Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Bài 2: Văn học lãng mạn trước câch mạng tháng Tám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.41 KB, 8 trang )

Bài 2
Văn học lãng mạn trớc cách mạng
A Thơ lãng mạn
I/ Bối cảnh lịch sử 1900 - 1945
So với tiến trình lịch sử 4000 năm của dân tộc, thời kỳ lịch sử với chỉ cha đầy 50 năm
(1900 - 1945) không phải là dài, nhng nếu nói đến những biến động, thì đây lại là giai đoạn
có nhiều biến động căn bản nhất về phơng diện lịch sử xã hội.
Nguyên nhân trực tiếp và cục diện của sự thay đổi này bắt đầu từ khi thực dân Pháp
nổ súng xâm lợc Việt Nam (1858), nhng phải đến giai đoạn thực dân Pháp cơ bản thực
hiện xong công cuộc bình định và chuyển sang khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Việt
Nam (1896 - 1913) thì cuộc đổi thay xã hội và từ đó kéo theo sự đổi thay môi trờng văn
hoá mới diễn ra rõ nét trên toàn nớc ta.
Trong giai đoạn cha hoàn tất công cuộc bình định trên khắp đất nớc Việt Nam, thực
dân Pháp cơ bản vẫn duy trì Nho học, giữ chế độ khoa cử cũ. Tuy vẫn chấp nhận việc học
chữ Hán, nhng bằng những nghị định (ở Nam Kỳ) từ năm 1879, thực dân Pháp đã đa cả
chữ quốc ngữ và chữ Pháp vào chơng trình thi.
Năm 1906, sau khi thành lập nha học chính Đông Dơng, thực dân Pháp chia việc
học ra làm ba bậc: ấu học, tiểu học và trung học. Trong đó bậc ấu học đợc tổ chức tại
các làng xã, do các thầy đồ dạy bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ. Bậc tiểu học đợc học
tại các phủ huyện, do các giáo thụ, huấn đạo trông nom. ở bậc này, ngoài Tứ th Ngũ
kinh, học sinh còn học thêm Nam sử và chữ Quốc ngữ. Không dạy thơ phú, câu đối và
văn bác cổ. Một số ngời còn tự nguyện học thêm chữ Pháp. Bậc trung học đợc tổ chức ở
các tỉnh lỵ, do đốc học điều khiển. Đốc học dạy chữ Hán, các giáo viên trờng Pháp
Việt dạy chữ quốc ngữ và chữ - Pháp (riêng chữ Pháp bắt buộc phải học)...
Năm 1915 đời Duy Tân, khoa thi Hơng cuối cùng đợc tổ chức tại Bắc kỳ. Năm 1917,
toàn quyền Xa Rô lại một lần nữa ra nghị định sửa đổi lại việc thi. Chúng bãi bỏ mọi chế
độ thi cử theo hệ thống Nho học cũ và thay vào đó một hệ thống giáo dục khác nhằm tạo
ra một đội ngũ công chức có trình độ Tây học, thay thế cho tầng lớp Nho sĩ cũ, kéo nền
1
văn hoá Việt Nam ra khỏi nền văn hoá truyền thống, kể cả ảnh hởng văn hoá Trung Hoa
lâu đời.


Tiếng Pháp đợc học thêm từ sơ học đến tiểu học và trở thành môn chuyên ngữ đến
cao đẳng thì vừa là chuyên ngữ vừa là ngữ học Pháp.
Năm 1918 đời Khải Định, việc thi Hơng ở Trung kỳ chỉ còn đợc tổ chức tại Nghệ An
và Bình Định. Và đến năm 1919, chế độ khoa cử cũ của nớc ta đã đợc chấm dứt bằng khoa
thi Hội cuối cùng do thực dân Pháp tổ chức.
Chỉ có điều những chính sách ấy không phải một sớm một chiều có thể thực hiện đ-
ợc. Vả chăng có thực hiện đợc thì vẫn có những điều nằm ngoài ý muốn của kẻ đi xâm l-
ợc. Cha nói đến chế độ thi cử cũ đến 1919 mới chính thức kết thúc ở Việt Nam, mà ngay
đối với chữ Hán phản ứng của ngời Việt Nam cũng không hề thống nhất.
Chẳng hạn Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, tuy không phủ nhận quan điểm cổ động
chữ Quốc ngữ của những trí thức tân học nh Phan Khôi, song với chữ Hán thì quả quyết
khẳng định: Nếu một ngày mà toàn phế Hán học, thì bao nhiêu điển chơng văn vật ở sử
cũ, tất phải gieo vào ngọn lửa Tần Hoàng... mà ngời nớc ta từ đây về sau thảy là ngời mù
Hán văn, điếc Hán văn luôn nữa... . Thứ hai: Xét hiện trạng trình độ của quốc dân, trừ ra
một số ít là những ngời lu học bên Pháp và ở các trờng Cao đẳng các nơi, cùng một ít học
sinh đã học tom tem năm ba chữ Pháp, thì vẫn có thể lấy những sách Pháp văn thay sách
Hán văn... Chứ đến nh hơng thôn, bách tính, đa số quốc dân, chẳng những đàn bà trẻ con
là bọn mù Pháp văn, mà những đầu mục, hào lý, lên đến những bậc gọi bằng trung lu,
cũng còn vô số ngời mù Pháp văn. Nếu có bảng thống kê Quốc dân thức tự điều tra cho
đích xác, trừ nơi thành thị ra, cả nam, phụ, lão, ấu, chắc trong một ngàn ngời phải có 999
ngời không biết chữ Pháp. Nh thế mà muốn đem Pháp văn làm Quốc dân giáo dục phổ
cập, cái hy vọng thật quá viển vông... Vì những cớ ấy mà muốn bỏ hết Hán văn, toàn dùng
Pháp văn thì chắc Quốc dân ta không khỏi mang cái họa chết vì dốt. Thứ ba: Nớc Tàu là
một nớc kế cạnh láng giềng với mình. Lịch sử họ với ta đã quan hệ lâu dài, mà cảm tình
thần xỉ vẫn đi lại thân mật... Há có lẽ ta với họ mà vĩnh viễn không giao thiệp đợc ?.... .
Chỉ có Phan Khôi, tuy là một nhà Nho nhng đã phụ bạc tàn nhẫn Nho học để đi theo
Tây học.
2
II/ Sự xuất hiện của Thơ Mới
Năm 1932, đợc coi là năm chính thức mở màn của phong trào thơ Mới. Bài Tình già

