Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Chính sách đối ngoại của liên bang nga đối với ASEAN những năm đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.5 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

DƯƠNG TUẤN NGHĨA

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA ĐỐI
VỚI ASEAN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ MÃ
SỐ: 60.31.40

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Lịch

Hà Nội, 2010


MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết ……………………………………………………... 3
Danh mục các bảng biểu …………………………………………………… 5
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………… 6
CHƢƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA NGA ĐỐI VỚI ASEAN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ
KỶ XXI …..….............................................................................................. 12
1.1.

Bối cảnh quốc tế đầu thế kỷ XXI ……………………..………….. 12

1.2


Khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng đầu thế kỷ XXI ………....... 14

1.2.1 Quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
………………………………………………………….. ………………… 14
1.2.2 Sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ kinh tế quốc tế trong khu vực … 20
1.3.

Thực trạng ASEAN thập niên đầu thế kỷ XXI ………………….. 23

1.3.1 Những nhân tố thuận lợi ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của
ASEAN …………………………………………………………………….. 23
1.3.2 Những khó khăn và thách thức đối với ASEAN hiện nay……….…. 26
1.4.

Nƣớc Nga bƣớc vào thế kỷ XXI ………………………………….. 28

1.4.1 Đặc điểm, tình hình Liên bang Nga thập niên đầu thế kỷ XXI …….. 28
1.4.2 Sự phục hưng của nước Nga dưới thời tổng thống Putin …………... 33
CHƢƠNG 2: QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA VỚI
ASEAN ĐẦU THẾ KỶ XXI ……………………………………..…….. 37
2.1.

Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đầu thế kỷ XXI ...….... 37

2.1.1 Quan điểm mới về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga …….... 37
2.1.2 Liên bang Nga và định hướng tăng cường hợp tác với các nước ASEAN
và Đông Á …………………………………………...................... 41
2.2.

ASEAN trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga .……...... 44


2.2.1 ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế …. 44

-1-


2.2.2 Vị trí của ASEAN trong đường lối đối ngoại mới của Liên bang Nga
……………………………………………………………………………… 46
2.3. Sự triển khai chính sách đối ngoại của Nga với ASEAN trong thập
niên đầu thế kỷ XXI ...…… .…………………………………………….. 48
2.3.1 Quan hệ chính trị, an ninh và quân sự …………………………….... 48
2.3.2 Quan hệ kinh tế ……...……………………………………………... 54
2.3.3 Quan hệ về văn hóa - giáo dục ……………………………………... 65
CHƢƠNG 3: VAI TRÒ CỦA VIỆT NAM TRONG QUAN HỆ NGA ASEAN …………………………………………………………….……… 68
3.1.

Quan hệ truyền thống Việt Nam - Liên Xô / Liên bang Nga ….. 68

3.2.

Việt Nam trong tam giác quan hệ Nga - Việt Nam - ASEAN ...... 73

3.3.1 Vai trò ngày càng được nâng cao của Việt Nam trong ASEAN..….. . 73
3.2.2 Lợi thế của Việt Nam với vai trò là cầu nối trong quan hệ Nga -ASEAN
……………………………………………………………………………… 75
3.3. Tác động của quan hệ Nga - ASEAN đối với Việt Nam ………… 78
3.3.1 Tác động về chính trị - an ninh…………………………………….... 78
3.3.2 Tác động về kinh tế ………….…………………………………….. 80
3.3.3 Tác động về văn hóa ……………………………………………….. 84
KẾT LUẬN……………………………………………………………….. 87

Tài liệu tham khảo…………………………………………….………….. 91

-2-


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AEC

ASEAN Economic Community
Cộng đồng kinh tế ASEAN

AFTA

ASEAN Free Trade Area
Khu vực tự do thương mại ASEAN

AMM

ASEAN Ministerial Meeting
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN

APEC

Asia - Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

ARF

ASEAN Regional Forum

Diễn đàn khu vực ASEAN

ASC

ASEAN Security Community
Cộng đồng an ninh ASEAN

ASCC

ASEAN Socio - Cultural Community
Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN

CIS

Community of Independent States
Cộng đồng các quốc gia độc lập

EAEC

Europe - Asia Economic Community
Cộng đồng kinh tế Á - Âu

EAFTA

East Asian Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do Đông Á

EAS

East Asian Summit

Hội nghị thượng đỉnh Đông Á

EU

European Union
Liên minh Châu Âu

FDI

Foreign Direct Investment

-3-


Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA

Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do

NATO

North Atlantic Treaty Organization
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương

SCO

Shanghai Cooperation Organization
Tổ chức hợp tác Thượng Hải


TAC

Treaty of Amity & Cooperation in Southeast Asia

Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á
UN

United Nations
Liên Hiệp Quốc

WTO

World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới

-4-


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Một vài số liệu phát triển kinh tế Nga, giai đoạn 1997 -2006
Bảng 2.1: Thương mại dịch vụ giữa Nga và một số nước ASEANGiai đoạn 2002 -2005

-5-


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
Trải qua gần chục năm của chế độ ―hậu Xô viết‖ đầy khó khăn và loạn
lạc dưới thời của tổng thống Boris Yeltsin, một nước Nga mới vào đầu thế kỷ
XXI đã và đang trên con đường hồi phục và chờ đợi sự bùng nổ giấc mộng

cường quốc.
―Tự mình vượt qua‖ là từ chủ đề trong bước nhảy vọt mà nước Nga
đang thực hiện. Từ năm 2000, khi kinh tế nền kinh tế Nga bắt đầu được khôi
phục và tăng trưởng cho đến nay, quá trình vận hành của nền kinh tế Nga
tương đối tốt, với nhu cầu đầu tư và tiêu dùng trong nước tăng cao, tốc độ
tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) nhiều năm liên tục đạt 6% đến
7%, các khoản nợ nước ngoài bắt đầu giảm mạnh, tài chính bắt đầu có tích
lũy, tình hình suy thoái kinh tế không những đã thay đổi hoàn toàn mà nước
Nga đã quay trở lại hàng ngũ 10 nền kinh tế hàng đầu thế giới. Năm 2007 là
năm mà nước Nga hậu Xô Viết có quá trình phát triển kinh tế thuận lợi và
mạnh mẽ nhất, mức tăng trưởng kinh tế đạt mức kỷ lục 8.1%, dự trữ ngoại hối
và vàng của Nga đạt gần 500 tỷ USD. Tháng 7 năm 2007, trong báo cáo
―phương hướng phát triển lâu dài nền kinh tế xã hội quốc gia‖ do Bộ thương
mại và phát triển kinh tế Nga công bố đã đưa ra mục tiêu đến năm 2020 là
đưa nước Nga vươn lên trở thành một trong năm cường quốc kinh tế thế giới,
với GDP bình quân trên đầu người đạt 30.000 USD, đứng vào hàng ngũ
những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới.1
Từ năm 1996, Nga đã trở thành đối tác đối thoại đầy đủ của ASEAN,
–––––––––––––
1. [1, tr. 254 - 255]

