ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đoàn Thị Thanh Nhàn
HỢP TÁC KHU VỰC ASEAN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ
KỶ XXI VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đoàn Thị Thanh Nhàn
HỢP TÁC KHU VỰC ASEAN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ
KỶ XXI VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 60.31.40
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thu Mỹ
HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỢP TÁC ASEAN
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ XU HƯỚNG HỢP
TÁC KHU VỰC Ở ĐÔNG NAM Á
11
1.1. Những nhân tố quốc tế
11
1.2. Những nhân tố trong ASEAN
27
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG HỢP TÁC ASEAN
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
32
2.1. Đường lối hợp tác và hội nhập khu vực của ASEAN trong những
năm đầu thế kỷ XXI
32
2.2. Tình hình triển khai hợp tác khu vực của ASEAN trên các lĩnh vực
42
2.3. Triển vọng hợp tác khu vực của ASEAN
71
Chương 3: VIỆT NAM THAM GIA HỢP TÁC KHU VỰC ASEAN
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
83
3.1. Quá trình Việt Nam tham gia vào hợp tác khu vực của ASEAN từ
khi gia nhập tới năm 2000
83
3.2. Sự tham gia đóng góp của Việt Nam đối với hợp tác khu vực
ASEAN những năm đầu thế kỷ XXI
90
3.3. Một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy sự tham gia của Việt Nam đối
với hợp tác ASEAN
106
KẾT LUẬN
117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
121
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ACD
Diễn đàn đối thoại hợp tác châu Á
ACFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
AEC
Cộng đồng Kinh tế ASEAN
AEM
Hội nghị các Bộ trưởng kinh tế ASEAN
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AIA
Khu vực đầu tư ASEAN
AICO
Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN
AIPO
Tổ chức Liên minh Nghị viện ASEAN
AMM
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN
APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ARF
Diễn đàn khu vực ASEAN
ASC
Cọng đồng An ninh ASEAN
ASC POA
Kế hoạch hành động Cộng đồng an ninh ASEAN
ASCC
Cộng đồng Văn hoá xã hội ASEAN
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEAN
Concord
Tuyên bố Hoà hợp ASEAN
ASEM
Diễn đàn Hợp tác Á - Âu
CEPT
Hiệp định ưu đãi thuế quan hiệu lực chung
COC
Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông
COST
Uỷ ban ASEAN về khoa học công nghệ
CPP
Đảng Nhân dân Campuchia
DoC
Tuyên bố quy tắc ứng xử của các bên liên quan ở biển
Đông
EAC
Cộng đồng Đông Á
EAEC
Diễn đàn kinh tế Đông Á
EAEG
Nhóm kinh tế Đông Á
EAS
Hội nghị thượng đỉnh Đông Á
E-ASEAN
Hiệp định khung điện tử ASEAN
EC
Cộng đồng châu Âu
EU
Liên minh châu Âu
EPG
Nhóm các nhân vật xuất chúng
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
HLTF
Nhóm đặc trách cao cấp
ODA
Viện trợ phát triển chính thức
PECC
Hội nghị hợp tác kinh tế Thái Bình Dương
ASEAN/PMC
Hội nghị sau hội nghị bộ trưởng ASEAN
PTA
Thoả thuận ưu đãi thương mại
SAARC
Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á
SEANWFZ
Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân
BFTA
Hiệp định mậu dịch tự do song phương
TAC
Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á
UNDP
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
VAP
Chương trình hành động Viêng Chăn
WEC
Hành lang Đông - Tây
WTO
Tổ chức Thương mại thế giới
ZOPFAN
Khu vực hoà bình, tự do và trung lập
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách đây gần tròn 15 năm, ngày 28/7/1995, tại Hội nghị các ngoại
trưởng các nước ASEAN lần thứ 28 tại Brunei, Việt Nam trở thành thành viên
thứ 7 của ASEAN. Sự kiện lịch sử quan trọng này đã thể hiện rõ nét chính
sách chủ động hội nhập vào khu vực của Việt Nam trên các lĩnh vực an ninh
kinh tế và các lĩnh vực khác.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cũng mở ra một trang mới trong lịch
sử ASEAN. Từ đây chấm dứt tình trạng chia rẽ, đối đầu trong khu vực. Các
nước còn lại như Lào, Mianma, Campuchia lần lượt gia nhập hiệp hội.
ASEAN đã thực sự trở thành một tổ chức hợp tác của khu vực Đông Nam Á.
Với tư cách thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam không chỉ
tham gia với tinh thần trách nhiệm và tích cực các chương trình hợp tác của
Hiệp hội, mà còn có nhiều sáng kiến góp phần thúc đẩy hợp tác nội bộ và quốc
tế của ASEAN. Việc tham gia ASEAN đã và đang góp phần quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Hội nhập vào ASEAN cũng góp phần thúc đẩy Việt Nam từng bước
điều chỉnh lại chính sách, cải cách pháp luật, cải cách bộ máy hành chính cho
phù hợp với nhu cầu hội nhập khu vực và quốc tế.
