Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Tư tưởng nguyễn trãi về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.15 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------

HOÀNG NGỌC BÍCH

TƯ TƯỞNG NGUYỄN TRÃI VỀ TRÁCH NHIỆM
CỦA NHÀ CẦM QUYỀN ĐỐI VỚI DÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

HOÀNG NGỌC BÍCH

TƯ TƯỞNG NGUYỄN TRÃI VỀ TRÁCH NHIỆM
CỦA NHÀ CẦM QUYỀN ĐỐI VỚI DÂN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.80

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Thị Hòa Hới

Hà Nội - 2012


1


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn khoa học, PGS. TS Đỗ
Thị Hòa Hới, người đã kiên nhẫn hướng dẫn tôi trong hơn một năm qua, đã
lắng nghe và tôn trọng ý kiến của tôi, dù cho nhiều khi những ý kiến đó tỏ ra
thiếu sót. Làm việc với cô, tôi không chỉ được hướng dẫn về mặt khoa học,
mà còn hiểu thêm nhiều điều về đạo đức nghề nghiệp, về các vấn đề nằm
ngoài phạm vi luận văn này.
Tôi xin cảm ơn phòng Đào tạo Sau Đại học – Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn vì đã tạo những điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất và đảm bảo
chất lượng giảng viên cho chúng tôi trong quá trình theo học tại đây.
Cuối cùng, nhưng đặc biệt quan trọng, tôi cảm ơn gia đình và bạn bè,
những người đã ủng hộ, khích lệ và giúp đỡ không mệt mỏi để tôi giữ được
niềm say mê với vấn đề nghiên cứu này.
Hoàng Ngọc Bích

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng, luận văn Thạc sĩ Triết học “Tư tưởng Nguyễn Trãi
về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân” là công trình nghiên cứu
của riêng tôi.
Những tài liệu sử dụng được chỉ rõ nguồn trích dẫn trong danh mục tài
liệu tham khảo. Kết quả nghiên cứu này chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào từ trước đến nay.
Hà Nội, ngày 24/7/2012
Hoàng Ngọc Bích



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
CHƯƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
NGUYỄN TRÃI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ CẦM QUYỀN ĐỐI VỚI
DÂN..................................................................................................................9
1.1

Tiền đề khách quan..............................................................................9

1.2 Tiền đề chủ quan................................................................................... 28
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG NGUYỄN TRÃI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ
CẦM QUYỀN ĐỐI VỚI DÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI NƯỚC
TA HIỆN NAY................................................................................................37
2.1 Tư tưởng Nguyễn Trãi về quốc gia dân tộc và vai trò của dân.............37
2.2 Một số nội dung cơ bản tư tưởng Nguyễn Trãi về trách nhiệm của nhà
cầm quyền đối với dân................................................................................ 51
2.3 Ý nghĩa tư tưởng Nguyễn Trãi về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối
với dân trong việc đào tạo, sử dụng và quản lý cán bộ, Đảng viên ở nước ta
hiện nay....................................................................................................... 77
KẾT LUẬN.....................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................92

1


MỞ ĐẦU
1.


Lí do chọn đề tài
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) không chỉ là một trong những lãnh tụ của

cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân xâm lược Minh, mà ông còn là một
nhà tư tưởng lớn của dân tộc. Trên con đường đấu tranh mưu cầu hạnh phúc
cho nhân dân lao động, ông đã để lại cho thế hệ sau một hệ thống tư tưởng hết
sức sâu sắc đã được giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu trong nhiều công trình
lớn nhỏ. Tuy vậy, vẫn còn nhiều vấn đề có chiều kích sâu rộng vẫn chưa được
khai thác. Trong đó, tư tưởng của ông về mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và
dân, cụ thể hơn nữa là trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân, có ý nghĩa
lớn lao đối với thực tiễn lịch sử. Tư tưởng này là một trong những yếu tố làm
nên sự hưng thịnh của đất nước ta trong giai đoạn đầu của thời kì Lê Sơ. Đó là
sự kết tinh của tinh hoa thời đại và truyền thống dân tộc, đánh dấu bước phát
triển mới về chất trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam, song mới được đề
cập một cách tản mác trong một số bài báo. Nó không chỉ có giá trị trong lịch
sử thời phong kiến mà còn khẳng định sự trường tồn cùng với thời gian.

Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, đất
nước ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trên nhiều lĩnh vực, nhiều
cơ hội mới mở ra tạo tiền đề thúc đẩy cho xã hội phát triển. Nhà nước ta thực
hiện nhiều chính sách hỗ trợ nhân dân chăm lo sản xuất làm cho chất lượng
đời sống nhân dân được nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Hệ thống giáo
dục ngày càng hoàn thiện đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ dân trí. Đồng
thời an ninh quốc phòng luôn được đảm bảo. Sự gắn kết hữu cơ giữa tổ chức
Đảng và Nhà nước với nhân dân đã thực sự thay đổi về chất so với xã hội
nước ta thời kì trước đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được,

2



đất nước ta cũng đứng trước nhiều thách thức mới nảy sinh. Một mặt, kinh tế
có sự tăng trưởng mau lẹ lại làm nảy sinh sự phân hóa, phân tầng xã hội. Có
hiện tượng giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống bị coi nhẹ trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, Đảng viên. Thậm chí xuất hiện nhiều biểu hiện vô cảm, vô
trách nhiệm, chỉ chạy theo lợi ích cá nhân, đi ngược lại với giá trị truyền
thống mà cha ông ta đã vun đắp và gìn giữ.
Sự nghiệp cách mạng của đất nước chỉ có thể thành công nếu giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và gìn giữ, phát huy những giá trị
đạo đức, văn hóa truyền thống. Triết lí phát triển bền vững phải được xây
dựng dựa trên sự nối tiếp biện chứng truyền thống với hiện đại, hiện đại hóa
nhưng phải bảo tồn, phát huy và kế thừa những giá trị quý báu trong lịch sử.
Kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống là một trong
những nội dung quan trọng của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong quá trình chuyển sang nền kinh
tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề
này càng được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt quan tâm sâu sắc. Báo
cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội X và XI khẳng định:
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt
quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc. Kế thừa và phát huy
truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Vì thế, chúng
tôi thấy rằng việc tìm hiểu những giá trị trong tư tưởng Nguyễn Trãi có ý
nghĩa quan trọng. Trước là gìn giữ, khẳng định nền văn hiến của dân tộc. Hơn
thế là nhận thức lại những bài học quý giá để luôn đứng vững và phát triển
trong thời kỳ hội nhập, hướng tới xây dựng xã hội Xã hội Chủ nghĩa...
Chính vì những lí do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề tìm hiểu “Tư
tưởng Nguyễn Trãi về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.