-6-


và từ đó đến nay, quan hệ nhiều mặt giữa hai bên đã không ngừng được nâng
lên. Nhiều hiệp định và tuyên bố chung đã được hai bên ký kết , nổi bật là Hội
nghị thượng đỉnh lần đầu tiên giữa Nga và ASEAN diễn ra tại Kuala Lumpur
- Malaysia, năm 2005. Là một quốc gia có lãnh thổ trài dài trên hai Châu lục
Âu - Á, Nga ngày càng nhận thức được những lợi thế và bất lợi về địa chính
trị của mình. Nước Nga sẽ chỉ có thể thành công trong quá trình trở lại vai trò

cường quốc khu vực và thế giới và đảm bảo tốt hơn lợi ích quốc gia khi cân
bằng các mối quan hệ với cả phương Tây, phương Đông và phương Nam,
không quá nghiêng về hoặc xem nhẹ hướng nào. ―Không thể có sự phát
triển chính sách đối ngoại của Nga sang phía Đông, đó là điều không logic.
Một đất nước như nước Nga không thể định hướng sang phương Đông,
phương Tây, phương Nam hay phương Bắc. Điều đó đi ngược lại lợi ích dân
tộc của chúng ta. Nước Nga có chính sách đa phương và chính sách này sẽ
được duy trì‖ 1. Qua nội dung phát biểu trên có thể thấy, Nga sẽ thực hiện một
chiến lược đối ngoại cân bằng, đa phương và độc lập trong dài hạn và bao
gồm những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Đông Nam Á là một bộ phận của Châu Á - Thái Bình Dương, nơi có vị
trí địa chiến lược trong quan hệ quốc tế. Do vậy, Nga coi việc phát triển quan
hệ và xây dựng chính sách đối ngoại rộng mở với ASEAN, phù hợp với tiềm
năng và lợi ích của mỗi bên là một trong những hướng ưu tiên trong chiến
lược đối ngoại chung của nước Nga trong thế kỷ mới. Mối quan tâm của Nga
đối với ASEAN không chỉ vì quyền lợi kinh tế mà còn góp phần bảo đảm an
ninh của Nga và không những thế, khối ASEAN không chỉ có vị trí quan
trọng trên bàn cờ địa chính trị thế giới, nhất là sự tranh giành ảnh hưởng và
quyền lực giữa các nước lớn mà còn là một nhóm nước có nền kinh tế phát
triển năng động, đang đóng góp vai trò chủ đạo trong các nỗ lực hợp tác và
–––––––––––––––
1. [18, tr.56]

-7-


liên kết khu vực, nhất là ở Đông Á, nơi gần gũi với vùng Viễn Đông của nước
Nga rộng lớn. Việc phát triển và xây dựng mối quan hệ toàn diện giữa Nga và
các nước ASEAN sẽ phát huy được các lợi thế rất to lớn của mỗi bên, vì lợi
ích của cả Nga và các nước ASEAN, đóng góp vào hòa bình, thịnh vượng,

hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ―Chính sách đối ngoại của Liên bang
Nga đối với ASEAN những năm đầu thế kỷ XXI‖ nhằm nêu lên những nội
dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Nga đối với ASEAN, chủ yếu
trong giai đoạn cầm quyền của tổng thống V. Putin (2000-2008), cũng như
những định hướng trong chính sách đối ngoại của Nga đối với khu vực này
trong những năm tiếp theo. Thông qua việc tìm hiểu chính sách đối ngoại của
Nga với ASEAN sẽ làm nổi bật những cơ hội và thách thức của chính sách ấy,
cũng như triển vọng của mối quan hệ Nga - ASEAN và lợi ích của mỗi bên
trong quá trình thực hiện các chính sách, nhằm phục vụ thiết thực cho những
mục tiêu chính trị và kinh tế của mỗi bên, đồng thời góp phần tăng cường tình
hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Nga và nhân dân các nước
ASEAN.
Việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Nga với ASEAN trong
những năm đầu thế kỷ XXI mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc, sẽ
góp phần thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi giữa hai bên Nga - một đất nước rất
giàu tiềm năng và ASEAN, thuộc Đông Nam Á - một trong những khu vực
phát triển năng động nhất trên thế giới và có vị trí địa - chính trị rất quan
trọng tại Châu Á - Thái Bình Dương.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các vấn đề có liên quan đến chính sách đối ngoại của Nga đối với tổ
chức ASEAN cho đến nay vẫn là chủ đề còn khá mới mẻ. Hầu hết các đề tài

-8-


và công trình nghiên cứu viết về Nga trong mối quan hệ với khu vực Đông
Nam Á mà ASEAN là đại diện chủ yếu đã tập trung vào phân tích thực trạng
và những dấu mốc trong quan hệ giữa hai bên trong giai đoạn từ năm 1991
đến năm 2005 bên cạnh những định hướng và giải pháp phát triển mối quan

hệ đó. Tiêu biểu trong các công trình và đề tài nghiên cứu về Nga và ASEAN
là cuốn ―Quan hệ Nga - ASEAN những thập niên đầu thế kỷ XXI‖ của tập thể
tác giả do PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn làm chủ biên (Nxb. Khoa học xã hội
-