Thông qua con đường vừa hợp tác vừa cạnh tranh, các nguồn tiềm năng
bên trong chưa được khai thác sẽ khơi dậy làm gia tăng nội lực cho Việt Nam
trong quá trình phát triển.
Gia nhập ASEAN cũng tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp thu có bài học
các kinh nghiệm có lợi cho việc tham gia vào các cơ chế hợp tác nhiều tầng
nấc, nhất là cơ chế đa phương như WTO.
2
Vào đầu thế kỷ XXI, trên thế giới và trong khu vực đang diễn ra
những biến đổi sâu sắc. Để thích ứng với những biến đổi đó, ASEAN đã
quyết định làm sâu sắc hơn quá trình hội nhập khu vực với việc quyết định
xây dựng cộng đồng ASEAN (AC) dựa trên 3 trụ cột: Cộng đồng chính trị -
an ninh ASEAN (APSC); Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng
văn hoá xã hội ASEAN (ASCC). Việc xây dựng thành công các cộng đồng
này sẽ giúp duy trì hoà bình ổn định trong khu vực và thúc đẩy phát triển kinh
tế của các nước thành viên, biến ASEAN thành cộng đồng các xã hội đùm
bọc lẫn nhau. Là một nước thành viên ASEAN, Việt Nam sẽ được hưởng lợi
từ AC, do vậy, góp phần xây dựng AC là trách nhiệm của Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, việc hiểu biết về quá trình xây
dựng AC còn hạn chế. Điều này hạn chế sự tham gia của Việt Nam vào
AC. Nhận thức được điều đó, tác giả chọn đề tài "Hợp tác khu vực
ASEAN những năm đầu thế kỷ XXI và sự đóng góp của Việt Nam" làm
đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quốc tế học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về hợp tác khu vực ASEAN những năm đầu thế kỷ XXI
nói chung và nghiên cứu về sự hình thành Cộng đồng ASEAN nói riêng được
nhiều học giả và chính giới trong và ngoài nước quan tâm. Số lượng các công
trình, đề tài nghiên cứu, nhất là các bài viết, các hội thảo về vấn đề đã nêu
tăng nhanh trong những năm gần đây.
- Ở trong nước: Từ đầu thế kỷ XXI, nhất là từ năm 2003 đến nay, do
nhu cầu hiểu biết sâu rộng về ASEAN, hiểu biết về quá trình hình thành, nội
dung và những tác động của AC đến khu vực và Việt Nam, nên đã có nhiều
cơ quan nghiên cứu, hoạch định chính sách của nước ta đã chủ động nghiên
cứu các khía cạnh khác nhau của tiến trình hướng tới AC.
3
Trước hết, cần kể đến các công trình của Viện Nghiên cứu Đông Nam
Á như:
+ "Liên kết ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI" của PGS.TS Phạm
Đức Thành (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006.
+ "Những vấn đề chính trị, kinh tế Đông Nam Á, thập niên đầu thế kỷ
XXI" do TSKH Trần Khánh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006.
+ "Việt Nam trong ASEAN, nhìn lại và hướng tới" do PGS.TS Phạm
Đức Thành và PGS.TSKH Trần Khánh đồng chủ biên, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2006.
Ngoài Viện Đông Nam Á có cuốn:
+ "Liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam" do (Nguyễn
Hoàng Giáp, Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị Quế đồng chủ biên), Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2008.
Trong các công trình này các tác giả đã khái quát các giai đoạn phát
triển của ASEAN và sự tham gia của Việt Nam. Các tác phẩm đều có hơn 2/3
nội dung đề cập đến hợp tác và liên kết của ASEAN trên các lĩnh vực trong
những năm đầu thế kỷ XXI. Các tác phẩm cũng phân tích khá kỹ cơ sở hình
thành AC; những thuận lợi, khó khăn trong tiến trình thành lập AC và bước
đầu đưa ra những kịch bản bàn đến triển vọng của nó.
Đáng chú ý là hai bài viết:
+ "Cộng đồng ASEAN: Trong nhận thức và quan điểm của Việt Nam"
của PGS,TS Nguyễn Thu Mỹ - Viện Nghiên cứu Đông Nam Á.
+ "Việt Nam và công cuộc xây dựng Cộng đồng ASEAN", Nguyễn Thu
Mỹ + Lê Phương Hoà, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 7/2008.
Trong hai bài viết này các tác giả đã làm rõ kế hoạch xây dựng AC;
đồng thời đi sâu phân tích nhận thức và quan điểm của Việt Nam về AC trên
3 trụ cột là ASC; AEC và ASCC. Ngoài ra hai tác giả Nguyễn Thu Mỹ và Lê
4
Phương Hoà còn làm rõ những đóng góp bước đầu của Việt Nam vào tiến
trình xây dựng AC.
