Tải bản đầy đủ (.docx) (142 trang)

Báo chí công an nhân dân với công tác tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 142 trang )

V

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ===========

HOÀNG VĂN PHONG

BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN VỚI CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
CỦA TỔ QUỐC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ===========

HOÀNG VĂN PHONG

BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN VỚI CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
CỦA TỔ QUỐC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60320101

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ

Hà Nội – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết, đây là luận văn do tôi tự nghiên cứu dưới sự hướng
dẫn trực tiếp của cán bộ hướng dẫn. Các vấn đề mà tôi đưa ra trong nghiên
cứu "Báo chí Công an nhân dân với công tác tuyên truyền bảo vệ chủ
quyền biển đảo của Tổ quốc giai đoạn hiện nay" chưa được công bố ở bất cứ
công trình khoa học nào. Mọi luận cứ trong luận văn là xác thực.
Tác giả luận văn

HOÀNG VĂN PHONG


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin được bày tỏ lòng tri ân sâu
sắc đến PGS. TS Nguyễn Thế Kỷ, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc
Đài Tiếng nói Việt Nam – người đã hướng dẫn tận tình, tạo mọi điều kiện để
tôi được tiếp cận, tìm hiểu và nghiên cứu đề tài này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Trung tâm
nghiệp vụ - Hội Nhà báo Việt Nam, sự hợp tác, giúp đỡ của các đồng nghiệp
Báo CAND, CANĐ, các Nhà báo lão thành…đã tạo mọi điều kiện để tôi có
thể tiếp cận tư liệu và tìm hiều quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng vô cùng biết ơn các nhà quản lý, lãnh đạo các ngành và các
đơn vị liên quan, bạn bè, đồng nghiệp đã dành thời gian tham gia các cuộc trò
chuyện, khảo sát, phỏng vấn về các nội dung nghiên cứu của đề tài.
Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn đến đội ngũ các thầy cô ở trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội đã nhiệt huyết trong suốt

quá trình giảng dạy, giúp đỡ, chỉnh sửa, góp ý đề cương để tôi có điều kiện
hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HOÀNG VĂN PHONG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................................................... 3
3. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu...................................................................... 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.............................................................................. 7
7. Kết cấu của luận văn................................................................................................................... 8
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG TUYÊN
TRUYỀN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TỔ QUỐC CỦA BÁO CHÍ

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY............................................................................................................ 9
1.1 Khái niệm liên quan đến đề tài.................................................................................. 9
1.1.1. Biển, đảo.......................................................................................................................... 9
1.1.2. Tuyên truyền................................................................................................................ 13
1.1.3. Báo chí........................................................................................................................... 15
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về tuyên truyền bảo vệ chủ
quyền biển đảo.......................................................................................................................... 16
1.4.1 Những căng thẳng trên biển Đông................................................................... 23
Chƣơng 2: KHẢO SÁT TIN BÀI VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, ĐẤU


TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CỦA TỔ QUỐC TA TRÊN
BÁO IN CAND VÀ CAĐN..................................................................................................... 27
2.1. Diện mạo báo chí CAND nói chung và báo in CAND, CAĐN..........27
2.2. Tần suất, số lƣợng tin bài......................................................................................... 31
2.3. Nội dung thông tin đƣợc phản ánh.................................................................... 36
2.3.1. Diễn biến thực địa.................................................................................................... 42
2.3.2. Đấu tranh nhân dân................................................................................................ 51


2.3.3. Đấu tranh nhà nước................................................................................................ 58
2.3.4. Dư luận quốc tế......................................................................................................... 73
2.4. Hình thức thể hiện......................................................................................................... 77
2.4.1. Thể loại.......................................................................................................................... 78
2.4.2. Tít, sapo......................................................................................................................... 84
2.4.3. Ảnh, đồ họa.................................................................................................................. 85
2.5. Đánh giá thành công, hạn chế của 2 tờ báo in CAND và CAĐN.....86
2.5.1. Thành công.................................................................................................................. 86
2.5.2. Hạn chế.......................................................................................................................... 89
Chƣơng 3: NHỮNG GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤP
LƢỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN
ĐẢO CỦA TỔ QUỐC TRÊN BÁO CAND, CAĐN............................................... 92
3.1. Khái quát chung nguyên nhân thành công và hạn chế.......................... 92
3.2. Giải pháp, khuyến nghị.............................................................................................. 97
3.2.1. Giải pháp chung........................................................................................................ 97
3.2.2. Giải pháp cụ thể..................................................................................................... 106
KẾT LUẬN.................................................................................................................................... 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................... 118
DANH MỤC TỪ

