quan liêu (các báo Phong hóa, Ngày nay, tủ sách Tự lực văn đoàn). Chủ ngh a
lãng mạn trong văn học, nghệ thuật đi đôi với phong trào “vui vẻ, trẻ trung”
có tính chất trụy lạc của thanh niên, trí thức, tư sản thành thị. Phong trào Thơ
Mới đã đánh dấu sự chuyển đổi mang tính cách mạng trong văn học
- một bộ phận quan trọng của văn hóa khi khẳng định vai trò của cá nhân, của
“cái Tôi” trước đây vốn chưa có chỗ đứng trong xã hội phong ki n. Những đại
diện cho phong trào Thơ Mới có Th Lữ, Xuân Diệu...; đại diện cho văn học
lãng mạn là Tự lực văn đoàn và đại diện cho văn học hiện thực có Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…

17


×