Năm 2007 - Nhà xuất bản Thông tấn đã cho ra đời cuốn: "Vai trò của
Việt Nam trong ASEAN". Cuốn sách này được biên soạn trên cơ sở nhiều
nguồn tư liệu phong phú, đề cập một cách tổng thể quá trình hình thành và
phát triển của ASEAN trong 40 năm (1967-2007). Đặc biệt, sách đã dành một
dung lượng thảo đáng phân tích làm rõ vị trí và vai trò của Việt Nam trong
ASEAN, những đóng góp tích cực có hiệu quả của nước ta trong việc củng cố
tình đoàn kết và sự thống nhất trong Hiệp hội, đẩy mạnh sự hợp tác và liên kết
nội khối trên tất cả các lĩnh vực, mở rộng sự hợp tác với các nước và các tổ
chức đối thoại.
Bên cạnh việc nghiên cứu quá trình hình thành AC, các nhà khoa học
còn tập trung nghiên cứu vào việc hình thành: Cộng đồng chính trị an ninh
ASEAN (APSC); Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng văn hoá
xã hội ASEAN (ASCC).
Về Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN có các công trình và bài viết sau:
+ "Hướng tới Cộng đồng An ninh ASEAN: Triển vọng và vai trò của
Việt Nam" của Luận Thùy Dương - Tạp chí Nghiên cứu Quan hệ quốc tế: số
62/2005.
+ "Cộng đồng an ninh ASEAN: Từ ý đồ tới hiện thực" của Nguyễn Thu
Mỹ, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2006.
+ "Những thách thức đối với xây dựng Cộng đồng an ninh ASEAN" của
Trần Khánh, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 7/2007.
Các bài viết đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của tiến trình APSC,
trong đó bàn luận khá nhiều về tính khả thi và vai trò của cộng đồng này.
Vào tháng 1-2005 vụ ASEAN - Bộ Ngoại giao có tổ chức một cuộc
Hội thảo quốc tế với chủ đề: "Hợp tác chính trị, an ninh ASEAN - Cộng đồng
5
an ninh ASEAN". Tại Hội thảo, các học giả trong và ngoài nước đều bàn luận
đến tính khả thi và tương lai của APSC trong bối cảnh quốc tế và khu vực đầy
biến động, phức tạp như hiện nay.
Đặc biệt, vào năm 2007-2008 tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á có đề
tài nhánh thuộc đề tài cấp bộ của Viện nghiên cứu " Cộng đồng an ninh
ASEAN (ASC): Nội dung, lộ trình, triển vọng và tác động" do PGS.TSKH
Trần Khánh làm chủ nhiệm. Đề tài đã được nghiệm thu vào năm 2008.
Đây là một công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc và có chất
lượng cao của các nhà khoa học về ASC. Công trình đã phân tích và làm rõ cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành ASC, phần chính của công trình
tập trung làm rõ mục tiêu nội dung cơ bản, phương hướng thực hiện và triển
vọng của ASC. Ngoài ra, công trình còn làm rõ những tác động của tiến trình
xây dựng ASEC đối với khu vực và Việt Nam; đưa ra những kiến nghị về
việc tham gia trong tiến trình xây dựng ASC của Việt Nam.
Về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) có các bài viết và công trình sau:
+ Hoàng Anh Tuấn, 2005 "AEC với các nước thành viên", Đề tài cấp
bộ, Học viện Ngoại giao.
+ Hoàng Anh Tuấn, 2007 "Triển vọng đàm phán FTAs ASEAN. Đối
tác: Tiếp cận dưới góc độ chính trị, an ninh", Bài Hội thảo.
+ PGS.TS Hoàng Thị Thanh Nhàn: "FTA song phương của các nước
ASEAN và tác động đến Cộng đồng kinh tế ASEAN và Cộng đồng ASEAN",
Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 5(145), 2008.
Các bài viết này đã làm rõ thực trạng FTA trong ASEAN những năm
đầu thế kỷ XXI, đồng thời phân tích các nhân tố chi phối sự gia tăng FTA
trong ASEAN gần đây, phân tích những tác động của FTA đến xây dựng
Cộng đồng kinh tế ASEAN và Cộng đồng ASEAN.
6
Có rất nhiều bài viết của các học giả, các nhà nghiên cứu, phóng
viên… viết về hợp tác liên kết kinh tế ASEAN, về tiến trình xây dựng Cộng
đồng kinh tế ASEAN (AEC) được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Đây đều là những nguồn ta liệu, tài liệu tham khảo tốt khi nghiên cứu
về vấn đề này.
Trong đó, tập trung nhất có cuốn sách "Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) nội dung và lộ trình" do PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn làm chủ biên, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009.
Nội dung chủ yếu của cuốn sách này là kết quả nghiên cứu của đề tài
cấp bộ: "Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC): Nội dung và lộ trình" do PGS.TS
Nguyễn Hồng Sơn làm chủ nhiệm thuộc chương trình cấp bộ: "Cộng đồng
ASEAN: Cơ sở hình thành, triển vọng và phản ứng chính sách của các nước
trong khu vực" do PGS.TS Lê Bộ Lĩnh làm chủ nhiệm, Viện Nghiên cứu
Đông Nam Á - Viện Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan chủ trì.