3



2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Theo sự hiểu biết ban đầu, chúng tôi đã phân loại các công trình nghiên

cứu liên quan đến đề tài thành ba mảng:
Thứ nhất, mảng các công trình nghiên cứu đề cập đến nội dung lý luận
về trách nhiệm, trách nhiệm xã hội từ phương diện pháp lý và đạo đức:
Tìm hiểu những yếu tố quy định trách nhiệm xã hội, tìm hiểu mối quan
hệ giữa trách nhiệm xã hội và quá trình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay có các bài viết: “Trách nhiệm xã hội – sứ mệnh
cơ bản của Nhà nước” của tác giả Nguyễn Hữu Khiển, “Tự do và trách nhiệm
trong hoạt động của con người” của tác giả Nguyễn Văn Phúc, “Kinh tế thị
trường và trách nhiệm xã hội” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, “Vai trò của
Nhà nước và vấn đề trách nhiệm xã hội” của tác giả Nguyễn Văn Thức,
“Trách nhiệm của các nhà quản lí đối với vấn đề việc làm của lao động nữ”
của tác giả Đinh Thị Minh Tuyết, kỷ yếu hội thảo quốc tế “Công bằng xã hội,
trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội” của Viện Khoa học Xã hội và nhóm
tác giả chủ biên Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Ulrich
Dornberg. Các bài viết đã chú trọng đề cập, phân tích khái niệm, nội dung
trách nhiệm của nhà nước, những nhà quản lý trong nền kinh tế thị trường
hiện nay. Trong công trình này phân tích trách nhiệm của các tổ chức chính trị
xã hội, đặc biệt là vai trò của Nhà nước và các tổ chức xã hội trong điều kiện
hội nhập và phát triển. Ngoài ra còn có Luận văn Thạc sĩ Triết học “Trách
nhiệm xã hội và vấn đề nâng cao trách nhiệm xã hội ở nước ta hiện nay” của
tác giả Trần Thị Tuyết đưa ra các vấn đề: khái niệm trách nhiệm xã hội, những
yếu tố quy định trách nhiệm xã hội, đồng thời phân tích sự cần thiết phải nâng
cao trách nhiệm xã hội và những giải pháp để nâng cao trách nhiệm xã hội.


4


Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đây đều hướng đến làm rõ vai
trò và nội dung quan trọng của việc nâng cao trách nhiệm của Nhà nước, các
tổ chức chính trị xã hội trong tình hình đất nước hiện nay và bước đầu đã cụ
thể hóa yêu cầu các trách nhiệm xã hội của các tổ chức đó, trong đó có các
chủ thể cụ thể.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu đề cập đến trách nhiệm của nhà
cầm quyền đối với dân của Nho giáo:
Chúng ta đều biết rằng, Nguyễn Trãi là người anh hùng, danh nhân văn
hóa Việt Nam, song ông chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Vì vậy, có sự tiếp biến
ảnh hưởng Nho giáo trong tư tưởng về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối
với dân ở thơ văn Nguyễn Trãi và hành động của ông là điều tất yếu. Tuy
nhiên, sự tiếp thu học thuyết Nho giáo ở Nguyễn Trãi là sự tiếp thu hoàn toàn
sáng tạo và có những điểm khác biệt rõ rệt. Hệ thống tư tưởng về chính trị xã hội của Nho giáo là chủ đề nhận được rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu
của các nhà khoa học. Một số công trình nghiên cứu đã có nêu vấn đề quan
niệm của Nho giáo về phẩm chất của người cầm quyền, có thể kể đến như:
“Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam
(từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX)” của TS. Nguyễn Thanh Bình; “Trách
nhiệm xã hội trong quan niệm của Nho giáo” của tác giả Trần Nguyên Việt ...
Các công trình này bước đầu đề cập đến khía cạnh tư tưởng của Nho giáo về
trách nhiệm xã hội của người cai trị dựa trên đường lối đức trị, nhân trị.
Thứ ba, mảng các công trình nghiên cứu đề cập đến tư tưởng Nguyễn
Trãi:
Hoạt động nghiên cứu cuộc đời, di thảo văn thơ, tư tưởng Nguyễn Trãi
được Lê Thánh Tông khởi phát sau khi ông qua đời, và được triển khai một
cách hào hứng, sôi nổi qua nhiều thế hệ, với nhiều phương diện như: văn học,

5



văn hóa học, sử học, chính trị học, ngôn ngữ học, triết học… Nhất là sau cách
mạng Tháng Tám năm 1945, vai trò, vị trí của Nguyễn Trãi được đề cao, nhất
là đóng góp về phương diện tư tưởng. Do đó, đã có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học, bài viết, tác phẩm của nhiều học giả đề cập đến tư tưởng
Nguyễn Trãi, có thể khái quát theo những khía cạnh tiếp cận sau:
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu: “Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập
VI và VII: Nguyễn Trãi với cuộc khủng hoảng ý thức hệ Lê – Nguyễn (1380
– 1442)” của Nguyễn Đăng Thục; “Nguyễn Trãi nhà văn học và chính trị thiên
tài” của tập thể tác giả Mai Hanh, Nguyễn Đổng Chi, Lê Trọng Khánh,
(Giới thiệu: Trần Huy Liệu); “Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước” của Nguyễn
Lương Bích; “Nguyễn Trãi, khí phách và tinh hoa của dân tộc” của tác giả
Hoàng Trung Thông và Nguyễn Huệ Chi; “Tư tưởng Nguyễn Trãi trong tiến
trình lịch sử Việt Nam” của tác giả Võ Xuân Đàn, lời giới thiệu Trương Hữu
Quýnh; “Nguyễn Trãi và Nho giáo, Nguyễn Trãi và văn hóa Việt Nam trung –
cận đại” của tác giả Trần Đình Hượu… đã tiếp cận nghiên cứu tư tưởng yêu
nước thương dân của Nguyễn Trãi dưới những lát cắt khác nhau: Nguyễn Trãi
là nhà văn, nhà thơ luôn nhạy cảm trước thế sự; Nguyễn Trãi là nhà quân sự
tài năng với phương pháp tâm công đánh giặc hạn chế thấp nhất sử dụng binh
lực. Nguyễn Trãi còn là nhà tư tưởng lớn của dân tộc, đặc biệt, tư tưởng nhân
nghĩa với hạt nhân là tư tưởng về vai trò của dân được ông nâng lên trở thành
triết lí trong quản lí xã hội; Và trong các công trình đó cũng đã phân tích một
số quan điểm của Nguyễn Trãi về mối quan hệ giữa vua với dân, quan lại với
dân.
Tóm lại: Có thể thấy rằng, tuy tư tưởng Nguyễn Trãi được đề cập đến ít
nhiều, song từ trước đến nay chưa có công trình chuyên khảo nào về vấn đề
mà Luận văn đặt ra. Trong một số bộ lịch sử tư tưởng Việt Nam đã nghiên cứu
phân tích sâu sắc tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng thân dân của Nguyễn