Hà Nội, 2008). Ngoài ra, còn một số nghiên cứu khác về Nga và ASEAN

như cuốn ―Quan hệ Nga - ASEAN trong bối cảnh quốc tế mới‖ của tác giả
Nguyễn Quang Thuấn (Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2007) cùng một số tài
liệu trên các tạp chí khác như Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, tài liệu tham khảo
của Thông tấn xã Việt Nam và các tài liệu đang có trên Internet. Những
nghiên cứu trên hầu hết là có phạm vi nghiên cứu rất rộng và bao quát rất
nhiều nhũng vấn đề có liên quan đến Nga và ASEAN hoặc là rất khái quát về
một khía cạnh nào đó trong mối quan hệ, chưa đi vào nghiên cứu chuyên về
chính sách đối ngoại của Nga với ASEAN giai đoạn 2000 -2008, cũng như
thực trạng, triển vọng và tác động của chính ách ấy trong tam giác quan hệ
Nga - ASEAN - Việt Nam. Do vậy, với các nội dung được đề cập ở đề tài này,
hy vọng sẽ là nguồn bổ sung rất nhỏ bé, góp phần làm phong phú thêm những
thông tin về chính sách đối ngoại của Nga đối với tổ chức ASEAN trong giai
đoạn đầy biến động của tình hình thế giới đầu thế kỷ XXI.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
Nước Nga, giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2008 và chính sách đối
ngoại của Nga đối với ASEAN, với tư cách là một đối tác có ảnh hưởng và
quyền lợi về chính trị và kinh tế tại khu vực Đông Nam Á.

-9-


Khu vực Đông Nam Á mà đại diện là Hiệp hội các nước Đông Nam Á

(ASEAN), là đối tác tiềm năng của Liên bang Nga trên bước đường tăng
cường ảnh hưởng tại khu vực cũng như tìm kiếm các lợi ích thông qua quá
trình xây dựng và phát triển các mối quan hệ hợp tác giữa hai bên.
Phạm vi nghiên cứu về không gian là Liên bang Nga cùng với khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương. Trong đó, trọng tâm là Đông Nam Á và trong
phạm vi thời gian được tập trung vào giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2008.

4.

Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với sự tham khảo các nguồn tài liệu là các loại

sách, tạp chí, tài liệu chuyên khảo, các trang web có uy tín trên mạng Internet
và các bài viết đi trước. Tuy nhiên, còn một số tài liệu quan trọng khác, mà do
điều kiện khách quan, tác giả đề tài chưa thể tiếp cận được.
Đề tài này cũng được thực hiện dựa trên việc vận dụng các phương
pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế như phương pháp lịch sử, phương pháp
thống kê và so sánh…

5.

Cấu trúc của luận văn
Đề tài ―Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với ASEAN

những năm đầu thế kỷ XXI‖ được cấu trúc thành ba phần, với các nội dung
chính sau đây:
Chương thứ nhất: Những nhân tố ảnh hƣởng đến chính sách đối
ngoại của Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI. Phần này trình bày
khái quát bối cảnh quốc tế đầu thế kỷ XXI về chính trị và kinh tế, phạm vi
không gian là khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông

Nam Á mà đại diện là tổ chức ASEAN và thực trạng của tổ chức này trong

-10-


những năm đầu thế kỷ mới. Phân tích những nhân tố thuận lợi và một số khó
khăn, thách thức có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của ASEAN trong
giai đoạn trên. Ngoài ra, chương này cũng nêu lên đặc điểm, tình hình của
nước Nga qua sự hồi phục và phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 2000 2008, một giai đoạn mới với nhiều thay đổi quan trọng của nước Nga nói
chung, cũng như chính sách đối ngoại của nước Nga nói riêng.
Chương thứ hai: Quan hệ đối ngoại của Liên bang Nga với ASEAN
đầu thế kỷ XXI. Nội dung phần này tập trung vào chính sách đối ngoại của
Nga những năm đầu thế kỷ XXI, trong đó có quan điểm mới về chính sách
đối ngoại đa phương của Nga, với phương hướng tăng cường hợp tác với
Đông Á và các nước ASEAN. Chương này cũng đề cập đến vị trí, vai trò của
ASEAN trong chính sách đối ngoại của Nga và những dấu mốc, sự kiện quan
trọng trong mối quan hệ hợp tác đa dạng về nhiều mặt và đang ngày càng phát
triển sâu rộng giữa Nga với một số nước ASEAN tiêu biểu.
Chương thứ ba: Vai trò của Việt Nam trong quan hệ Nga - ASEAN.
Phần này nêu lên các nội dung về mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa
Việt Nam và Liên bang Nga. Phân tích vai trò và những đóng góp của Việt
Nam trong tổ chức ASEAN cùng với các lợi thế của Việt Nam qua việc thể
hiện vai trò là cầu nối trong tam giác quan hệ Nga - ASEAN - Việt Nam.
Đồng thời, thông qua mối quan hệ giữa Nga với ASEAN trong thời gian qua,
nêu lên một số tác động đối với Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, an ninh,
kinh tế và văn hóa.

-11-



CHƢƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA NGA ĐỐI VỚI ASEAN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI.
1.1 . Bối cảnh quốc tế đầu thế kỷ XXI:
Thời điểm chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX
có thể được coi là cột mốc đánh dấu sự thay đổi về chất của môi trường quan
hệ quốc tế. Sau sự tan rã của Liên bang Xô viết, trật tự thế giới hai cực đã bị
thay đổi và nước Mỹ ở vào vị trí siêu cường duy nhất. Ở góc độ quốc gia, Mỹ
chủ trương duy trì một nền địa - chính trị đơn cực do Mỹ làm bá quyền. Các
cường quốc khác, đặc biệt là Nga và Trung Quốc thì chủ trương xây dựng một
thế giới đa cực và phản đối tư tưởng bá quyền của Mỹ. Từ đầu thế kỷ XXI,
ngoài sự thay đổi về địa - chính trị, môi trường địa - kinh tế thế giới cũng có
nhiều biến chuyển rõ nét, nổi bật là sự trỗi dậy của Trung Quốc và người ta
cũng nói nhiều đến ―kỷ nguyên Châu Á‖ với khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương sẽ vươn lên dẫn đầu nền kinh tế thế giới trong thế kỷ XXI và cuộc
cạnh tranh về địa - kinh tế này cũng kèm theo những vấn đề về an ninh tại
khu vực.
Đầu thế kỷ XXI, thế giới tiếp tục chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của
xu thế toàn cầu hóa, là xu hướng phát triển chủ yếu của thế giới trong những
thập niên đầu của thế kỷ XXI. Đặc trưng của xu hướng này là sự phụ thuộc
kinh tế ngày càng tăng giữa các nước trên thế giới do quy mô và sự đa dạng
ngày càng tăng của các luồng hàng hóa, dịch vụ và vốn xuyên quốc gia cùng
với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ. Điều quan trọng là
sự gia tăng về lượng mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau đó của các quốc gia lại
diễn ra đồng thời với sự xuất hiện một chất lượng mới của các quan hệ kinh tế
quốc tế. Thế giới đang dần trở thành một cộng đồng thống nhất, trong đó các