của Phan Khôi xuất hiện ngày 10 - 3 - 1932 trên Phụ nữ tân văn, đã tạo nên làn sóng h-
ởng ứng của lớp thanh niên và gây hoang mang cho lớp Nho học:
Hai mơi bón năm, một đêm vừa gió lại vừa ma,
Dới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
Hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
- Ôi đôi ta tình thơng nhau thì vẫn nặng,
Mà lấy nhau hẳn là không đặng,
Để đến nỗi tình trớc phụ sau,
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!
Buông nhau làm sao cho nỡ!
Thơng đợc chừng nào hay chừng ấy,
Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng
Mà tính việc thủy chung?

Hai mơi bốn năm tình cờ đất khách gặp nhau:
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra đợc!
Ôn chuyện cũ mà thôi.
Liếc đa nhau đi rồi,
Con mắt còn có đuôi.
Trên văn đàn, một biến cố văn học đã diễn ra và thế chiến chia thành hai mặt trận:
theo phái Mới có Phan Khôi, Thế Lữ, Nguyễn Thị Kiêm, Vũ Đình Liên, Lu Trọng L...
theo phái cũ có Nguyễn Văn Hanh, Thái Phỉ, Tùng Lâm, Hoàng Duy Từ... . ở giữa hai
phái (gọi là phe trung gian), ngời ta ghi nhận sự hiện diện của thi sĩ Tản Đà.
Một vài nét về diễn biến của cuộc đấu tranh mới - cũ hồi 32 - 45, qua những bài
phát biểu gay gắt của cả hai phía.
3
Bằng độ lùi của thời gian, phải bình tĩnh mà nhận ra rằng cuộc đấu tranh ấy là công
bằng và trực diện. Ai yêu cái tự do thiên thú (chữ dùng của Phạm Quỳnh) của thơ Pháp