Tác phẩm đã đi sâu phân tích các nhân tố tác động đến quá trình hình
thành AEC; trình bày những đặc trưng cơ bản của AEC như mục tiêu, nội
dung và lộ trình thực hiện; những vấn đề đặt ra khi thực hiện AEC và triển
vọng. Tác phẩm đã dành 1 chương trình bày sự tham gia của Việt Nam và quá
trình liên kết kinh tế ASEAN nói chung; AEC nói riêng và đưa ra một số khuyến
nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả tham gia vào AEC của Việt Nam.
- Về Cộng đồng văn hoá - xã hội ASEAN (ASCC) có các bài viết và
công trình sau:
+ Đức Ninh (chủ biên): "Văn hoá khu vực Đông Nam Á", Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2000.
+ Nguyễn Tấn Đắc: "Văn hoá Đông Nam Á", Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2003.
7
Hai cuốn sách trên đề cập chủ yếu đến văn hoá Cộng đồng tộc người ở
Đông Nam Á từ những giá trị vật chất tinh thần, lối sống, cách ứng xử đến tri
thức khoa học, trình độ học vấn… hiện nay của các cộng đồng tộc người ở
Đông Nam Á. Thông qua đó các tác giả đã xây dựng một cách đầy đủ, sinh
động và rõ nét về không gian, môi trường văn hoá chung ở Đông Nam Á từ
đó rút ra những nhận xét chung về đặc thù chung về lịch sử văn hoá của cư
dân Đông Nam Á. Đây là những tư liệu bổ ích khi nghiên cứu sâu về văn hoá
Đông Nam Á nói chung và nhân tố tác động đến việc hình thành Cộng đồng
văn hoá - xã hội Đông Nam Á nói riêng.
Bên cạnh những bài viết lẻ tẻ bàn về việc hình thành và triển vọng của
Cộng đồng văn hoá - xã hội đăng trên một số phương tiện thông tin đại chúng
gần đây, chúng tôi thấy tập trung và nổi bật lớn cả là tập kỷ yếu đề tài cấp bộ
"Cộng đồng văn hoá xã hội ASEAN" do GS.TS Nguyễn Đức Ninh làm chủ
nhiệm nghiệm thu năm 2008.
Đề tài là kết quả nghiên cứu của tập thể tác giả có bề dày nghiên cứu về
Đông Nam Á nói chung và văn hoá Đông Nam Á nói riêng. Đề tài đã đi sâu
phân tích những cơ sở lịch sử, văn hoá, xã hội của việc hình thành Cộng đồng
văn hoá xã hội ASEAN (ASCC). Nội dung chính của đề tài là đi sâu phân tích
làm rõ: Mục tiêu tổng thể, nội dung và tác động của Cộng đồng văn hoá - xã
hội ASEAN đối với sự phát triển bền vững. Ngoài ra đề tài còn làm rõ những
thời cơ và thách thức trong quá trình xây dựng ASCC, bước đầu đưa ra một
số giải pháp và hình thức hợp tác thúc đẩy sự hình thành cộng đồng văn hoá
xã hội ASEAN.
- Ở ngoài nước: Bước vào thế kỷ XXI, trong xu thế khu vực hoá và
toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng, thế giới cũng quan tâm nhiều hơn đến
nghiên cứu sự hình thành và triển vọng của Cộng đồng ASEAN (AC) - một tổ
chức khu vực thành công nhất của các nước đang phát triển.
8
+ Cuốn sách: "Xây dựng Cộng đồng an ninh ở Đông Nam Á: ASEAN và
vấn đề của trật tự khu vực" (Construting a Security Community in Southeast
Asia: ASEAN and the problem of regional order) của Amitav Acharya
(London and New york, 2001). Đây là cuốn sách đề cập đến những kiến thức
cơ bản về khung lý thuyết cho việc nghiên cứu xây dựng Cộng đồng ASEAN,
nhất là về cơ sở lý luận của việc hình thành các nội dung, quy tắc ứng xử và
xây dựng mô hình/ thể chế cho ASC.
+ Cuốn sách: "Văn hoá ngoại giao và văn hoá an ninh của ASEAN:
Nguồn gốc, sự phát triển và triển vọng" (ASEAN' Diplomatic and Security
Culture: Origins, Development and Prospects) của Jurgen Haacke (London
and New york 2003).
+ Cuốn: "Đông Nam Á trong sự tìm kiếm Cộng đồng ASEAN"
(Southeast ASia in Search of an ASEAN Community) của Rodolfo, Severino
(Singapo ISE ASEAN, 2007)…
Nhìn chung các công trình này đã phân tích khá sâu về các nhân tố tác
động đến việc hình thành AC trên 3 trụ cột ASC; AEC và ASCC, bàn về
những nội dung cơ bản của từn trụ cột cũng như ảnh hưởng của AC đến sự
phát triển chung trong ASEAN. Tuy nhiên, khi nghiên cứu xem xét kỹ từng
góc độ mà các tác phẩm đề cập chúng ta có thể nhận thấy cách tiếp cận và
quan điểm của tác giả về từng vấn đề đều chứa đựng những dụng ý riêng,
thiếu tính khách quan. Nhưng có điểm hay rất đáng quan tâm là phần trình
bày về lý thuyết xây dựng Cộng đồng trong các tác phẩm này khá rõ ràng có
thể tham khảo tốt.