-12-



quốc gia dân tộc là những nhân tố cấu thành của một cơ cấu toàn cầu thống
nhất.
Có thể nói rằng, đặc điểm bao trùm của quan hệ quốc tế sau khi chiến
tranh lạnh kết thúc cũng như những năm đầu của thế kỷ mới là sự nổi trội của
xu thế hòa bình, hợp tác phát triển cùng có lợi và chung sức giải quyết các
vấn đề có tính toàn cầu, xu thế này được quyết định bởi lợi ích chung và sự
đan xen lợi ích giữa các quốc gia, các khu vực trong bối cảnh tương đối hòa
bình. Các tổ chức quốc tế và khu vực đều có cơ hội củng cố và mở rộng phát
triển bên cạnh sự hình thành hàng loạt các tổ chức khu vực và liên kết khu
vực mới. Chính sự củng cố các thiết chế đang tồn tại và việc thiết lập các cơ
cấu hợp tác mới đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự thúc đẩy quan hệ hợp
tác cùng có lợi ngày càng được tăng cường. Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế
hiện nay, thế giới không chỉ chứng kiến xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển
mà còn đối mặt với những vấn đề mới nẩy sinh tạo ra những thách thức cho
các thiết chế hợp tác quốc tế như Liên Hiệp Quốc và một số tổ chức quốc tế
khác cũng như cho quan hệ giữa các quốc gia. Sau sự kiện 11 tháng 9 năm
2001 ở nước Mỹ, nguy cơ chủ nghĩa khủng bố trở thành mối hiểm họa đe dọa
hầu hết các quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh đó, nước Mỹ đã phát động cuộc
chiến ở Afghanistan và Iraq. Hoạt động khủng bố đã không chỉ xảy ra ở Mỹ
và các đồng minh Châu Âu của Mỹ mà ngay tại khu vực Đông Nam Á, hơn
200 khách du lịch tại đảo Bali - Indonesia đã bị giết hại do khủng bố năm
2002, sự rối loạn và xung đột đẫm máu do các lực lượng ly khai gây ra ở
miền Nam Thailand, bọn khủng bố trỗi dậy ở Philippines, Liên bang Nga…
Chủ nghĩa khủng bố hiện là mối đe dọa lớn đối với nhân loại trong thập
niên đầu của thế kỷ XXI. Sự phức tạp của các quan hệ quốc tế trong bối cảnh
mới và xu hướng ly khai, mâu thuẫn sắc tộc… làm cho nguy cơ khủng bố
luôn thường trực trong cuộc sống hàng ngày với khả năng tinh vi hơn, nguy
hiểm hơn. Bên cạnh chủ nghĩa khủng bố, nguy cơ phổ biến vũ khí giết người

-13-



hàng loạt trước hết là vũ khí hạt nhân, cũng đang là vấn đề đe dọa an ninh
quốc tế, vấn đề được đặc biệt quan tâm và gây lo ngại là nguy cơ các loại vũ
khí này rơi vào tay các lực lượng khủng bố. Ngoài ra, có thể thấy còn hàng
loạt các vấn đề nẩy sinh từ các thách thức an ninh phi truyền thống như buôn
bán ma túy, rửa tiền, tội phạm xuyên quốc gia, buôn bán phụ nữ và trẻ em…
Những vấn đề có tính thách thức toàn cầu này đang kéo các quốc gia lại với
nhau trong quan hệ hợp tác ngày càng mở rộng bởi vì trong bối cảnh quốc tế
hiện nay không một quốc gia nào, kể cả siêu cường Mỹ có thể đơn độc giải
quyết được.
1.2. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng đầu thế kỷ XXI
1.2.1 Quan hệ giữa các nƣớc lớn trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dƣơng:
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á mang
những đặc điểm của bối cảnh chung nhưng với những nét đậm nhạt khác biệt
nhau. Điều đó được quyết định bởi tính đặc thù của khu vực mà có thể mô tả
một cách vắn tắt Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực đa dạng về văn hóa
và chính trị, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và phát triển năng động nhất
thế giới, có sự hội tụ gần đủ các nước lớn của thế giới, quan hệ với nhau trong
lợi ích đan xen, vừa hợp tác vừa cạnh tranh và kiềm chế nhau.
Châu Á - Thái Bình Dương bao gồm các quốc gia và vùng lãnh thổ
nằm trong lòng chảo Thái Bình Dương, là khu vực mang những đặc thù khác
hẳn Châu Âu. Trước hết là sự đa dạng về văn hóa và chế độ chính trị, là nơi
văn hoá Đông Tây gặp gỡ giao thoa, các tôn giáo từ Phật giáo, Nho giáo đến
Hồi giáo, Thiên Chúa giáo và đạo Tin lành… cùng tồn tại. Thể chế chính trị
tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa một thời đối nghịch nhau trong chiến