VIẾT TẮT


CQBĐ

: Chủ quyền biển đảo



: Biển đảo

GS.TS

: Giáo sư, tiến sĩ

PGS.TS

: Phó Giáo sư, tiến sĩ

NXB

: Nhà xuất bản

LHQ

: Liên hiệp quốc

ASEAN

: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, 28/63 tỉnh
thành phố có biển, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo
và các lãnh thổ trên thế giới; những yếu tố trên đã tạo cho Việt Nam một vị trí
địa chính trị và địa kinh tế đặc biệt quan trọng. Trong suốt quá trình lịch sử
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển đảo luôn gắn với quá
trình xây dựng và phát triển của đất nước và con người Việt Nam.
Đất nước chúng ta không chỉ có đường bờ biển dài mà còn rất đặc biệt
khi sở hữu gần 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó đặc trưng nhất là hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Biển, đảo có tầm quan trọng đặc biệt mang tính
chiến lược trong quá trình phát triển đất nước. Chính vì vậy, hoạt động tuyên
truyền về biển đảo là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của báo chí cách
mạng Việt Nam cũng như những người làm báo. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện
nay, biển Đông nói chung và vấn đề biển đảo nói riêng thực sự đang là một
vấn đề nóng trên tất cả các diễn đàn không chỉ trong nước mà còn của cả khu
vực và thế giới. Những câu chuyện về tranh chấp chủ quyền của Trung Quốc
với Nhật Bản, Philippines, đặc biệt là những hành động gây hấn của Trung
Quốc với Việt Nam trong thời gian gần đây (nhất là trong năm 2014) trên biển
Đông thực sự đã tạo nên làn sóng phẫn nộ sâu sắc với dư luận trong nước và
quốc tế. Và kể từ ngày 2/5/2014, khi Trung Quốc ngang nhiên kéo giàn khoan
Hải Dương 981 hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam, vấn đề tuyên truyền về biển đảo lại càng trở nên nóng bỏng,
cần thiết và là nhu cầu thông tin không thể thiếu với công chúng báo chí.
Trước bối cảnh diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường các hoạt động khiêu
khích, chống phá của Trung Quốc, báo chí Việt Nam trong đó có hệ thống báo
chí CAND đã thể hiện vai trò là vũ khí sắc bén, có hiệu quả của Đảng và Nhà
1



nước trong cuộc đấu tranh với hành động sai trái của Trung Quốc ở Biển Đông.
Bằng những thông tin khách quan, chính xác, kịp thời, có tính thuyết phục cao,
hệ thống báo chí CAND đã cung cấp thông tin không chỉ cho độc giả trong nước
mà còn cho bạn bè quốc tế, người Việt Nam sống ở nước ngoài có được những
thông tin tin cậy, từ đó hiểu rõ hơn quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước
về chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Những thông tin này đã đóng góp to lớn
trong quá trình đấu tranh, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Đảng, Chính phủ, Nhà
nước và nhân dân ta, được nhân dân thế giới ủng hộ, phản đối và yêu cầu Trung
Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng biển nước ta.

Việc phát huy vai trò của báo chí nói chung và hệ thống báo chí CAND
nói riêng trong công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của nước ta giai
đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết, cấp bách. Cùng với các cơ quan báo chí
hiện nay, hệ thống báo chí CAND trong đó cụ thể là báo CAND và báo
CAĐN có nhiều thế mạnh vượt trội trong việc tiếp cận công chúng, độc giả,
những chứng cứ, tư liệu, thông tin,… từ đó truyền tải nhanh chóng, chính xác
lập trường, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đến với bạn
bè quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân thế giới cũng như
định hướng tư tưởng cho người Việt Nam ở nước ngoài, nâng cao trách nhiệm
của mỗi công dân với Tổ quốc, với việc bảo vệ CQBĐ.
Nghiên cứu về vai trò của báo chí CAND trong công tác đấu tranh bảo
vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc giai đoạn hiện nay bắt đầu từ sự kiện
Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trên báo in CAND và CAĐN là một
hướng nghiên cứu cần thiết của báo chí học, qua đó góp thêm một kênh thông
tin cho hoạt động tuyên truyền về đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo ngày
càng có chất lượng, hiệu quả hơn; khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của báo
in CAND và báo CAĐN trong công cuộc đấu tranh bảo vệ CQBĐ, từ
2