6


Trãi, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống tư
tưởng của ông về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân. Những kết quả
nghiên cứu ở các công trình kể trên là tiền đề tư tưởng quan trọng để chúng
tôi có thể kế thừa nghiên cứu sâu hơn và có hệ thống hơn nội dung tư tưởng
Nguyễn Trãi về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài: Tìm hiểu tư tưởng của Nguyễn Trãi về trách
nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân một cách có hệ thống từ đó chỉ ra ý
nghĩa của tư tưởng này đối với nước ta giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
-

Tìm hiểu những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng của Nguyễn

Trãi về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân.
-

Làm rõ nội dung quan điểm cơ bản Nguyễn Trãi về trách nhiệm của

nhà cầm quyền đối với dân. Chỉ ra ý nghĩa của tư tưởng về trách nhiệm của
nhà cầm quyền đối với dân của Nguyễn Trãi đối với sự nghiệp đổi mới nước
ta hiện nay.
4.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng của Nguyễn Trãi về trách nhiệm của nhà
cầm quyền đối với dân.
Phạm vi nghiên cứu: Những biểu hiện của tư tưởng Nguyễn Trãi về trách
nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân trong các tác phẩm thơ văn và trong
hoạt động thực tiễn của Nguyễn Trãi qua tư liệu lịch sử liên quan đến ông.
Đặc biệt, các trích dẫn chúng tôi sử dụng chủ yếu từ tác phẩm “Nguyễn Trãi
toàn tập” do Viện Sử học (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam) biên soạn và
được Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 1976.

7


5.

Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lí luận: Dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng vào nhận thức
tư tưởng Nguyễn Trãi về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử triết
học và nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội, phương pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp triết học giá trị học, phương
pháp triết học văn hóa.
6.

Đóng góp của đề tài
Chỉ ra một cách có hệ thống những tiền đề cho sự hình thành tư tưởng


Nguyễn Trãi về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân, đồng thời vạch
ra những nội dung cơ bản trong tư tưởng đó, ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp
đổi mới nước ta hiện nay.
7.

Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài

- Đề tài phân tích, làm rõ và hệ thống hóa quan điểm Nguyễn Trãi về trách
nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân. Đề tài góp phần làm sáng tỏ giá trị của
tư tưởng này trong công cuộc đổi mới hiện nay.
- Đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu học tập lịch sử
tưởng Việt Nam cho sinh viên, học viên khoa Triết học.
8.

Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo;

luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.

8


CHƯƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG NGUYỄN TRÃI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ CẦM
QUYỀN ĐỐI VỚI DÂN
1.1 Tiền đề khách quan
1.1.1 Hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội nước ta cuối thế kỉ XIV – đầu thế
kỉ XV
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà trí thức yêu nước, mà hơn thế, ông

là một danh nhân văn hóa. Tư tưởng của ông là một trong những sự phản ánh
khái quát khát vọng cháy bỏng của nhân dân ở một thời kì lịch sử với nhiều
biến động. Hơn thế, có thể nói, những tác phẩm của ông thực sự là “ý dân”
muốn bày tỏ với nhà cầm quyền. Đất nước ta trong khoảng thời gian từ cuối
thế kỉ XIV đến đầu thế kỉ XV ở vào tình trạng đầy mâu thuẫn, xung đột và
khủng hoảng. Nổi bật của việc giải quyết mâu thuẫn gay gắt giữa ngoại xâm
và dân tộc là cuộc chiến đấu của nhân dân chống lại quân xâm lược, ngoài các
cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình và sự thay thế nhau của ba triều đại: Trần
– Hồ - Lê trong thời gian ngắn ngủi.
Cuối thế kỉ XIV, đất nước ta đang bước trong giai đoạn cuối vương
triều Trần chuyển sang nhà Hồ. Về kinh tế, nước ta vẫn là một nước nông
nghiệp với chế độ điền trang thái ấp. Đầu thời Trần, sau những biện pháp kinh
tế về sở hữu ruộng đất thời Trần Thái Tông, chế độ tư hữu đã phát triển rất
mạnh trong thời gian này. Sự phát triển chế độ sở hữu lớn về ruộng đất – mở
rộng quy mô điền trang, thái ấp của quí tộc, đã tạo nên hiện tượng quí tộc
cướp ruộng của dân, giúp đại quí tộc củng cố vững chắc thế lực thống trị kinh
tế và từng bước tăng cường quyền lực chính trị, quân sự. Thế lực của tầng lớp
quí tộc ngày càng lớn mạnh, đại quí tộc sở hữu rất nhiều đất ruộng, thái ấp.
Họ sở hữu hàng nghìn nô tì họp thành quân đội riêng, hàng ngày mở trò chèo