-14-



tranh lạnh nay vẫn song hành trong khu vực. Khu vực này tập trung các nước
lớn, gồm Hoa Kỳ, Nga và Trung Quốc, là ba trong số năm Ủy viên thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra, còn có các nền kinh tế
lớn nằm trong G7 như Nhật Bản và Canada. Đây cũng là khu vực với các nền
kinh tế có mức tăng trưởng cao tạo nên sự năng động vào bậc nhất thế giới.
Các nền kinh tế có quy mô nhất, nhì và thứ ba thế giới đều tập trung ở khu
vực này.
Tính đa dạng và nhiều chiều của các mối quan hệ giữa các nước lớn
trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương dường như đang là những yếu tố
quyết định bầu không khí quốc tế của khu vực kể từ thời kỳ sau chiến tranh
lạnh đến nay. Đối với Hoa Kỳ, các báo cáo chiến lược an ninh quốc gia đều
nêu lên mục tiêu giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của siêu cường duy
nhất với việc gắn với các mục tiêu cụ thể như: lợi ích kinh tế, bảo đảm an
ninh cho chính Hoa Kỳ cũng như các đồng minh thân thiết của Hoa Kỳ và
phổ biến các giá trị Mỹ theo chiều hướng bá quyền, kết hợp chống chủ nghĩa
khủng bố với việc ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân và trừng trị ―các quốc
gia không lương thiện‖. Chiến lược của Hoa Kỳ hiện nay cũng có thêm những
điểm mới, trong đó nhấn mạnh việc hành động có lựa chọn và chia sẻ trách
nhiệm với các đồng minh, coi trọng hợp tác song phương và đa phương. Hoa
Kỳ đã phải nói đến việc không tìm kiếm ―một nền hòa bình do Mỹ thống trị‖
mà theo đuổi ―sự thống trị rộng rãi‖ và cùng chia sẻ trách nhiệm. Chiến lược
này vừa phản ảnh tính thực dụng, vừa nói lên sự suy yếu tương đối trong
tương quan sức mạnh giữa Mỹ và các nước lớn. Sau sự kiện 11/9, trước sự gia
tăng của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, Mỹ tăng cường thực hiện ý
tưởng đơn cực (lấy NATO và quan hệ đồng minh Mỹ - Nhật làm nền tảng).
Tuy nhiên, ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do đặc thù của các quan hệ
hợp tác cạnh tranh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa Mỹ không thể
thực hiện ý tưởng đơn cực một cách cứng nhắc mà phải có sự điều chỉnh theo


-15-


hướng chú trọng đến chủ nghĩa đa phương. Vì vậy, chính sách Châu Á - Thái
Bình Dương của Mỹ mang đặc điểm cùng coi trọng chủ trương đơn phương
và đa phương trong việc ngăn ngừa các đe dọa đến an ninh khu vực làm tổn
hại đến lợi ích chiến lược của Mỹ.
Mối quan hệ giữa Mỹ và Nga đã trở nên gắn bó hơn sau sự kiện 11/9
nhưng sau đó đã dần dần trở nên nhạt đi, khi Nga càng ngày càng nhận thấy
Mỹ đã lợi dụng địa vị siêu cường và mượn cớ chống khủng bố để áp đặt quan
điểm trong xử lý các quan hệ quốc tế. Nga đã đồng tình và hỗ trợ Mỹ rất tích
cực trong cuộc chiến chống khủng bố. Khi Mỹ phát động cuộc chiến tiêu diệt
Al Qaeda ở Afghanistan, Nga đã sử dụng ảnh hưởng của mình để thuyết phục
một số nước thuộc Liên bang Xô viết trước đây cho phép Mỹ và đồng minh
lập căn cứ quân sự chống khủng bố. Tuy nhiên, kể từ khi chính quyền Bush
xâm lược Iraq (tháng 3/2003) và thi hành chính sách đơn phương mang tính
áp đặt với Nga và một số nước khác thì Nga đã không còn hậu thuẫn Mỹ như
ban đầu. Lợi ích của Nga và Mỹ đã không còn trùng hợp và bắt đầu có những
va chạm dẫn đến những quan điểm khác biệt về cuộc chiến Iraq, xung đột tại
Trung Đông, về Lebanon và quan hệ với Syria, vấn đề hạt nhân của Iran…
Thái độ hai mặt của Mỹ đối với bọn khủng bố ở Cộng hòa Chechnya và sự
can thiệp vào các sự kiện ở các nước láng giềng của Nga trong Cộng đồng các
quốc gia độc lập (CIS) đã và đang làm cho quan hệ Nga - Mỹ không còn êm ả
như trước. Mặc dù quan hệ Nga - Mỹ đang diễn biến phức tạp, tùy thuộc vào
quan hệ lợi ích chiến lược quốc gia của mỗi bên và mục tiêu kiềm chế có tính
chiến lược của Nga và Mỹ, nhưng điều đó cũng không cản trở hai bên hợp tác
phát triển ở những nơi, những lĩnh vực có lợi ích song trùng, đặc điểm trên là
minh họa cụ thể nhất để giải thích về sự gắn kết trong quan hệ giữa Nga - Mỹ.
Tuy nhiên, ta cũng cần thấy rằng giữa hai cường quốc này hiện nay không
những chưa có mối quan hệ chiến lược chặt chẽ mà trên thực tế còn không có

được sự tin cậy lâu dài. Vì thế, đối với Mỹ thì một nước Nga suy yếu nhưng

-16-


không hỗn loạn là phù hợp hơn với lợi ích quốc gia của Mỹ. Đối với nước
Nga, sẽ tận dụng mọi khả năng để ưu tiên cho phát triển kinh tế, lấy sức mạnh
thực chất về kinh tế và quân sự để khẳng định mình, đó là mục tiêu chiến lược
và mang ý nghĩa quan trọng nhất.
Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã và đang thay đổi theo
hướng được phát triển dần theo từng mức độ, từ không ổn định đến ổn định,
từ nghi kỵ đến tin cậy hơn và Mỹ cũng đã khẳng định vị trí quan trọng của
Trung Quốc trong định hướng chiến lược của mình. Kinh tế là lĩnh vực ảnh
hưởng lớn nhất đến quan hệ giữa hai nước. Trung Quốc đã đầu tư một nguồn
vốn khổng lồ vào các loại chứng khoán tại Mỹ, đặc biệt là trái phiếu chính
phủ Mỹ. Tính đến tháng 9/2009, Trung Quốc đã đầu tư 797,1 tỷ USD vào trái
phiếu chính phủ của Mỹ 1. Đầu tư nước ngoài của Mỹ vào Trung Quốc cũng
đứng hàng đầu trong danh sách các nước đầu tư vào Trung Quốc, thị trường
Trung Quốc có quy mô lớn nhất thế giới với nhu cầu tiêu dùng tăng trưởng rất
mạnh còn thị trường Mỹ là một trong những thị trường tiêu thụ chủ yếu của
hàng hóa Trung Quốc. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Mỹ và
Trung Quốc năm 2009 là 409 tỷ USD 2. Tuy nhiên, trong quan hệ nhiều mặt
giữa hai nước, luôn luôn có những va chạm trên các lĩnh vực do Mỹ một mặt
hoan nghênh sự lớn mạnh kinh tế của Trung Quốc, nhưng mặt khác lại dấy
lên làn sóng về ―mối đe dọa từ Trung Quốc‖. Nhìn chung, trong quan hệ giữa
hai bên luôn có những làn sóng ngầm do Mỹ luôn theo đuổi chính sách vừa
hợp tác nhưng vừa kiềm chế, làm chậm sự vươn lên của Trung Quốc mà Mỹ
nhận định rằng điều đó có thể đe dọa sự độc tôn của Mỹ trong quan hệ quốc
tế. Mặc dù vậy, thực lực và sức mạnh của Trung Quốc ngày càng gia tăng và
sự phụ thuộc của kinh tế Mỹ vào thị trường Trung Quốc ngày càng lớn nên