đó rút ra bài học kinh nghiệm và giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả tuyên
truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc ta trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì vậy, tác giả luận văn chọn đề tài nghiên cứu “Báo chí CAND với
công tác tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc giai đoạn
hiện nay” làm đề tài luận văn cao học báo chí của mình.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Có thể khẳng định rằng, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề
biển đảo. Trong quá trình tìm hiểu, tác giả chú ý đến một số cuốn sách liên
quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài như:
Bộ sách “Chủ quyền biển đảo Việt Nam” – NXB Thanh Niên, xuất bản
năm 2012 của hai tác giả Sông Lam và Thái Quỳnh tuyển chọn, gồm 10 tên
sách gồm: Toàn cảnh biển đảo Việt Nam; Một số vấn đề trong chiến lược biển
Việt Nam; Hỏi đáp về biển đảo Việt Nam; Thiên hùng ca bất tử đường Hồ Chí
Minh trên biển; Trường Sa vang mãi bản hùng ca; Những người giữ niềm tin
cho biển; Đây biển Việt Nam; Những hòn đảo ngọc Việt Nam; Cảng biển Việt
Nam; Hải đăng Việt Nam – Mắt thần canh biển. Bộ sách bao gồm những kiến
thức cơ bản về Luật Biển quốc tế và hệ thống pháp luật về biển, đảo của Nhà
nước ta; Những cơ sở pháp lý, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
các quần đảo trên biển Đông, khẳng định quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
trong việc giải quyết tranh chấp; Tuyên truyền ý nghĩa, nội dung, kết quả thực
hiện các văn bản pháp lý về biển, đảo Việt Nam đã ký kết với các nước láng
giềng, các nước có liên quan. Ngoài ra, bộ sách cũng tuyên truyền, giáo dục
cho toàn dân nâng cao ý thức đấu tranh, bảo vệ, giữ gìn chủ quyền biển đảo
của tổ quốc, phát triển du lịch biển đảo Việt Nam,…
Cuốn sách “Tìm hiểu về biển, đảo Việt Nam” của hai tác giả Đậu Xuân
Luận, Đặng Việt Thủy (sưu tầm, biên soạn) Nhà xuất bản Quân đội nhân dân

xuất bản năm 2014 đã đề cập tới một số vấn đề chung về biển, đảo Việt Nam,
3


luật pháp quốc tế và Việt Nam về biển; tuyên bố của Chính phủ Việt Nam về
lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam; quy chế khu vực biên giới biển,… tiềm năng phát triển một số đảo
của Việt Nam, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa,…
Cuốn sách “Bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lí Hoàng Sa, Trường Sa
là của Việt Nam” (NXB Trẻ xuất bản năm 2011). Thông qua nguồn tư liệu lịch
sử và địa lý đáng tin cậy của Việt Nam cũng như tư liệu và bản đồ xưa của các
nhà truyền giáo và hàng hải phương Tây, cuốn sách đã đưa ra những dẫn
chứng khái quát về Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ XV. Khẳng định chủ
quyền, không thể tranh cãi của Việt nam đối với hai quần đảo này ở biển
Đông.
Cuốn sách “Người Việt với biển” của tác giả Nguyễn Văn Kim (chủ
biên) – NXB Thế giới, xuất bản năm 2011. Cuốn sách tập hợp nhiều bài
nghiên cứu, phân tích về cơ tầng văn hóa biển, quan hệ ngoại thương và chủ
quyền an ninh biển; truyền thống và tư duy hướng biển của người Việt; ý thức
chủ quyền biển đảo,…
Những công trình trên có nhiều giá trị, là nguồn tư liệu quan trọng giúp
tác giả có thêm thông tin “làm nền” cho luận văn của mình. Ngoài ra, tác giả
chú ý tới một số luận văn của học viên cao học tại Khoa Báo chí và Truyền
thông - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN), Học viện
Báo chí và Tuyên truyền:
Đề tài thạc sĩ chuyên ngành báo chí học tại trường Đại học khoa học xã
hội và Nhân văn, 2013, “Thông tin về chủ quyền biển đảo trên kênh VTV Đà
Nẵng” của tác giả Văn Công Nghĩa. Tác giả đã đi sâu phân tích đánh giá
những thành công hạn chế của việc thông tin về biển đảo của VTV Đà Nẵng.
Bên cạnh đó, tác giả đã phân tích và đưa ra những hạn chế nhất định trong