9


hát vui thú. Quí tộc chia nhau trấn trị những vùng xung yếu trong nước và giữ
những chức vụ quan trọng trong triều đình, còn chính quyền quân chủ trung
ương ngày càng suy yếu. Do vậy, để tập trung địa vị quyền lực của mình và
tránh lộng quyền, cuối thời Trần, với sự tham mưu của đội ngủ Nho thần, Nhà
nước Trung ương đã tấn công vào thế lực quí tộc một cách mạnh mẽ. Để vun
vén gia tài và hạn chế vai trò của quí tộc bành trướng cát cứ, Trần Dụ Tông đã
ra lệnh kiểm kê tài sản các nhà quyền quý có nhiều đồ quý báu, sau khi chết

phải nộp cho nhà nước chứ không được để cho con cháu. Đó là cách cướp tài
sản của triều đình trung ương đối với nhà giàu. Cùng với sự phát triển điền
trang, thái ấp của quí tộc, là nền kinh tế tiểu nông, tiểu thủ công ra đời, dự báo
cho sự xuất hiện và phát triển của sản xuất hàng hóa. Giai cấp thương nhân ra
đời và ngày càng lớn mạnh. Tuy không tham gia sản xuất nhưng thương nhân
lại chiếm lấy những phần lợi tinh túy, nhanh chóng thu được của cải trở nên
giàu có và gây được ảnh hưởng xã hội tương ứng với số của cải có được.
Cuối thế kỉ XIV, nước ta liên tiếp gặp thiên tai. Nước ta nằm trong vành
đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, do vậy hiện tượng mưa bão, lũ lụt, hạn hán xảy
ra khá thường xuyên. Tuy nhiên thiên tai xảy ra với mức độ dày gây thiệt hại
nghiêm trọng như trong thời gian này quả là điều hiếm thấy. Trong khoảng
thời gian này, theo tài liệu sử học ghi chép lại, từ những năm ba mươi của thế
kỉ thứ mười bốn, thiên tai liên tiếp xảy ra, đặc biệt là khoảng thời gian từ năm
1340 đến 1355, Ngô Thì Sĩ phải thốt lên “15 năm, đã sáu lần nhật thực, ba lần
thủy tai, ba lần hạn hán, một lần sâu cắn lúa, lại luôn năm mất mùa đói kém.
Đến đây, từ mùa xuân đến mùa thu, nào là núi lở, nào đất động, không tháng
nào không có tai biến!” [38; 284]. Những năm 1343, 1354, 1357, 1378, 1405
là những năm gặp thiên tai lớn, mùa màng thất bát đẩy nhân dân vào nạn đói
hoành hành dữ dội.

10


Càng về sau, quý tộc nhà Trần tăng cường thực hiện chế độ sở hữu và
kiểu thức kinh doanh điền trang thái ấp nhằm ra sức củng cố lợi ích và địa vị
thống trị của mình, không quan tâm đến đời sống nhân dân lao động. Vua và
quan lại triều Trần thỏa sức hưởng lạc, bóc lột nông nô – nô tì ngày càng nặng
nề, nền kinh tế tiểu nông không giữ được hiện trạng mà ngày càng suy yếu,
kiệt quệ. Ruộng đất làng xã (công điền và quan điền) bị lấn chiếm nghiêm
trọng, nhân dân rơi vào cảnh khốn cùng. Hậu quả là nhiều người chết vì đói,

nhiều người tự nguyện đi làm thầy chùa và làm gia nô cho các thế gia. Nền
kinh tế của nhà Trần suy yếu nghiêm trọng, nạn cướp bóc hoành hành đẩy xã
hội rơi vào rối loạn. Người nông dân cơ cực vừa phải gánh chịu thiên tai, vừa
phải gánh chịu các khoản sưu cao thuế nặng. Vua và quan lại nhà Trần ăn chơi
không đoái hoài đến nỗi khổ của dân, mâu thuẫn trở nên sâu sắc, nhiều cuộc
nổi dậy của nông nô diễn ra. Việc duy trì chế độ đại sở hữu của quí tộc, chế độ
nô tì, xây dựng chùa chiền, nuôi sống hàng trăm vạn nhà sư không những là
nguyên nhân làm cho nền kinh tế suy yếu mà còn làm cho nhà nước quân chủ
ngày càng mất niềm tin ở nhân dân. Đồng thời, do chủ yếu dựa vào nông
nghiệp nên nạn đói cũng đẩy Nhà nước lâm vào khủng hoảng cả về mặt tài
chính và quản lí xã hội. Khi dân gặp nạn đói, Nhà nước đã kêu gọi nhà giàu
góp thóc làm quân lương và phát chẩn cứu dân nghèo, điều này thể hiện sự lệ
thuộc của Nhà nước vào lực lượng quí tộc, thương nhân trong việc quản lí đất
nước.
Quí tộc vương hầu cuối thời Trần ngày càng giàu có xa hoa, chỉ muốn
lạm thu về sưu dịch từ các thái ấp, điền trang riêng của mình, bỏ mặc việc
quốc gia, giao phó công việc triều chính lại cho quan lại chủ yếu là Nho sĩ. Có
thể thấy rõ, ở buổi đầu nhà Trần, các vương hầu về triều đảm nhiệm các chức
vụ cao nhất như Tể tướng, Hành khiển. Nhưng đến cuối thế kỉ XIV thì những
chức quan trọng trong triều đình dần được trao cho các Nho sĩ. Xu hướng

11


thay dần Nhà nước quân chủ do quí tộc nắm quyền thành Nhà nước quân chủ
do quan liêu nắm quyền càng thể hiện rõ.
Sự thay thế dần dần công việc quản lý triều chính cho Nho sĩ thể hiện
tính chất non kém và bảo thủ trong quản lí đất nước của quý tộc vương triều
Trần, đặt vương triều Trần trước nhiệm vụ cấp bách là hiểu và giải quyết hợp
lí các nhu cầu của thời đại, giải quyết các mâu thuẫn sâu sắc đang ngày càng