–––––––––––––
1. .Tài chính. Ngày 26/3/2009.
2. www.tuanvietnam.net. Mỹ - Trung luẩn quẩn tranh chấp thương mại; Bài dịch từ Washington
Post. Ngày 19/1/2010.

-17-


Mỹ vẫn phải chú trọng hợp tác và dựa vào vai trò đang lên của Trung Quốc
trong việc giải quyết một số vấn đề quốc tế như vấn đề hạt nhân của Triều
Tiên và Iran, cuộc chiến tiêu diệt Taliban ở Afghanistan… Hiện nay, Trung
Quốc một mặt tập trung chiến lược đối ngoại phát triển kinh tế nhưng mặt
khác cũng đang tính đến chiến lược xa hơn cho vị thế của mình trên trường
quốc tế. Trung Quốc đang theo đuổi tham vọng rất lớn là trở thành siêu cường
số một thế giới, thay thế cho vị trí của Mỹ hiện nay. Mỹ hiện là đối tác thương
mại lớn thứ hai của Trung Quốc, sau Liên minh Châu Âu (EU) và vị trí này sẽ
khó có thể thay đổi trong tương lai. Do vậy, không có lý do gì để Mỹ và
Trung Quốc mâu thuẫn đến mức gây phương hại đến lợi ích quốc gia của mỗi
bên, trong khi sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai bên ngày càng tăng. Quan hệ
Mỹ - Trung luôn tồn tại những tranh chấp, mâu thuẫn nhưng chung quy lại
trong những thập niên tới vẫn là xu hướng hòa giải, nhượng bộ lẫn nhau để
cùng phát triển.
Quan hệ Mỹ - Nhật là mối quan hệ đặc biệt của khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương. Do những yếu tố lịch sử, bước sang thế kỷ XXI, quan hệ Mỹ Nhật
vẫn là mối quan hệ giữa hai đồng minh chiến lược. Nước Nhật là một trong ba
cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới và đang thực hiện các bước đi trong việc
tìm kiếm chiếc ghế Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Liên
minh với Mỹ được coi là ―hòn đá tảng‖ trong chính sách đối ngoại của Nhật
trong mấy chục năm qua, mọi động thái trong chính sách đối ngoại của Nhật đều
dựa trên nền tảng là quan hệ Nhật - Mỹ. Đây là mối quan hệ khá toàn diện trên

hầu hết các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao đến an ninh, khoa học công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực… Theo đánh giá của cả Mỹ và Nhật, tình hình
thế giới và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương sau chiến tranh lạnh và những
năm đầu thế kỷ XXI vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột và sự hiện diện về
quân sự của Mỹ ở Đông Á (lính Mỹ hiện đang đồn trú tại Nhật và Hàn Quốc) là
cần thiết để duy trì an ninh và ổn định ở khu

-18-


vực này, sự ổn định của khu vực và lợi ích của Nhật sẽ không được bảo vệ
nếu thiếu yếu tố Mỹ. Trong các cuộc tiếp xúc song phương, lãnh đạo hai nước
đều cho rằng cần phải cải tổ và củng cố hợp tác an ninh Nhật - Mỹ. Sự khác
biệt về quan điểm phòng thủ của Mỹ, Nhật, Hàn Quốc với Trung Quốc, Cộng
hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên… trong đó có vấn đề nhận thức nguy cơ đe
dọa an ninh đến từ đâu, vấn đề hạt nhân của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên, vấn đề tranh chấp lãnh thổ và vùng đặc quyền kinh tế trên biển…đang
được coi là nhân tố ẩn chứa nguy cơ làm mất ổn định khu vực Đông Á. Các
nước đều nhận thức được rằng nếu Nhật, Mỹ và các nước liên quan không
thỏa thuận được một phương thức giải quyết thích hợp thì nguy cơ bùng nổ
xung đột là hoàn toàn có thể xảy ra. Đây chính là cơ sở để Mỹ và Nhật gia
tăng các hoạt động phối hợp trong chính sách an ninh. Tuy vậy nhưng hiện
nay Nhật cũng đang tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại và đã ngày
càng tỏ ra độc lập và chủ động hơn trong các trong các quan hệ quốc tế.
Chính sách đối ngoại của Nhật đã giảm sự lệ thuộc vào Mỹ và nước Nhật
cũng đang muốn thay đổi hình ảnh ―nước lớn kinh tế, nước nhỏ chính trị‖
qua việc theo đuổi chính sách tự chủ và chủ động trong việc xây dựng môi
trường an ninh quốc tế, từ đó mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Nhật trên các
mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao.
Tóm lại, sự phát triển đa cực hóa ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

đầu tế kỷ XXI đã thúc đẩy và tăng cường xu hướng hòa bình hợp tác của khu
vực và thế giới. Xu thế đa cực ở khu vực này đã tạo ra bối cảnh chính trị
tương đối ổn định với sự cân bằng tương đối trong quan hệ giữa các nước lớn
như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Nga. Trong vòng một hai thập niên tới đây, khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông Á và Đông Nam Á sẽ tiếp
tục là khu vực phát triển năng động, song tình hình chính trị, kinh tế, an ninh
cũng diễn ra rất phức tạp và khó lường vì khu vực này vẫn còn tồn tại nhiều
nguy cơ có thể dẫn đến xung đột. Các tiến trình hợp tác, giải quyết tranh chấp