lĩnh vực tuyên truyền về biển đảo qua thể lại phim tài liệu truyền hình; mạnh
4


dạn đưa ra một số nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng thông tin về biển
đảo của VTV Đà Nẵng.
Luận văn thạc sĩ: “Nâng cao chất lượng chương trình về biển đảo trên
sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam” (Qua thực tế các chương trình
trên hệ thời sự chính trị tổng hợp VOV1), Truyền thông đại chúng, của tác giả
Nguyễn Thị Hòa - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2011. Tác giả đã nghiên cứu và đưa ra thời cơ và thách thức
đặt ra đối với việc thông tin tuyên truyền về biển đảo trong thời đại ngày nay.
Thông qua đó, đề xuất những giải pháp để đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên
truyền về biển đảo trên sóng phát thanh Đài Đài Tiếng nói Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ “Tuyên truyền về biển đảo trên báo điện tử Việt Nam
hiện nay” của tác giả Vương Thị Hà - Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
2014. Ngoài việc hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề
tài luận văn còn phân tích vai trò của báo điện tử trong tuyên truyền về biển
đảo; Nội dung tuyên truyền về biển đảo trên báo điện tử Việt Nam; Ưu điểm
và hạn chế của báo điện tử khi tuyên truyền về biển đảo; Qua đó, chỉ ra những
thành công và hạn chế trong công tác tuyên truyền về biển đảo trên báo điện
tử Việt Nam hiện nay và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả tuyên truyền về biển đảo trên báo điện tử trong thời gian tới.
Luận văn thạc sĩ “Vai trò của Báo chí đối ngoại với việc thông tin bảo
vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2015. Trên cơ sởnghiên cứu những vấn đề
cơ bản về cơ sở lý luận và thực tiễn của vai trò báo chí đối ngoại với việc
thông tin bảo vệ chủ quyền biển , đảo ViêṭNam hiêṇ nay cũng như đánh
giánhững thành công vàhaṇ chếcủa nó , tác giả đã đềxuất môṭsố giải pháp
nâng cao vai trò của báo chí đ ối ngoại nhằm góp phần đắc lưcc̣ vào thưcc̣ hiêṇ

nhiêṃ vu c̣bảo vê c̣chủquyền biển , đảo nước ta. Tất cả những nghiên
5


cứu này sẽ là những tài liệu tham khảo có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn
để tác giả thực hiện tốt hơn đề tài nghiên cứu của mình.
Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng, những tư liệu, sách và các luận văn
dù có những giá trị rất quan trọng trong nghiên cứu về biển đảo. Tuy nhiên
đến nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể vấn đề “Báo chí CAND với
công tác tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc giai đoạn hiện
nay”. Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và tính mới mẻ cũng như giá trị
khoa học và thực tiễn đó của đề tài mà tôi quyết định chọn đề tài: “Báo chí
CAND với công tác tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc giai
đoạn hiện nay” là đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan, luận văn sẽ tìm hiểu
khảo sát phân tích báo in CAND và báo CAĐN về tuyên truyền bảo vệ chủ
quyền biển đảo, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế của 2 tờ báo để đề xuất các
giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo trên hệ
thống báo chí CAND nói chung và báo CAND, báo CAĐN nói riêng trong
thời gian tới.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Báo chí Công an Nhân dân với công tác
tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc ta giai đoạn
hiện nay.
Khách thể nghiên cứu, khảo sát là hai tờ báo in CAND và Công an Đà
Nẵng trong khoảng thời gian từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2016.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi hai tờ báo in CAND và
CAĐN. Phạm vi thời gian khảo sát bắt đầu từ tháng 5/2014 khi sự kiện giàn

6


khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc kéo vào vùng biển đặc quyền kinh tế
của nước ta đến tháng 5/2016.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quátrinh̀ thưcc̣ hiêṇ đềtài , tác giả sử dungc̣ cơ s ở lý luận, phương
pháp nghiên cứu cơ bản sau:
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên:
Nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí, truyền thông.

5.2. Phương pháp cụ thể:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: thu thập và nghiên cứu các nguồn
tài liệu có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử và tài liệu thứ cấp: hệ thống hóa các
công trình đã nghiên cứu trước đó về vấn đề TTĐN, cũng như các văn bản,
chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực thông tin tuyên truyền
biển đảo,…
Phương pháp phân tích thông điệp truyền thông về biển đảo từ 2 tờ báo
in CAND và CAĐN trên những bình diện về tần xuất xuất hiện, về nội dung
thông tin và hình thức chuyển tải thông tin
Phương pháp phỏng vấn sâu lãnh đạo các cơ quan báo chí CAND,
CAĐN, PV, BTV, những người trực tiếp phụ trách công tác tuyên truyền trên
lĩnh vực này.

Phương pháp thống kê.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1.