gia tăng trong xã hội. Tuy nhiên, nhà Trần không thống nhất được quyền lợi
của các giai tầng, lúng túng trước khủng hoảng về kinh tế và đường lối trị
nước, nên dần dần truyền lại các chức quan trọng và công việc quản lí vào tay
các Nho sĩ. Tầng lớp nhà Nho dần thiết lập vị thế của mình đối với xã hội, và
xuất hiện thế lực mới do Hồ Quý Ly đứng đầu.
Đứng trước khủng hoảng đó, những năm 80 của thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly
đang giữ chức tể tướng, thực hiện lật đổ để truất ngôi nhà Trần. Sau khi Hồ
Quý Ly lên ngôi đã tiến hành các cải cách kinh tế, chính trị, văn hóa nhằm
loại bỏ những nhân tố kìm hãm sản xuất phát triển. Nhằm loại bỏ những thế
lực tản quyền và ăn bám to lớn mà quí tộc thời Trần đã tạo ra, những cải cách
của Hồ Quí Ly hướng đến việc hạn điền, hạn nô và thanh lọc sư tăng, bắt hoàn
tục các nhà sư. Về ruộng đất, Hồ Quý Ly quy định chỉ có đại vương và trưởng
công chúa thì không hạn định, còn thứ nhân thì không quá mười mẫu, ruộng
của người nào quá hạn định cho phép thì nộp vào quan điền (thuộc sở hữu nhà
nước). Phép hạn điền này nhằm xóa bỏ sở hữu ruộng đất của quí tộc và của
địa chủ, chỉ còn lại ruộng của tiểu nông bao gồm cả phú nông. Sau hạn điền,
Hồ Quý Ly đề ra phép hạn nô, quy định số gia nô cụ thể được dùng theo địa vị
xã hội, số thừa phải sung công làm quan nô. Mục đích của phép hạn nô nhằm
hạn chế thế lực họ Trần. Hạn nô và hạn điền là nhằm đánh vào thế lực quý tộc
và tập trung việc khảo hạch tăng cường lực lượng kinh tế xã hội cho nhà
nước. Đối với lực lượng sư sãi, Hồ Quý Ly đề ra lệnh tất cả những nhà sư

12


chưa đến năm mươi tuổi phải hoàn tục, bắt các nhà sư vào quân đội, không
được “trốn việc quan ở chùa”.
Hồ Quý Ly còn tiến hành cải cách thuế và kiểm kê tài sản, lệnh cho nhà
giàu bán thóc cho dân nghèo theo giá cả thỏa thuận, tấn công vào tầng lớp
thương nhân đầu cơ thóc gạo. Đồng thời, tầng lớp lao động thủ công và

thương nhân bị thu hẹp thế lực với biện pháp bắt buộc họ phải chuyển sang
sản xuất nông nghiệp, tránh hiện tượng “không có ruộng mà có của”. Kèm
theo đó, với cuộc cải cách tiền tệ, Hồ Quý Ly ra lệnh thu tiền đồng nhập vào
kho Ngao Trì và ban hành tiền giấy Bản sao thay thế tiền đồng làm cho nhiều
thương nhân và thợ thủ công đóng cửa hàng. Năm 1403, nhà Hồ phải ra luật
“xử tội những kẻ không tiêu tiền giấy, bán giá cao, đóng cửa hàng, bao che
cho nhau”. Cải cách của Hồ Quý Ly đã kích mạnh vào sở hữu lớn của quý tộc,
địa chủ, tu viện Phật giáo và làm suy yếu tầng lớp thương nhân.
Những yêu cầu thực tiễn dân tộc đặt ra chỉ có thể giải quyết triệt để nếu
được nhìn nhận hợp lí và được soi sáng bởi một hệ tư tưởng. Tuy nhiên,
không phải bất cứ ai cũng có thể tìm ra con đường phát triển hợp lý cho đất
nước và cho chế độ. Xét trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, cải cách của Hồ Quí Ly
có nhiều điểm tiến bộ, trong chừng mực nhất định nó tước bỏ sở hữu lớn của
quí tộc, địa chủ. Do đó cũng tước bỏ thế lực chính trị, quân sự của lãnh chúa,
đánh vào kinh tế nhà chùa và tầng lớp thương nhân đầu cơ thóc gạo gây ra
nạn đói. Cuộc cải cách đó mang lại tác dụng tức thời, tăng cường vai trò cơ
chế quản lý kinh tế và tài chính của Nhà nước Trung ương, giải quyết được
nạn khủng hoảng tài chính kéo dài gần nửa thế kỉ, đồng thời nhà nước có thực
lực để xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh, để đối phó với nguy cơ
xâm lược. Nhưng ngoài một số mặt tiến bộ này, cải cách của nhà Hồ bị giới
hạn ngay bởi mặt bảo thủ lớn khi khôi phục và phát triển chế độ sở hữu Nhà
nước phong kiến tập quyền cao độ, phát triển chế độ nô lệ Nhà nước. Cải cách

13


tăng thuế điền và đánh thuế đinh nặng hơn nhiều so với trước, nó biến thương
nhân thành nông dân. Về mặt hiệu quả kinh tế, cuộc cải cách thu hẹp chế độ
tư hữu đã phát triển, thu hẹp giai cấp công thương, kìm hãm sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa đang bước đầu non yếu. Đồng thời, nó khôi phục chế độ

sở hữu Nhà nước – là cơ sở của chế độ quân chủ chuyên chế và quan liêu. Về
mặt xã hội, cuộc cải cách gây tình trạng bất mãn trong nông nô và giới công
thương. Nông nô, nô tì của quí tộc địa chủ bị chuyển thành nông nô, nô tì của
Nhà nước, chịu nhiều tầng áp bức và bóc lột. Tầng lớp tiểu nông phải chịu
thuế tăng gấp đôi, thuế đinh bị đánh nặng và một phần ruộng tư bị Nhà nước
chiếm đoạt. Tầng lớp công thương buộc phải từ bỏ nghề của mình đi khai
hoang làm ruộng. Hồ Quý Ly đánh vào tư hữu mà vẫn không giải quyết được
đời sống khốn khổ trước mắt và giảm nhẹ sự lệ thuộc thân phận cho đông đảo
nông nô, nô tì.
Tình thế đất nước thêm rối ren do Nhà nước và các giai tầng không có
sự thống nhất lợi ích, đồng lòng chống giặc ngoại xâm. Vậy nên, khi giặc
Minh mang quân xâm lược nước ta vào năm 1406, cho dù có một lực lượng
quân đội được tập hợp đông đảo, trang bị đầy đủ vũ khí, chiến thuyền nhưng
nhà Hồ đã thất bại nhanh chóng. Trong lịch sử dân tộc ta, chưa có một cuộc
kháng chiến chống xâm lược nào lại chiến đấu kém cỏi và thất bại nhanh
chóng đến như vậy. Trước nguy cơ mất nước, một làn sóng kháng chiến
chống Minh nổi dậy một cách tự phát ở khắp các địa phương trong cả nước.
Tuy số lượng các cuộc khởi nghĩa nhiều, song do không tạo được sức mạnh
của khối dân tộc thống nhất nên đều bị đàn áp. Đất nước ta bước vào giai
đoạn đen tối trong lịch sử dưới sự đô hộ của nhà Minh.
Sự đô hộ của nhà Minh (1407 – 1427) là thời kì đen tối trong lịch sử
Việt Nam. Chúng đã thủ tiêu nền độc lập dân tộc, biến nước ta thành quận
huyện của nhà Minh và thực thi chính sách vơ vét triệt để. Chúng triệt để bóc