Nói tóm lại: Cả trong nước và ngoài nước đều đang rất quan tâm
nghiên cứu về hợp tác khu vực ASEAN trong những năm đầu thế kỷ XXI,
mà tập trung là quá trình hình thành AC trên ba trụ cột: ASC; AEC và
ASCC. Đây là thuận lợi cơ bản cho tác giả khi thực hiện luận văn. Tuy
nhiên, phần lớn các tác phẩm, các công trình nghiên cứu đã xuất bản mới
9
chỉ dừng lại phân tích những hợp tác liên kết của ASEAN gần đây nhất là
năm 2008, nên còn những nội dung hợp tác liên kết khu vực ASEAN trong
năm 2009 và đầu năm 2010 cũng như vai trò của Việt Nam khi làm Chủ
tịch ASEAN sẽ như thế nào đối với tiến trình này là những nội dung mà
theo tác giả là mình phải tự tìm hiểu tổng hợp qua sách, báo và các trang
website. Đây vừa là khó khăn nhưng cũng chính là điều gây hứng thú cho
tôi khi thực hiện luận văn này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Làm rõ những phát triển mới trong hợp tác khu vực của ASEAN
những năm đầu thế kỷ XXI.
- Dự báo triển vọng hợp tác khu vực của ASEAN trong những năm tới.
- Nêu bật những đóng góp của Việt Nam đối với quá trình này.
- Nêu một số khuyến nghị nhằm góp phần thúc đẩy hợp tác khu vực
của ASEAN và tăng cường hơn nữa hiệu quả hợp tác của Việt Nam trong
ASEAN trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ một số nhân tố động đến hợp tác khu vực của ASEAN những
năm đầu thế kỷ XXI.
- Phân tích thực trạng hợp tác khu vực của ASEAN những năm đầu thế
kỷ XXI trong các lĩnh vực chủ yếu.
- Dự báo triển vọng hợp tác, nêu bật sự tham gia và đóng góp của Việt
Nam đối với hợp tác khu vực của ASEAN những năm đầu thế kỷ XXI và một
số khuyến nghị, biện pháp nhằm tăng cường sự tham gia của Việt Nam đối
với hợp tác ASEAN.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
10
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng hợp tác khu
vực của ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI, vai trò và những đóng góp
của Việt Nam trong các lĩnh vực chủ yếu.
- Về mặt thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu những tiến triển
trong hợp tác khu vực cua ASEAN và những đóng góp của Việt Nam vào hợp
tác khu vực của ASEAN từ 2001 - 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận: Phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chính
sách của Đảng ta về tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại.
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Chủ yếu là phương pháp lịch sử
và lôgíc cùng với các phương pháp nghiên cứu đặc thù về quan hệ quốc tế.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ những phát triển mới trong hợp tác khu vực của
ASEAN trong những năm đầu thế kỷ XXI. Đồng thời cũng làm sáng tỏ hơn
vai trò của Việt Nam trong quá trình hợp tác liên kết ASEAN những năm đầu
thế kỷ XXI.
Qua đó, góp phần cung cấp căn cứ khoa học cho việc hoạch định chính
sách của Việt Nam đối với ASEAN trong những năm tới.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và giảng dạy những nội dung về hợp tác liên kết của ASEAN và sự tham gia
của Việt Nam trong hợp tác ASEAN những năm đầu thế kỷ XXI, góp phần
vào việc nâng cao kiến thức cho đội ngũ những người làm công tác đối ngoại,
công tác giáo dục tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
trên lĩnh vực đối ngoại.
8. Kết cấu của luận văn
11
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được chia thành 3 chương, 8 tiết.
12
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỢP TÁC ASEAN
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ XU HƯỚNG HỢP TÁC
KHU VỰC Ở ĐÔNG NAM Á
1.1. NHỮNG NHÂN TỐ QUỐC TẾ
1.1.1. Sự thay đổi của cục diện thế giới những năm đầu thế kỷ XXI
Thế giới bước vào thế kỷ XXI với nhiều thay đổi lớn so với thập niên
cuối cùng của thế kỷ XX (kể từ khi trật tự thế giới hai cực chấm dứt). Cục
diện thế giới đang nghiêng về hướng đa cực theo một cơ cấu quyền lực một
siêu cường và một số cường quốc chủ chốt như Trung Quốc, Nga, EU, Nhật
Bản… chi phối các vấn đề quan trọng của thế giới, định đoạt nhiều quy tắc,
luật lệ quốc tế bằng sức vượt trội cả về kinh tế, quân sự, mà trong đó nổi lên
hàng đầu là vai trò của Mỹ. Các nước G7 đang thâu tóm nền kinh tế thế giới
thông qua các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế như IMF, WB, WTO…
Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tiếp tục tồn tại nhưng hình thức và
nội dung có sự thay đổi. Các nước đang phát triển, các lực lượng dân chủ tiến
bộ ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống quốc tế, là lực lượng tích
cực trong cuộc đấu tranh thiết lập trật tự thế giới mới bình đẳng, dân chủ, hợp
tác và phát triển bền vững.