Ý nghĩa lý luận:

Luận văn góp phần bổ sung và làm phong phú thêm hệ thống lý luận về
công tác tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc trên báo chí
CAND, báo CAĐN; ở một khía cạnh nào đó, đề tài sẽ có những đóng góp
7


mang tính mở đầu trong việc thống kê, đánh giá, nhận xét và phân tích ở góc
độ nội dung và hình thức thể hiện; những thành công, hạn chế, bài học kinh
nghiệm, kiến nghị các giải pháp. Điều này sẽ góp phần tạo cơ sở cho những
nghiên cứu sâu hơn sau này về vấn đề tuyên truyền về biển, đảo trên hệ thống
báo chí.
Nội dung của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích
cho việc nghiên cứu các vấn đề có liên quan.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ những thành công, hạn chế trong công tác
tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của nước ta của hai tờ báo trong giai
đoạn hiện nay; từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền trên lĩnh vực bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam không chỉ
trên báo CAND, CAĐN mà còn trên hệ thống báo chí Cách mạng Việt Nam.
Luận văn cũng đưa ra những định hướng cho việc nâng cao hiệu quả
công tác tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo trên tờ báo mạng điện tử
CAND và CAĐN nói riêng và báo điện tử nói chung.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động tuyên truyền bảo vệ chủ
quyền biển đảo tổ quốc của báo chí giai đoạn hiện nay
Chương 2: Khảo sát tin bài về công tác tuyên truyền, đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển đảo của tổ quốc ta trên báo in CAND và CAĐN
Chương 3: Những giải pháp, khuyến nghị nâng cao chấp lượng công tác tuyên
truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc trên báo CAND, CAĐN

8


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG
TUYÊN TRUYỀN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TỔ QUỐC CỦA
BÁO CHÍ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1 Khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Biển, đảo
Theo Từ điển tiếng Việt, biển là vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt
trái đất [Hoàng Phê (2008), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.82]
Theo Từ điển tiếng Việt, đảo là khoảng, vùng đất rộng có nước bao quanh
ở sông, hồ, biển [Hoàng Phê (2008), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.369]
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, điều 121: “Một
đảo là một vùng đất có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt
nước”. Trong điểm b, điều 46, phần IV của Luật này có sử dụng thuật ngữ quần đảo
giải thích: “Quần đảo” (Archipel) là tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các
đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau
đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị,
hay được coi như thế về mặt lịch sử. Theo đó, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt
Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam có vùng thềm

lục địa rộng khoảng 1 triệu km2 cùng hệ thống các đảo, quần đảo.

Biển Đông
Theo tài liệu học tập chính trị của Tổng cục Chính trị năm 2010, Việt Nam có
bờ biển dài hơn 3.260 km, trải dài trên 13 vĩ độ, có tỷ lệ chiều dài đường biển trên
diện tích đất liền cao nhất Đông Nam Á và đứng 27/157 nước có biển trên thế giới
(trung bình của thế giới là 600 km2 đất liền/km bờ biển, Việt Nam là 100km2 đất
liền/km bờ biển). Biển nước ta có khoảng 3.000 hòn đảo lớn nhỏ xa bờ, gần bờ và
hai quần Đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Đảo ven bờ chủ yếu nằm ở vịnh Bắc Bộ; đảo
nổi của nước ta có diện tích khoảng 1.700 km2, trong đó 3 đảo có diện tích

9


lớn hơn 100km2 là: Phú Quốc, Cái Bầu, Cát Bà), có 23 đảo diện tích lớn hơn
10km2, có 82 đảo diện tích lớn hơn 1km2 và khoảng 1.400 đảo nhỏ chưa có
tên. HÌnh như trùng lặp với đoạn trên đã viết về biển, đảo VN?
Cuốn “Toàn cảnh biển đảo Việt Nam” (Nhiều tác giả) cho rằng: "Biển
Đông là vùng biển rìa Tây Thái Bình Dương. Nhân dân Việt Nam vẫn gọi
Biển Đông theo tên truyền thống, gắn liền với lịch sử hàng nghìn năm của dân
tộc. Tên biển Đông đã được ghi trong cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi, năm
1435 thời vua Lê Thánh Tông". Việt Nam là đất nước có bờ biển dài 3260 km,
vùng đặc quyền kinh tế rộng hơn 1 triệu km2 với trên "4000 đảo lớn nhỏ,
trong đó: vùng biển Đông Bắc có trên 3000 đảo; Bắc Trung Bộ trên 40 đảo;
còn lại ở vùng biển Nam Trung Bộ, vùng biển Tây Nam và 2 quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Đảo và quần đảo nước ta có ý nghĩa quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, có vai trò lớn lao trong công
cuộc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Bản đồ vùng biển Việt Nam trên Biển Đông (Nguồn: internet)

Nước ta giáp với biển Đông ở hai phía Đông và Nam. Vùng biển Việt
Nam là một phần biển Đông. Với vị trí chiến lược quan trọng: nối liền Thái
Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu, châu Úc với Trung
10