14


lột sức người, vơ vét của cải tài nguyên và khủng bố tàn sát dã man các cuộc
nổi dậy của nhân dân ta. Chúng đồng hóa chủng tộc, thủ tiêu nền văn hóa Đại
Việt. Nhà Minh còn cho xây dựng nhiều khu thành trì kiên cố chiếm đóng

quân sự trên khắp cả nước với số lượng đạo quân khổng lồ. Đồng thời, chúng
thiết lập bộ máy hành chính gồm nhiều cơ quan thành một hệ thống quan liêu
sâu mọt nặng nề nhằm kiểm soát, huy động nhân lực đi lao dịch và khai thác
tài nguyên khoáng sản lâm, thổ, thủy sản và của cải. Chúng thực hiện âm mưu
đồng hóa dân tộc, thủ tiêu nền văn hóa Việt bằng cách đập phá bia, đốt tất cả
sách, tài liệu do người Việt Nam viết, hoặc thu nhặt đem về Trung Quốc.
Chúng bắt nhân dân ta ăn mặc theo trang phục Trung Quốc. Tội ác của giặc
Minh khiến Ngô Sĩ Liên phải thốt lên “Giặc Minh tàn bạo hòng thay bờ cõi.
Chúng giả nhân, diệt nước, giết hại, làm càn. Dân nước Việt ta, gan óc lầy đất.
Con thơ, cháu bé bị giáo gươm đâm chém, quăng xác thảm thê. Người lớn
phía Nam chạy xuống Chiêm Thành, phía Tây trốn sang Đại Lý. Làng mạc
hoang phế, xã tắc thành gò cho thỏ chui, cho hươu chạy, thành bãi cho chim
đỗ, thành rừng rậm cho hổ báo náu mình. Rồi giặc chia châu, đặt huyện, đắp
lũy, đào hào, đóng quân trấn giữ, đến hơn hai mươi năm, thay đổi phong tục
nước ta theo tóc dài, răng trắng, biến người nước ta trở thành người Ngô.
Than ôi! Họa loạn tột cùng đến mức như vậy!” [34; 289].
Sự thất bại của triều đình và các phong trào cứu nước tự phát đã nói lên
sự khủng hoảng trong con đường xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Rất nhiều
những chí sĩ yêu nước đau đáu nỗi lo trước vận mệnh của Tổ Quốc, trước họa
bóc lột cùng kiệt của quân Minh, ấp ủ tìm kiếm con đường cứu nước cứu dân.
Hơn lúc nào hết, khát vọng về một cuộc sống yên ấm, thái bình, no đủ của
người dân trở nên lớn lao và mạnh mẽ. Sự thất bại của nhà Hồ trước quân
xâm lược đúc rút ra bài học lớn, rằng nguyên nhân cơ bản là chính sách của
nhà Hồ khiến Việt Nam ta ở trong tình trạng các giai tầng bị phân tán, chia rẽ,

15


do đó sự gắn kết giữa các bộ phận trong xã hội trở nên lỏng lẻo. Cho dù tất cả
đồng bào, bất kì là người nông dân hay tầng lớp thương nhân, quí tộc, quan

lại, triều đình đều sẵn sàng đấu tranh cho độc lập dân tộc. Song giữa họ không
có tiếng nói chung. Thực tiễn lúc này đặt ra là phải có một đường hướng mới
giải quyết hợp lí mối quan hệ lợi ích đan xen trong xã hội, đảm bảo mỗi một
tầng lớp, mỗi một địa vị khác nhau trong xã hội đều được chăm lo những nhu
cầu cơ bản nhất để lao động và sinh sống, gắn kết tạo khối vững chắc trước
quân xâm lược. Đây chính là cơ sở thực tiễn để sau này Nguyễn Trãi tổng kết
phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa nhà cầm quyền với nhân dân.
Mười năm sau khi sống trong cảnh lầm than cơ cực dưới sự đô hộ của
giặc Minh, lòng yêu nước thương nòi của người dân đất Việt đã được hun đúc
thành lực lượng vật chất, thành sức mạnh chiến đấu với kẻ thù. Nhưng lần
lượt các cuộc đấu tranh của những nhà quí tộc thất bại đã chứng minh tầng
lớp quí tộc địa chủ nhà Trần đã hết vai trò lịch sử. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
nổ ra mang tính chất hoàn toàn khác so với những cuộc khởi nghĩa trước đó.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc chiến tranh nhân dân giải phóng dân
tộc, do tiểu địa chủ lãnh đạo, nhưng lại mang nhiều tính chất khởi nghĩa nông
dân. Lúc đó, số lượng tiểu địa chủ không nhiều trong xã hội, đây là sản phẩm
tất yếu của sự phát triển tư hữu, tuy nhiên thân phận tiểu địa chủ không hơn
tiểu nông do không có thế lực về kinh tế và chính trị, bị quan lại nhà Minh áp
bức. Nghĩa quân Lam Sơn không phải là những nông dân công xã, những tiểu
nông mà đây là những nông dân nghèo, tá điền và những thợ thủ công bị bần
cùng hóa. Họ là lớp người đông đảo chịu nhiều tầng áp bức, đa số là dân cày
nghèo cùng khổ nhất đứng lên đấu tranh cho sự sống còn của bản thân và gia
đình, cho cơm áo và quyền sống. Chính vì lẽ đó, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là
cuộc khởi nghĩa đấu tranh cho dân tộc và dân chủ. Điều đó có nghĩa, cuộc
khởi nghĩa nhằm mục đích giải phóng dân tộc, khôi phục và bảo vệ nền độc