Triệt để lợi dụng ưu thế trong so sánh lực lượng sau chiến tranh lạnh,
Mỹ tỏ rõ tham vọng độc tôn "lãnh đạo" thế giới. Đặc biệt, từ khi G.W.Bush
trở thành tổng thống (2000), chính quyền Mỹ càng ráo riết thi hành một chính
sách đơn phương mang nặng tính vị kỷ, bất chấp sự phản đối của nhiều nước
lớn và cộng đồng quốc tế. Sự kiện nước Mỹ bị tấn công khủng bố 11-9-2001
đã đặt hoà bình, an ninh thế giới trong tình trạng bất ổn lớn, nhiều mối quan
hệ quốc tế bị đảo lộn. Chính quyền G.W.Bush đã khai thác triệt để sự kiện
13
này nhằm đem lại lợi thế cho vai trò "lãnh đạo" của Mỹ, một loạt phương
châm hành động với những mục tiêu mới đã được đưa ra. Đối với các nước
lớn, một mặt Mỹ có đối sách kiềm chế các đối thủ không để vươn lên đe doạ
vị trí siêu cường số 1 của Mỹ, đồng thời có sách lược xoa dịu, nhân nhượng
nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn trong nhiều vấn đề quốc tế để Mỹ
đạt được mục đích. Đối với Liên hợp quốc, Mỹ vừa lợi dụng, vừa gây sức ép
để ủng hộ Mỹ, nếu không đạt được mục đích Mỹ sẽ phớt lờ và bỏ qua. Mỹ răn
đe các lực lượng dân chủ tiến bộ và các nước XHCN còn lại, coi "nhân
quyền" cao hơn "chủ quyền" dân tộc, dùng con bài "tự do", "dân chủ", "nhân
quyền", tôn giáo để áp đặt giá trị của Mỹ và phương Tây lên các dân tộc khác.
Mỹ thao túng các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế như: IMF, WB, WTO…
Mỹ lợi dụng chống khủng bố tấn công lật đổ các chế độ ở Apganixtan
(2001) và Irắc (2003), thiết lập các chính quyền mới thân Mỹ, đồng thời tạo
sự hiện diện về quân sự và chính trị của Mỹ ở Trung Á và Trung Cận Đông,
nhằm kiểm soát khu vực có lợi thế địa - chính trị quan trọng bậc nhất thế giới
đồng thời nắm nguồn dầu lửa lớn ở đây với ý đồ dùng dầu mỏ làm "công cụ"
để khống chế thế giới. Tháng 6-2002, Tổng thống Bush công bố Chiến lược
an ninh quốc gia của Mỹ với chủ trương "đánh đòn phủ đầu" nếu phát hiện
thấy có nguy cơ đe doạ nước Mỹ hoặc thách thức vai trò bá chủ của Mỹ…
Xu hướng chính trị cường quyền nước lớn của Mỹ đã đặt độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia đang phát triển trước những thách
thức nghiêm trọng. Đời sống chính trị thế giới bị đảo lộn. Uy tín của Liên hợp
quốc bị suy giảm. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa bá quyền Mỹ và các lực lượng
dân chủ tiến bộ, lực lượng bảo vệ hoà bình thế giới, chống chính sách cường
quyền nước lớn ngày càng sâu sắc. Nó phản ánh tính phức tạp, gay go quyết
liệt của cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc hiện nay.
14
Quan hệ giữa các nước lớn thay đổi nhanh chóng, các nước lớn đều
điều chỉnh chiến lược phát triển của mình, vừa đảm bảo lợi ích quốc gia dân
tộc vừa góp phần đấu tranh kiềm chế bớt quyền lộng hành của Mỹ, tìm kiếm
sự cân bằng mới, tránh xung đột mang tính đối kháng. Mỗi nước lớn đều coi
trọng việc xác lập và củng cố những điều kiện quốc tế có lợi, tăng cường hệ
số an toàn quốc gia, bày tỏ mong muốn xây dựng những mối quan hệ "đối tác
chiến lược" với quy mô khác nhau. Quan hệ giữa các nước lớn trong những
năm đầu thế kỷ XXI vẫn là vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau,
đấu tranh nhưng không làm tổn hại đến hợp tác và nhìn chung các nước lớn
đều tránh đối đầu với Mỹ.
Diễn biến của cục diện chính trị thế giới những năm đầu thế kỷ XXI
cho thấy, sức mạnh bá quyền của Mỹ cũng có những giới hạn, chỉ sau một
thời gian ngắn thực hiện chính sách "đơn phương cường quyền" đã xuất hiện
những mâu thuẫn sâu sắc và trầm trọng giữa Mỹ và phần còn lại của thế giới.