Đông, biển Việt Nam tạo điều kiện giao lưu quốc tế thuận lợi, phát triển kinh
tế biển, dịch vụ trên biển.
Theo Luật biển Việt Nam thì vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh
hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác
định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước
của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Những khái niệm cụ thể về nội
thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
đều được giải thích khá rõ trong công ước của Liên hợp quốc về Luật biển
1982 cũng như trong luật biển Việt Nam.
Vài nét về Hoàng Sa - Trƣờng Sa
- Quần đảo Hoàng Sa
+

Quần đảo Hoàng Sa là một quần đảo san hô nằm giữa Biển Đông. Từ

lâu Hoàng Sa cũng như Trường Sa đã thuộc lãnh thổ Việt Nam với tên Bãi Cát
Vàng, Hoàng Sa.
+
độ

Quần đảo Hoàng Sa nằm trong kinh độ 1110 đến 1130 Đông, vĩ


15045’; đến 17015’, ngang với vĩ độ Huế và Đà Nẵng. Hoàng Sa nằm ở phía
Bắc Biển Đông, trên đường biển quốc tế từ Châu Âu đến các nước phía Đông
và Đông Bắc Á và giữa các nước Châu Á với nhau.
+

Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 37 đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm và một

số đối tượng địa lý khác trong vùng biển rộng khoảng 30.000 km2 chia ra làm
2 nhóm: Nhóm phía Đông có tên là Nhóm An Vĩnh, nhóm phía Tây là Nhóm
Lưỡi liềm. Riêng đảo Hoàng Sa có trạm khí tượng của Việt Nam hoạt động từ
năm 1938 đến 1947, được tổ chức khí tượng quốc tế đặt số hiệu 48-860 (số 48
chỉ khu vực Việt Nam).

11


Bản đồ Quần đảo Hoàng Sa(Nguồn: internet)
+

Dưới triều Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa thuộc phủ Quảng Ngãi, tỉnh

Quảng Nam. Năm 1938 thuộc tỉnh Thừa Thiên. Năm 1961 gọi là xã Định Hải,
quận Hoà Vang tỉnh Quảng Nam. Năm 1982 Chính phủ ta quyết định thành
lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Nay trở thành huyện
Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng.
+
Năm 1956 Trung Quốc chiếm phần phía Đông của quần đảo
Hoàng
Sa. Tháng 1/1974, trong lúc quân và dân ta đang tập trung sức tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung Quốc đã đem quân ra đánh chiếm

toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
+

Quần đảo Trường Sa

Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 200 hải lý về

phía Nam. Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo nhỏ, bãi ngầm, bãi san
hô nằm trải rộng trong một vùng biển khoảng 180.000 km 2 với chiều Đông
Tây là 325 hải lý, chiều Bắc Nam là 274 hải lý, từ vĩ độ 6 030’ Bắc đến 120
Bắc và từ kinh độ 111030’ Đông đến 117020’ Đông, cách Cam Ranh 248 hải
lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 595 hải lý.
+
Quần đảo Trường Sa được chia làm 10 cụm: Song Tử, Thị Tứ,
Loại
Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bãi Vũng Mây, Bãi Hải


12


Sâm, Bãi Lim, Song Tử Tây là đảo cao nhất (cao 4 đến 6 mét lúc triều xuống);
Ba Đình là đảo rộng nhất (0,6km2) trong quần đảo.

Bản đồ quần đảo Trường Sa(Nguồn: internet)
Quần đảo Trường Sa không chỉ là vị trí quân sự chiến lược án ngữ phía
Đông Nam nước ta, bảo vệ vùng biển và hải đảo ven bờ, mà còn là một vùng
có trữ lượng lớn photphat khá lớn, có nhiều loại có nhiều dầu.Việt Nam đang
có mặt và bảo vệ 21 đảo và bãi đá ngầm trên quần đảo Trường Sa.
Chủ quyền biển đảo

Cùng với các bộ phận lãnh thổ là: Vùng trời, vùng đất liền, biển đảo là
bộ phận không thể tách rời chủ quyền quốc gia. Trong bộ phận chủ quyền
biển đảo của quốc gia đó, các nước khác không được can thiệp. Bất cứ hành
động xâm phạm đến lãnh thổ trong đó có chủ quyền biển đảo đều là vi phạm
pháp luật của nước sở tại và các công ước quốc tế có liên quan.
1.1.2. Tuyên truyền
Theo một số tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền được nhà thờ
La Mã sử dụng nhằm mục đích thuyết phục, lôi kéo, phấn đấu theo đức tin
của Đạo Kito. Về sau, thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng một cách rộng rãi
nhằm biểu đạt các hoạt động cụ thể như: ngôn ngữ, hình ảnh, đạo cụ,... nhằm