16


lập, văn hóa dân tộc, bảo vệ quyền lợi khối cộng đồng dân tộc của tất cả các

giai cấp: nông dân, nô tì, thợ thủ công, thương nhân, địa chủ. Đồng thời cuộc
khởi nghĩa cũng nhằm giải phóng nông dân – những người chịu áp bức nặng
nề nhất. Sau mười năm bị giam lỏng ở Đông Quan vẫn không ngừng tìm
kiếm, suy tư, Nguyễn Trãi tìm thấy lí tưởng của mình trong lí tưởng của nghĩa
quân Lam Sơn và ông đã cùng nghĩa quân hiện thực hóa lí tưởng đó. Ông đã
nêu cao lý tưởng của cuộc khởi nghĩa là lí tưởng của đông đảo quần chúng
nhân dân lao động, khơi dậy được lòng yêu nước và sẵn sàng chiến đấu hy
sinh của đồng bào ta, nó đã thu hút rất nhiều chiến sĩ khắp nơi trong cả nước
tham dự.
Chính vì trải qua thời kì biến động như vậy mà Nguyễn Trãi đã nhận
thức đúng đắn thực tiễn mất nước, mới thấy được sự quý giá của tự do, độc
lập, và tinh thần quốc gia dân tộc được đề cao hơn lúc nào hết. Thế mới thấy
quốc gia là một chỉnh thể, mỗi con người sinh sống trong quốc gia ấy phải có
trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ chủ quyền độc lập thiêng liêng. Bất cứ khi nào
nền độc lập ấy và cuộc sống của người lao động bị đe dọa, thì nền cai trị ấy
trở nên lung lay. Thực tiễn ấy đã khiến Nguyễn Trãi hiểu rằng, nhu cầu có một
tầng lớp nhà cầm quyền có tài đức để lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống
yên bình, no ấm, lối sống cộng đồng nhân ái là khát vọng lớn của thời đại lúc
bấy giờ.
Sau mười năm kiên trì bền bỉ chiến đấu, chịu đựng gian khổ, nếm mật
nằm gai với ý chí sắt đá, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, lại có
Nguyễn Trãi làm quân thần đã giành thắng lợi vẻ vang. Sự thắng lợi của cuộc
khởi nghĩa là sự thắng lợi của tinh thần đồng cam cộng khổ, yêu nước thương
nòi, của giá trị truyền thống dân tộc và tinh thần nhân nghĩa cao cả. Chiến
thắng của nghĩa quân Lam Sơn là thực tiễn để Nguyễn Trãi hiểu rõ sức mạnh
chiến thắng của sự gắn bó sâu sắc và kết hợp hài hòa trong thể thống nhất của

17



tướng lĩnh và quân dân, của tập thể anh hùng, đứng đầu là Lê Lợi – người tổ
chức và lãnh đạo tài năng, cùng với tướng lĩnh mưu trí gan dạ như Nguyễn
Chích, và người tham mưu kiệt xuất như Nguyễn Trãi. Ông nhận thức được
chính tình yêu thương và lòng nhân ái giữa quân và tướng là sợi dây nối kết
rộng rãi nhân lên sức mạnh đoàn kết của nghĩa quân.
Năm 1428, cuộc khởi nghĩa thắng lợi mở ra thời kì độc lập cho dân tộc,
Lê Lợi lên làm vua, cùng tướng lĩnh bảo vệ độc lập và xây dựng đất nước, mở
ra một triều đại mới trong lịch sử. Nguyễn Trãi được trọng dụng tiếp tục tham
gia xây dựng đường lối dựa vào sức mạnh của toàn thể nhân dân và dân tộc.
xác định đường lối cầm quyền dụa vào nhân nghĩa. Điều đó không chỉ đúng
đắn trong thời chiến, mà nó vẫn giữ nguyên giá trị trong quá trình xây dựng
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội thời bình.
Trong cuộc kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi đóng vai trò quan
trọng là người góp phần thảo ra cương lĩnh cứu nước. Ông khơi dậy tinh thần
dân tộc trong mỗi cá nhân. Mỗi người không chỉ có trách nhiệm chiến đấu vì
bản thân, gia đình mà còn có trách nhiệm với đất nước, với cộng đồng, cùng
xây dựng xã hội tốt đẹp cho tất cả mọi người bằng tinh thần nhân nghĩa. Sau
khi cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, Nguyễn Trãi tiếp tục cống hiến trí tuệ của
mình phục vụ vua và xã tắc. Ông là nhà tư tưởng lớn, bằng tầm sâu của tư
tưởng và tài năng ngoại giao đã phò tá Lê Lợi trong công cuộc đánh giặc
ngoại xâm và cả trong thời bình quản lí đất nước.
Tuy nhiên, ngay sau khi vừa chiến thắng quân Minh hết sức vẻ vang,
quan lại và triều đình đã đánh mất phần nào sự đoàn kết và thống nhất bởi
việc phân chia các phe phái và mưu hại lẫn nhau. Nhiều công thần tướng lĩnh
tài giỏi từng phò tá Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa bị xúc xiểm triệt bỏ, tạo sự
bất bình trong dư luận. Năm 1428, Lê Lợi ra lệnh xử tử Lê Hãn, sau đó ông ra