Chính Mỹ đã tạo ra ngày càng nhiều mâu thuẫn, nhiều kẻ thù và đang ngày
càng bị cô lập. Việc Mỹ sa lầy ở Irắc, Apganixtan, việc Mỹ lúng túng mất khả
năng giải quyết các vấn đề hạt nhân ở Triều Tiên, ở Iran và sự suy thoái rơi
vào khủng hoảng kinh tế - tài chính vừa qua cho thấy không phải việc gì Mỹ
muốn cũng có thể làm được, không phải lúc nào thế giới cũng nghe theo Mỹ.
Cục diện thế giới đơn cực chỉ tồn tại tức thời với chủ nghĩa đơn phương
cường quyền của Mỹ và đã nhường chỗ cho một cục diện đa cực vì hoà bình,
bình đẳng, dân chủ hợp tác và phát triển, đó là nguyện vọng của nhân loại
tiến bộ. Phương thức tập hợp lực lượng trên thế giới trong những năm đầu
thế kỷ XXI vẫn tiếp tục phát triển theo hướng cơ động, linh hoạt trên từng
lĩnh vực và vấn đề cụ thể. Lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích kinh tế vẫn tiếp
tục được đặt lên hàng đầu chi phối các quan hệ quốc tế. Điều này buộc các
nước phải có cách tiếp cận mới đối với phương thức tập hợp lực lượng để
15
bảo vệ lợi ích dân tộc chân chính, đồng thời hội nhập ngày càng sâu rộng,
hữu hiệu vào tiến trình phát triển chung của khu vực và thế giới. Vai trò của
các phương thức song phương, đa phương hợp tác giải quyết các vấn đề
quốc tế ngày càng trở nên không thể thiếu, đặc biệt trong việc giải quyết
những vấn đề toàn cầu cấp bách hiện nay.
Trong bối cảnh chung nêu trên, cục diện chính trị ở Đông Nam Á bước
sang thế kỷ XXI cũng có những thay đổi lớn tác động không nhỏ tới sự hội
nhập, liên kết trong khu vực. Trước hết, ASEAN đã hội nhập đủ 10 nước (trừ
Đông Timo) trở thành tổ chức khu vực thành công nhất và đang có những
bước phát triển khả quan. Về chính trị, ASEAN tương đối ổn định mặc dù còn
tiềm ẩn nhiều nguy cơ như tranh chấp lãnh thổ, xung đột dân tộc, tôn giáo, ly
khai, khủng bố… Về kinh tế, sau khủng hoảng tài chính 1997-1998; các nước
ASEAN đã có những bước điều chỉnh kịp thời, cơ cấu lại nền kinh tế đặc biệt
là trên lĩnh vực tài chính, tiền tệ để tránh sự phát triển "kinh tế bong bóng"
gây nguy hiểm chung.
Trên các lĩnh vực văn hoá - xã hội cũng được các nước ASEAN xúc
tiến tích cực với các chương trình dự án, hợp tác bước đầu đem lại những kết
quả đáng khích lệ. Ngoài ra, ASEAN còn là "hạt nhân" của nhiều tiến trình
hợp tác quốc tế như: APEC, ASEM, ASEAN + 3, EAS. Có thể khẳng định
rằng: bước vào thế kỷ XXI, ASEAN đã trở thành một tổ chức khu vực thống
nhất có vai trò và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quốc gia thành viên
cũng như của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Trong tương quan lực lượng ở Đông Nam Á, những năm đầu thế kỷ
XXI, vai trò của các nước lớn nổi lên gồm Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, các
nước này vừa cạnh tranh, vừa kiềm chế lẫn nhau, ảnh hưởng không nhỏ đến
sự hợp tác và liên kết của ASEAN. Từ một điểm nóng của Chiến tranh lạnh,
chỉ sau một thập niên, Đông Nam Á đã nhanh chóng trở thành nơi hội tụ
những nỗ lực hợp tác giữa các nước trong khu vực và các nước trên thế giới.
16
Xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển được củng cố, tăng cường ở Đông Nam Á
đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác và phát triển ở Đông Nam Á nở
rộ hơn nữa trong thế kỷ XXI.
1.1.2. Những phát triển mới trong toàn cầu hoá và khu vực hoá
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, toàn
cầu hoá kinh tế xuất hiện với tư cách một cấp độ mới cao hơn về chất của quá
trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất vốn có trước đó. Toàn cầu hoá không chỉ
tạo ra những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, mà còn thúc đẩy mối quan hệ liên
quốc gia cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Tự do hoá kinh tế và cải cách thị trường
trên toàn cầu diễn ra phổ biến. Các nền kinh tế dựa vào nhau, liên kết với
nhau, xâm nhập lẫn nhau, khiến cho tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước
ngày càng tăng. Toàn cầu hoá kích thích tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy các
doanh nghiệp cải tiến công nghệ và quản lý; cạnh tranh quốc tế và tự do hoá
thương mại trong các khối kinh tế khu vực cũng như trên phạm vi toàn cầu.