13


tác động đến suy nghĩ, tư tưởng và tình cảm của người khác, hướng họ hành
động theo một khuynh hướng nhất định.
Theo tiếng Latinh Tuyên truyền (Propaganda) là truyền bá, truyền đạt
một quan điểm nào đó.
Trong tác phẩm “Người tuyên truyền và cách tuyên truyền”, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu,
dân nhớ, dân tin, dân làm” [Hồ Chí Minh (2002) Toàn tập, tập 5 NXB Chính
trị Quốc gia Hà Nội – tr.162].
Trong Giáo trình Nguyên lý công tác tư tưởng – tập 1 của Học viện Báo
chí và Tuyên truyền giải thích: “Thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng một cách
rộng rãi nằm biểu đạt nội dung bằng các hoạt động cụ thể (như ngôn ngữ, hình
ảnh, đạo cụ,…) nhằm tác động đến suy nghĩ, tư tưởng của người khác và hướng
họ đến một khuynh hướng nhất định” [Học viện Báo chí và Tuyên truyền, khoa
Tuyên truyền (2009) Nguyên lý công tác tư tưởng tập 1, tr.16].

Theo Từ điển tiếng Việt “Tuyên truyền là phổ biến, giải thích rộng rãi

để thuyết phục mọi người tán thành, ủng hộ làm theo [Hoàng Phê (2008), Từ
điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.1321]
Có nhiều khái niệm về tuyên truyền nhưng các khái niệm đều có điểm
chung về tuyên truyền, là:
Tuyên truyền là hoạt động truyền bá, phổ biến, giải thích của chủ thể về
tư tưởng, vấn đề,... cho đối tượng tuyên truyền.
Tuyên truyền được thực hiện nhằm làm thay đổi nhận thức và hành
động của đối tượng về tư tưởng, vấn đề nào đó.
Từ những khái niệm, phân tích như trên, có thể hiểu: Tuyên truyền là
hoạt động truyền bá, phổ biến về một tư tưởng, học thuyết hay vấn đề nào đó
tới đối tượng tuyên truyền nhằm mục đích phổ biến, tuyên truyền để đối
tượng ủng hộ hoặc làm theo.
14


Tuyên truyền biển đảo như sau: Tuyên truyền biển đảo là truyền bá, phổ
biến, giải thích những kiến thức, thông tin, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về biển đảo và chủ quyền biển đảo tới công chúng, nhân dân.

1.1.3. Báo chí
Báo chí được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm báo in, phát thanh, truyền
hình, báo mạng điện tử (“phát hành” trên mạng internet) và hãng thông tấn.
Báo chí theo nghĩa hẹp, là bao gồm báo, tạp chí và bản tin thời sự.
Trong cuốn “Báo chí thế giới và xu hướng phát triển”, tác giả Đinh Thị Thúy
Hằng trích dẫn ý kiến của Frank Morgan: “Báo chí như là một phương tiện truyền
tải kiến thức và là sự hội thoại của nền văn hóa của chúng ta mà trong đó các câu
chuyện được kể lại thông qua sự quan sát thế giới của các nhà báo [trang 37].

Nhóm tác giả Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia cho rằng: “Báo chí

là hiện tượng xã hội ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, lấy hiện thực khách
quan làm đối tượng phản ánh, thông tin trong báo chí là một quá trình liên tục
xuyên suốt trong mối quan hệ cuộc sống – nhà báo – tác phẩm – công chúng”.
Tác giả Nguyễn Văn Dững quan niệm: “Báo chí là hoạt động thông tin
giao tiếp xã hội trên quy mô rộng lớn, là công cụ và phương thức kết nối xã
hội hữu hiệu nhất, là công cụ và phương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất
trong mối quan hệ với công chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và các
nhóm lợi ích, với các nước trong khu vực và quốc tế…[tr.61].
Theo tác giả Đỗ Chí Nghĩa: “Báo chí là loại hình phương tiện truyền thông
đại chúng được cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoạt động, có nhiệm vụ chuyển
tải thông tin nhanh nhất nhằm tích cực hóa đời sống thực tiễn” [tr.23].