18



lệnh xử tử Phạm Văn Xảo. Đối với quan lại và công thần, tình trạng tham ô
hết sức ngang nhiên trắng trợn.
Lê Thái Tổ sau khi lên ngôi vua đã thiết lập bộ máy hành chính, các
chức vụ quan trọng trong triều đình và ở các địa phương được trao cho các
công thần, phần lớn trong số họ không thuộc dòng họ nhà vua. Như vậy, chế
độ phong kiến phân quyền quí tộc lãnh chúa bị thủ tiêu, đất nước bấy giờ là
thuộc quyền của ông vua chuyên chế. Vua là biểu hiện quyền uy tối thượng, là
người toàn quyền lập pháp, hành pháp, người đề cử và phế truất quan lại các
cấp, quyết định mọi thưởng phạt. Vua không còn là đại biểu cho dòng họ, mà
là đại biểu cho giai cấp địa chủ quan liêu. Khuynh hướng chính trị xây dựng
nhà nước trung ương tập quyền mạnh của thời Hồ Quí Ly được tiếp tục bởi
nhà Lê Sơ bằng việc tăng cường chế độ sở hữu Nhà nước, củng cố chế độ
quân chủ tập quyền và quan liêu. Dần dần về sau, chế độ này đã hình thành
một tầng lớp quan liêu đông đảo, đó là một giai cấp ăn bám trên tô thuế ruộng
công và hầu như không có tư liệu sản xuất mới. Quan lại thời này không phải
địa chủ, đồng lương hạn hẹp mà chỉ sống bằng bổng lộc. Chế độ quan liêu và
bổng lộc đã tạo điều kiện cho bọn quan lại tha hồ vơ vét bóc lột của dân, quan
địa phương ra sức vơ vét của cải của người dân trong lộ mình cai trị, làm cho
trăm họ xác xơ. Sự tranh nhau địa vị đồng nghĩa với kết bè phái và nạn tham
ô diễn ra phổ biến và trầm trọng thời gian này như là một sản phẩm tất yếu
của chế độ quan liêu. Và nó trở thành tai họa tham nhũng lớn nhất của nhân
dân sống dưới chế độ phong kiến quan liêu.
Lại một lần nữa, nạn quan lại tham nhũng và sự tranh giành phân chia
phe phái của tầng lớp quan lại và triều đình đã đè nặng lên đời sống của người
dân lao động. Người dân lao động vui mừng khi vừa đánh đuổi được quân
xâm lược giành lại cuộc sống an bình chưa được bao lâu thì lại hứng chịu sự
bòn rút, vơ vét của quan lại và triều đình. Có thể thấy, trong thời phong kiến,

19



thường trực mâu thuẫn gắn liền với toàn bộ lịch sử đấu tranh giữ nước và
dựng nước: Một mặt, nông dân là lực lượng chính trong cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ Quốc. Bất cứ một lực lượng phong kiến nào nếu
không tập hợp được đông đảo sức mạnh nhân dân, đại đa số là nông dân thì
không thể thắng lợi. Nhưng mặt khác, sau khi đánh đuổi được ngoại xâm, thì
nhân dân ta lại sống dưới ách áp bức, bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến.
Triều đại nhà Lê vừa được thiết lập, cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Trong bối cảnh thời đại ấy, đã làm nên yêu cầu xuất hiện nhà tư tưởng
Nguyễn Trãi – một nhà chí sĩ yêu nước chân chính. Tư tưởng của ông vượt
trước và dường như vươn khỏi giới hạn địa vị giai cấp của mình, ông luôn
lãnh lấy trách nhiệm cuộc đời mình đấu tranh cho quyền sống của con người,
của nhân dân bị áp bức, cùng khổ. Nhận thức của ông yêu cầu cao về sự hài
hòa giữa quyền lực và trách nhiệm. Tuy chịu ảnh hưởng của Nho giáo nhưng
động cơ yêu nước thương dân khiến ông tin tưởng vào một xã hội phong kiến
tốt đẹp có minh quân hiền tướng, có tài năng, có uy tín và có trách nhiệm lo
cho nhân dân no ấm hạnh phúc. Do vậy, cả cuộc đời ông ra sức đấu tranh
chống bọn tham quan ô lại, ông kêu gọi triều đình và quan lại phải có trách
nhiệm đối với dân, trách nhiệm xây dựng cuộc sống tươi đẹp cho dân. Tư
tưởng của ông về trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân có mục đích
nhằm chấm dứt tình trạng suy thoái, chấm dứt nạn quan lại tham nhũng đang
diễn ra khắp nơi trên cả nước. Giá trị đó trong tư tưởng của ông vượt ra khỏi
tầm thời đại và đồng hành với sự nghiệp đổi mới xã hội ta ngày nay – xã hội
hướng đến độc lập dân tộc, nhân văn, nhân đạo và tiến bộ xã hội.
1.1.2. Ảnh hưởng từ quan niệm Nho giáo về trách nhiệm của nhà cầm quyền
đối với dân trong tư tưởng Nguyễn Trãi

20



Trong quá trình hình thành và xây dựng đường lối cai trị cho triều Lê
Sơ, Nguyễn Trãi đã có tiếp thu các giá trị truyền thống dân tộc, tư tưởng của
cả dòng văn hóa bác học và bình dân. Trong Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo là
ba học thuyết tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng ông thì Nho giáo
có ảnh hưởng đậm hơn cả. Xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn lịch sử, sự tiếp
thu ở mỗi giai đoạn lịch sử trong cuộc đời ông có sự khác nhau, vị thế của
mỗi học thuyết tư tưởng khác nhau qua từng thời kì. Điều cần chú ý khi được
tiếp nhận ở Nguyễn Trãi, nội dung của những học thuyết tư tưởng ấy có nhiều
thay đổi, nó không hoàn toàn giống với học thuyết ban đầu, mà ở đây, để phù
hợp với thực tiễn Việt Nam, có sự thống nhất tiếp biến giữa tam giáo với tư
tưởng phong tục tập quán, truyền thống của dân tộc ta tạo nên những nét sáng
tạo riêng, độc đáo. Nguyễn Trãi là một nhà Nho, thương dân, yêu nước. Ông
đứng trên lập trường dân tộc để tiếp thu quan niệm của Nho giáo về trách
nhiệm của người cầm quyền đối với dân. Ngoài ra ông còn kế thừa tinh hoa
của Phật giáo, Đạo giáo và các giá trị truyền thống dân tộc để hình thành nên
tư tưởng về trách nhiệm xã hội đối với tầng lớp cai trị xã hội (vua, quan
phong kiến).
Chúng ta đều biết rằng, Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội,
do Khổng Tử sáng lập, là một bộ phận cốt lõi của nền văn minh Trung Hoa.
Nho giáo ra đời từ rất sớm trong lịch sử, qua thời gian, nội dung học thuyết
Nho giáo có nhiều thay đổi do các đại biểu Nho giáo không ngừng chú giải và
phát triển theo những hướng khác nhau. Cho đến ngày nay, nghiên cứu học
thuyết Nho giáo vẫn là vấn đề thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà khoa
học. Trong một thời gian lâu dài của chế độ phong kiến, hệ tư tưởng Nho giáo
có sức lan tỏa mạnh mẽ, nó vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và ảnh hưởng sâu
rộng đến các quốc gia khu vực xung quanh, đặc biệt sự xâm nhập của Nho
giáo vào Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam là hết sức đậm nét. Từ thế kỉ II

21



×