-19-


đã biến chuyển trên nhiều tuyến, theo hướng vừa hội nhập vừa tranh giành
ảnh hưởng theo cách tiếp cận lợi ích riêng biệt của từng quốc gia. Tuy nhiên,
có thể dự báo được những đặc điểm chủ yếu của quan hệ quốc tế giữa các
nước lớn trong khu vực trong vòng hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI như sau:
Một là, quan hệ giữa các nước lớn ổn định với xu thế nổi trội là hòa bình hợp
tác nhưng đi kèm là sự cạnh tranh gay gắt. Hai là, quan hệ kinh tế ngày càng
được tăng cường, đặc biệt là sự canh tranh gay gắt về khai thác các nguồn tài
nguyên chiến lược, trước hết là năng lượng. Ba là, do lợi ích và sự quan tâm
chiến lược khác nhau đã hình thành sự tập hợp theo các nhóm lợi ích khác
nhau tạo nên các mối quan hệ theo nhóm đa dạng và linh hoạt. Bốn là, các
nước lớn ngày càng coi trọng vai trò của các thiết chế đa phương trong việc
giải quyết các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống. Bối cảnh
chính trị quốc tế tuy có bị xen vào những khác biệt giữa các lợi ích quốc gia dân tộc, đặc biệt của các nước lớn, sẽ tạo ra khả năng xảy ra mâu thuẫn nhưng
ít có khả năng hình thành các liên minh chống lại nhau. 1
1.2.2 Sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ kinh tế quốc tế trong khu vực:
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực tập trung nhiều nền
kinh tế lớn của thế giới, tiêu biểu là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và nhóm các
nước ASEAN. Từ thập niên 90 của thế kỷ trước và những năm đầu của thế kỷ

XXI, cùng với xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa, quan hệ kinh tế trong khu
vực đang phát triển rất mạnh mẽ.
Xu hướng tăng cường quan hệ kinh tế của các nước trong khu vực lòng
chảo Thái Bình Dương càng được khẳng định sau sự ra đời của Diễn đàn hợp
tác Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào năm 1989. Năm 1994, tại Bogor
––––––––––––––
1. [17, tr. 34 -35]

-20-


(Indonesia) các lãnh đạo APEC đã ủng hộ một tầm nhìn với nhiều tham vọng
là thực hiện thương mại tự do và mở cửa từ năm 2010 đối với các thành viên
đã công nghiệp hóa và từ năm 2020 đối với các thành viên là các nước đang
phát triển. Từ đó đến nay, tăng trưởng hàng hóa nội khối hàng năm đã tăng
gấp 5 lần, đạt 8,44 nghìn tỷ USD vào năm 2007, với mức tăng trung bình
8,5%/năm, trong khi mức tăng của thế giới là 7,6%/năm, và đây cũng là thành
tựu của APEC sau 20 năm tồn tại và phát triển, chứng tỏ rằng quá trình hội
nhập cùng với hợp tác kinh tế khu vực đang diễn ra mạnh mẽ và đầy triển
vọng. APEC đang dần chuyển mình thành một khu vực thương mại tự do.
Xu thế phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế của thế giới nói chung và
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói riêng sẽ là xu thế tự do hóa thương
mại. Việc các nước thương thảo rồi ký kết các hiệp định thương mại tự do
(FTA) đang nở rộ hiện nay. Đi đầu trong hoạt động này là các nước Đông Á,
không chỉ có các hiệp định thương mại tự do giữa các nước giàu hoặc các
nước đang phát triển với nhau mà giữa các nước giàu và nước nghèo cũng
xây dựng hiệp định thương mại song phương. Việc tìm kiếm các FTA hiện
nay đang đẩy nhiều nước vào thế lo sợ bị chậm chân, khiến họ tăng cường tìm
kiếm đối tác và đàm phán để ký kết mặc dù có khi chưa nhận biết được đầy
đủ các lợi ích và những vấn đề mà FTA mang lại.

Mỹ và Trung Quốc là hai đối tác ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển
kinh tế của khu vực. Do đó, các nước này sẽ là mối quan tâm đặc biệt của tất
cả các nước trong tính toán điều chỉnh chiến lược phát triển. Đặc biệt trong
những năm gần đây, Mỹ đã tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng và kinh tế
với ASEAN, thương mại giữa Mỹ và ASEAN đã tăng từ 13 tỷ USD năm 2003
lên 154 tỷ USD năm 2005. Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ và đang tranh giành
ảnh hưởng ở khu vực này. Năm 2004, Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn
thứ tư của ASEAN với kim ngạch thương mại đạt 106 tỷ USD và năm 2005
đã tăng lên 113,3 tỷ USD. Các mối liên kết kinh tế và quan hệ

-21-


thương mại song phương và đa phương trong khu vực ngày càng mạnh mẽ.
Đặc biệt, tại khu vực Đông Á, bao gồm cả Đông Bắc Á và Đông Nam Á,
trong tương lai, khả năng hình thành khu vực mậu dịch tự do toàn Đông Á là
khá rõ nên có thể dẫn đến nguy cơ giảm thiểu vai trò của ASEAN trong hợp
tác khu vực.
Vì thế, trước sự thay đổi của bối cảnh quốc tế, các nước trong khu vực,
nhất là các nước phát triển và các nước lớn đang có sự điều chỉnh chiến lược
đối ngoại, đem lại mối quan tâm sâu sắc cho tất cả các nước trong khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương qua một số các đặc điểm sau:
Một là, Mỹ là quốc gia đã và đang chứng tỏ được tầm ảnh hưởng chính
sách to lớn của mình đối với mọi diễn biến trong khu vực, đặc biệt là trong
hợp tác kinh tế và an ninh quốc phòng, từ việc hợp tác chống khủng bố đến
việc đưa tư tưởng tự do dân chủ kiểu Mỹ và nền kinh tế thị trường ra toàn thế
giới, vừa chứng tỏ tham vọng của Mỹ và cũng chứng tỏ khả năng mang lại lợi
ích cho các đối tác của Mỹ.
Hai là, đối với Trung Quốc, một cường quốc khu vực đang trên con
đường trở thành cường quốc thế giới, với tầm ảnh hưởng về kinh tế và quân