Qua các khái niệm trên có thể hiểu: Báo chí là phương tiện thông tin đại
chúng, chuyển tải thông tin về tất cả các lĩnh vực trong đời sống một cách
nhanh chóng, chính xác bằng ngôn ngữ hình ảnh, âm thanh, chữ viết.
15


1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tuyên truyền bảo vệ chủ
quyền biển đảo.
Đảng, Nhà nước ta khẳng định, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo
Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi công dân Việt Nam đối với lịch
sử dân tộc; là nhân tố quan trọng đảm bảo cho dân tộc ta phát triển bền vững.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Mục tiêu nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN…”. Đó là ý chí sắt đá, quyết tâm
không gì lay chuyển được của Đảng, Nhà nước, dân nhân ta.
Trong thời gian qua, trước những diễn biến khó lường, phức tạp, đa
dạng của tình hình khu vực, thế giới liên quan đến vấn đề chủ quyền quốc gia

nói chung và đấu tranh bảo vệ biển đảo nói riêng, đặc biệt là biến động tại khu
vực biển Đông, nhiệm vụ phòng thủ, tuyên truyền, bảo vệ an ninh Quốc
phòng, an ninh trên biển ngày càng được Đảng, Nhà nước ta coi trọng. Để
hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thỗ, đầu tiên là phải
không ngừng củng cố sức mạnh Quốc gia; xây dựng thế trận lòng dân, quốc
phòng toàn dân trên biển. Xác định được vai trò, tầm quan trọng của biển, đảo
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước ra rất coi trọng vấn đề tuyên truyền về biển, đảo.
Ngày 12/5/1977, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục
địa của Việt Nam.
Ngày 23/6/1994, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (khóa IX) đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Công
ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
16


Trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã triển khai nhiều hoạt động
nhằm duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ
chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển.
Để hạn chế các vụ việc vi phạm pháp luật trên biển, Việt Nam đã tham
gia tích cực việc triển khai Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông
(DOC), được các thành viên ASEAN và Trung Quốc ký ngày 4/11/2002, tham
gia Hội thảo khống chế xung đột tiềm tàng ở biển Đông do Inđônêxia chủ trì,
hợp tác với Philippin triển khai các dự án hợp tác nghiên cứu khoa học biển
Việt Nam – Philippin,...
Năm 2007, tại hội nghị Trung ương 4, khoá X đã ra nghị quyết 09 về
"chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020", trong đó xác định: "Phấn đấu đưa
nước ta thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc
chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng

trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh."
Điều này cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề biển,
đảo, tạo hành lang quan trọng để công tác tuyên truyền có điều kiện tập trung
sâu, có định hướng rõ ràng về vấn đề này. Tại hướng dẫn số 105 ngày
24/11/2014 của Ban tuyên giáo Trung ương về công tác tuyên truyền biển, đảo
năm 2014 đã nhấn mạnh một số yêu cầu trong công tác tuyên truyền biển đảo
như sau:
-

Tuyên truyền tạo sự thống nhất, đồng thuận trong cán bộ Đảng viên và

toàn xã hội đối với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về biển, đảo.
-

Công tác tuyên truyền cần đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành chặt chẽ,

thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương đến cơ sở; tăng cường tính chủ động,
kịp thời, chính xác trong việc cung cấp thông tin, sự phối hợp hiệu quả giữa

17


các lực lượng tuyên truyền và của cả hệ thống chính trị, nhất là đối với những
vấn đề phức tạp, nhạy cảm và các tình huống đột xuất.
-

Sử dụng hình thức tuyên truyền phù hợp với đối tượng cụ thể để

chuyển tải kịp thời tình hình biển đảo và các quan điểm lập trường của Việt

Nam đối với các vấn đề biển Đông tới các tầng lớp nhân dân...
Tuy nhiên, từ đầu năm 2007 đến nay, tình hình biển Đông diễn biến theo
chiều hướng phức tạp. Do vậy, trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước ta tiếp
tục theo dõi chặt chẽ tình hình, diễn biến trên biển Đông, kiên quyết bảo vệ
chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển, đồng thời tăng cường đàm phán, hợp
tác trên biển theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và
Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), giữ gìn hòa bình
và ổn định trên biển.
Ngoài những vấn đề liên quan đến chiến lược ưu tiên nguồn lực cho phát
triển kinh tế biển, đảo… thì việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền thể hiện rõ
trên các mặt:
Công tác tuyên truyền biển, đảo luôn bám sát thực tiễn tình hình, không
ngừng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyên truyền
phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng, đồng thời tận dụng có
hiệu quả các phương tiện kỹ thuật và chú trọng mở rộng phạm vi tuyên
truyền.
Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển đòi hỏi luôn cần
phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và các địa phương; phải có
sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương tới cơ sở về nội dung và phương
pháp tuyên truyền. Nội dung tuyên truyền phải đa dạng và phong phú trên các
phương tiện truyền thống để tất cả các tầng lớp nhân dân đều nắm bắt được
thông tin nhanh, chính xác, hiệu quả. Việc tuyên truyền phải được lồng ghép đa
dạng, linh hoạt giữa tuyên truyền trong nước và quốc tế, giữ các hoạt động đối

18


×