thì bênh vực thơ Mới. Ai yêu cái trang trọng cổ kính của TĐL thì bênh vực thơ Cũ. Nói
thơ Cũ bị tấn công, nhng không phải từ một cá nhân cụ thể nào, mà là cả một thế hệ văn
chơng, một lực lợng sáng tác trẻ, đang quyết đổi mới cả một nền thơ văn đã mòn mỏi ,
khô cứng bạc màu (chữ dùng của Huy Cận).
Trong mắt các nhà thơ Mới lúc đó, các nhà thơ Cũ chỉ là những thợ thơ, thơ luật chỉ
là loại thơ con chó đi vô con mèo đi ra, còn thể TĐL thì đúng là một cái ngục giam
hãm tình tứ.
Tất nhiên sự thắng lợi của phái mới trớc phái cũ, không hoàn toàn do những lời
phát biểu công khai trên thi đàn, mà quan trọng là cùng với những lời công kích ấy là
hàng loạt những sáng tác mới mẻ (chủ yếu bằng lối thơ tự do) của nhiều tác giả có tài nh:
Lu Trọng L, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận... . Và những sáng tác này đã đợc đông đảo
bạn đọc tiếp nhận một cách hồ hởi.
Trong khi đó, trớc sự tấn công của phái mới, phái cũ tiêu biểu là Nguyễn Văn Hanh,
Thái Phi, Tùng Lâm, Hoàng Duy Từ... cũng phản ứng lại. Tuy nhiên sự phản ứng lại chủ
yếu bằng lý lẽ, chứ sáng tác có lẽ chỉ mạnh trong bộ phận thơ ca yêu nớc, còn trong bộ
phận thơ ca công khai thì dờng nh nhạt dần, nếu không muốn nói là yếu hẳn. Hơn thế
những lý lẽ mà họ đa ra cũng cha đủ sức thuyết phục. Ban đầu họ dựa vào thành tựu của
gần 1000 năm thơ ca dân tộc để chỉ trích thơ Mới là một thứ thơ luộm thuộm, văn
xuôi. Sau đó, ông Nguyễn Văn Hanh trong Thi cũ thi mới lại chê trách các nhà thơ ta bắt
chớc thơ Tây là sai lầm. Theo ông, sự phá niêm, phá cách, nhng có vần thì còn đợc, chứ tự
do tới mức những câu nh: Sen, ơi Sen mầy đa tao đôi guốc, để tao ra vờn ngắm cảnh
chơi cũng có thể thành thơ đợc, thì ngay đến một ngời dễ tiếp nhận cái Mới nh Thạch
Lam cũng phải cho là lạ quá.
Những lý lẽ này mới nghe qua cũng có vẻ hợp lý, nhng dẫn chứng lại chỉ nhằm vào
toàn những bài thơ dở, còn những bài thơ hay thì hầu nh không bàn đến. Vì thế việc chê
thơ Mới là luộm thuộm, văn xuôi, chê các nhà thơ Mới là dốt về luật xem ra chẳng
thu đợc kết quả gì đáng kể. Cho nên sau đó, tổng kết lại phong trào thơ Mới trong Thi
4
nhân Việt nam, Hoài Thanh - Hoài Chân mới có lý khi nói rằng: Công kích những bài
thơ Mới lủng củng là một chuyện thừa vậy. Công kích đợc những bài có giá trị mới mong

tiệt đợc mầm thơ Mới và khẳng định, trong tình thế cấp bách ấy ...chỉ có một ngời hoặc
có thể làm nên chuyện. Ngời ấy là Tản Đà, một nhà thơ có tài.
Đúng là, trong cơn nớc sôi lửa bỏng ấy, một ngời vừa có tài, vừa đầy mâu thuẫn nh
Tản Đà, rất dễ bị cả hai phái tranh giành. Tuy nhiên cái khối mâu thuẫn lớn (chữ dùng
của Tầm Dơng) ấy vẫn hớng về thơ Cũ, có cảm tình đặc biệt với thơ Cũ nhiều hơn là thơ
Mới. Bằng chứng là, dẫu có lúc ông hô hào mọi ngời phá cách vứt điệu luật, nhng sau
đó ông lại tỏ ý trách mọi ngời có mới nới cũ và khẳng khái thừa nhận tôi vì hơi có
chút Hán học, xin đứng theo về trong đám ngời cũ....
Tổng kết lại có thất thảy hơn một ngàn tác phẩm, của 87 tác giả (trong cuốn Thơ
Mới 1932 - 1945 tác giả và tác phẩm - Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội 1998).
III. Xung quanh khái niệm Thơ mới và thơ Cũ
1. Về khái niệm "Thơ Mới"
Đã hơn 70 năm qua, kể từ khi thơ mới ra đời cho đến nay, đã có rất nhiều ngời tìm
cách xác định khái niệm thơ Mới, nhng cha ai dám tự nhận là đã lý giải thấu đáo.
- Năm 1942 trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân viết: Danh từ này
mới đặt ra, ngời ta trao cho nó nghĩa gì thì nó có nghĩa ấy.
- Còn trong Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long lại khẳng định: Từ tr-
ớc đến nay đã có nhiều ngời nói đến và cắt nghĩa thơ Mới, thơ Cũ. Họ phân tách cái khác
biệt về hình thức và nội dung giữa hai thứ thơ ấy. Nói đến thơ cũ họ nhìn thẳng vào thể thơ
Đờng luật thất ngôn bát cú, và cũng chỉ gọi thể thơ ấy là cũ mà thôi. Trong lúc đó những
thể thơ nh từ khúc, cổ phong... còn cũ hơn thơ Đờng luật nữa, vẫn không bị lấy nó làm đối
tợng của thơ mới. Thế thì cái mới, cái cũ chỉ là hai danh từ để chỉ sự thay đổi của nền thi
ca trong một thế hệ chứ không phải để minh định hình thức và nội dung giữa hai thể thơ.
2. Về khái niệm "Thơ Cũ"
Trong khi đó khái niệm thơ Cũ" cũng phức tạp tơng tự. Bởi nó cũng là một khái
niệm mới phát sinh ở đầu thế kỷ XX, do phái mới đặt ra để phân biệt với thơ Mới". Ngay
5

×