sự đang gia tăng mạnh mẽ đã chứng tỏ được vai trò ngày càng quan trọng
trong các vấn đề quốc tế, nhất là trong các vấn đề liên quan đến kinh tế
thương mại trong khu vực và trên toàn cầu. Trung Quốc đã thể hiện được vai
trò của mình trong vấn đề giải quyết khủng hoảng hạt nhân ở bán đảo Triều
Tiên, đưa ra ý tưởng về hình thành Cộng đồng Đông Á (EAC)… Trung Quốc
đã tích cực tham gia vào các thỏa ước về thương mại và an ninh khác nhau,
tăng cường hoạt động trong các tổ chức đa phương quan trọng và bắt đầu
hành động trong khuôn khổ hệ thống quốc tế, chấp nhận hầu hết các thể chế
quốc tế, các quy ước chung, từ đó, trong một chừng mực nhất định, tìm cách
điều chỉnh hệ thống quốc tế có lợi cho lợi ích quốc gia của Trung Quốc.

-22-


Các đặc điểm và xu hướng chung trên đây về căn bản vẫn là các xu
hướng chủ yếu chi phối sự phát triển của khu vực và thế giới, tuy hiện nay đã
xuất hiện một số đặc điểm mới làm cho bối cảnh khu vực và quốc tế thay đổi
hết sức nhanh chóng như khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới, xu
hướng ly khai tại một số nước, căng thẳng trong tranh chấp biển đảo giữa các
nước… Các nước đều tận dụng mọi cơ hội và các điều kiện thuận lợi tập
trung phát triển kinh tế, trong đó có việc tăng cường hợp tác kinh tế, thu hút
đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh giao thương quốc tế, làm sao trong thời gian
ngắn nhất có thể đưa đất nước phát triển nhanh và nâng cao vị thế quốc gia.
Sự thiếu linh hoạt hay chậm chạp trong phản ứng chính sách của bất cứ quốc
gia nào sẽ là nguyên nhân của việc đánh mất cơ hội phát triển, đồng thời làm
gia tăng rủi ro và gây phương hại đến lợi ích quốc gia.
1.3. Thực trạng ASEAN thập niên đầu thế kỷ XXI:
1.3.1 Những nhân tố thuận lợi ảnh hƣởng đến chính sách đối ngoại của
ASEAN:
ASEAN có diện tích gần 4,5 triệu kilômét vuông và dân số khoảng 540

triệu người. ASEAN hiện nay bao gồm 10 thành viên, thu hút toàn bộ các
nước trong khu vực Đông Nam Á và đang đứng trước cơ hội hợp tác rất triển
vọng sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và khi loài người bước sang thế kỷ
mới. Không như nhiều khu vực khác trên thế giới, trong khu vực này dù tiềm
ẩn các yếu tố gây xung đột nhưng tình hình chính trị - an ninh lại ổn định và
được cải thiện nhanh chóng, xu thế hòa bình và phát triển ngày càng vững
chắc.
Trước hết, đặc điểm nổi bật của quan hệ quốc tế tại khu vực này là
chiều hướng phát triển tích cực của tiến trình hợp tác, liên kết khu vực trên

-23-


bình diện chính trị - an ninh. Nếu so sánh với Cộng đồng Châu Âu (EC), chú
trọng đến liên kết kinh tế rồi đến hợp tác chính trị - an ninh nhằm tạo ra một
Châu Âu thống nhất, với nền hòa bình bền vững thì ASEAN lại chú trọng đến
hợp tác chính trị - an ninh để phát triển liên kết kinh tế. Sau khi có sự cải
thiện cơ bản trong quan hệ với các nước Đông Dương qua việc ba quốc gia
trên lần lượt gia nhập ASEAN thì tổ chức khu vực này đóng vai trò là hạt
nhân của tiến trình hợp tác không chỉ trong tiểu khu vực Đông Nam Á mà
rộng ra toàn Đông Á và Châu Á - Thái Bình Dương.
Thành tựu nổi bật trong hợp tác chính trị của ASEAN là việc tạo dựng
được môi trường an ninh nội bộ ổn định cho phát triển hợp tác kinh tế qua các
thiết chế như hội nghị sau hội nghị bộ trưởng (PMC) đặc biệt là sáng lập Diễn
đàn khu vực ASEAN (ARF) như một cơ chế bảo đảm an ninh đối ngoại bao
trùm toàn khu vực. Cuộc họp mặt đầu tiên của ARF tại Bangkok, tháng
7/1994 đã thu hút sự tham gia của các nước lớn trong khu vực như Mỹ, Nhật
Bản, Trung Quốc, Nga, Australia và cả tổ chức EC. Đây là thành công lớn của
ASEAN và thành công này của ASEAN cũng là một nhân tố thuận lợi, thúc
đẩy việc tạo dựng môi trường hợp tác ổn định trong bối cảnh quốc tế mới hiện

nay, vì hòa bình và phát triển của khu vực.
Ngoài các nhân tố thuận lợi thông qua mối liên kết về chính trị, sự tăng
cường thúc đẩy liên kết kinh tế đang chiếm vị trí rất quan trọng, đặc biệt với
sự ra đời của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Sáng kiến này đã thể
hiện quyết tâm của lãnh đạo các nước ASEAN trong việc nâng cấp và phát
triển các mối quan hệ kinh tế, đưa quan hệ kinh tế trong nội khối đi vào chiều
sâu, ngày càng mở rộng và tương xứng với tiềm năng to lớn của thị trường
khu vực.
Về thuế quan, ASEAN đưa ra mục tiêu giảm thuế, tiến tới xóa bỏ hoàn
toàn thuế quan đối với tất cả các hàng hóa lưu chuyển trong nội khối và cũng
tiến tới xóa bỏ hạn ngạch cùng các hàng rào phi thuế quan. Các nước ASEAN

-24-


×