Tiến bộ của khoa học công nghệ hiện đại, sự thay đổi cơ cấu kinh tế - kỹ thuật
và chính trị trên thế giới trong bối cảnh toàn cầu hoá, tạo nên một mạng lưới
thương mại và chuyển dịch vốn đầu tư đan xen nhau chằng chịt, do vậy nền
kinh tế mỗi nước ở mức độ khác nhau đều mang tính quốc tế. Tuy một mặt
đưa lại những cơ hội để các quốc gia đang phát triển có khả năng hội nhập
hữu hiệu vào hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
và phát triển kinh tế xã hội; nhưng mặt khác, toàn cầu hoá cũng có xu hướng
làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa các quốc gia, do vậy nó cũng đặt ra
nhiều thách thức lớn đối với các nước đang phát triển.
Cùng với sự lan toả mạnh mẽ của toàn cầu hoá, bước vào thế kỷ XXI,
quá trình liên kết khu vực cũng tiếp tục phát triển rất sôi động tại khắp các
châu lục. Quá trình này đòi hỏi sự đẩy nhanh hợp tác liên kết khu vực và nâng
cấp các tổ chức hợp tác khu vực nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển trong
điều kiện hiện nay - ASEAN cũng không nằm ngoài quy luật chung đó.
17
Các quốc gia Đông Nam Á tham gia vào ASEAN đều hướng tới mục
tiêu đẩy mạnh hợp tác, thực hiện tự do hoá thương mại, đầu tư và dịch vụ, tạo
lợi thế cạnh tranh khi tham gia hội nhập vào thị trường thời gian. Bước phát
triển mới của xu thế khu vực hoá tác động vừa thuận chiều vừa ngược chiều
đối với sự hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực. Thuận chiều theo nghĩa,
khu vực hoá hiện nay là một bước, một "khâu đệm" trong lộ trình gia nhập
vào hệ thống kinh tế thế giới của mỗi nước. Ngược chiều ở chỗ, với các quy
tắc mở cửa, tự do hoá và quan hệ bình đẳng giữa các nước trong quá trình
toàn cầu hoá, thì khu vực hoá lại có nghĩa là phân chia thế giới theo khối, tạo
ra sự phân biệt đối xử mang tính khu vực trong cuộc cạnh tranh trên những cơ
sở không ngang bằng giữa các nước trong khu vực với các nước và nhóm
nước ngoài khu vực. Hai chiều thuận nghịch của tiến trình khu vực hóa cho
thấy bên trong tiến trình này, xét trên quan điểm cạnh tranh khu vực cũng
như lợi ích của các nước tham gia ASEAN, đang đặt ra nhiều vấn đề như:
- Sự chặt chẽ của liên kết ở mức "đồng thuận" là đủ hay còn cần có
những ràng buộc mang tính pháp lý.
- Mỗi quốc gia trong ASEAN trong khi là thành viên phải tuân thủ
những quy tắc hoạt động của Hiệp hội, còn phải "cân đối" các quan hệ với
bên trong và bên ngoài khu vực. Luôn tồn tại sự cạnh tranh như một trong
những khía cạnh bản chất nhất của các quan hệ quốc tế giữa các nước thành
viên của một tổ chức.
- Có sự đan xen, giao thoa giữa các thành viên của các tổ chức khác
nhau. Một quốc gia có thể đồng thời là thành viên của một tổ chức khối, tổ
chức kinh tế khu vực, có thể vừa tham gia làm thành viên Hiệp hội theo cơ
chế đa phương vừa tham gia các hiệp định tự do thương mại theo cơ chế
song phương…
Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá bước vào thế kỷ
XXI có những bước phát triển mới, xuất hiện các hình thức liên kết mới ở
18
nhiều cấp độ khác nhau đòi hỏi các nước ASEAN với năng lực cạnh tranh,
trình độ phát triển thị trường thương mại, đầu tư, dịch vụ… còn nhiều yếu
kém phải cố gắng nâng cao năng lực ứng phó để chủ động hội nhập quốc tế
một cách sâu rộng. Mỗi quốc gia đều phải tự điều chỉnh chiến lược phát triển
tập trung nhiều hơn vào phát triển kinh tế, tăng cường mở rộng hợp tác quốc
tế song phương cũng như đa phương. Môi trường quan hệ quốc tế ở khu vực
đang diễn ra đồng thời đan xen giữa hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại,
cạnh tranh lợi ích ngày càng sâu rộng và gay gắt. An ninh và phát triển của
các quốc gia bị đặt trước nhiều thách thức mới trên nhiều lĩnh vực: kinh tế -
đối ngoại; chính trị - tư tưởng; an ninh - quốc phòng; khoa học - công nghệ,
tài nguyên môi trường; văn hoá - xã hội, phát triển nhân lực và an sinh con
người… đặt "thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc
gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương"
1
.
Quá trình hợp tác, liên kết ASEAN những năm vừa qua là những minh
chứng cho sự tác động của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra sôi
động hiện nay.
1.1.3. Sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với Đông Nam Á
Trước bối cảnh quốc tế mới hình thành ở Đông Nam Á sau chiến tranh
lạnh, bước vào thế kỷ XXI các nước lớn đều từng bước điều chỉnh chính sách
đối với khu vực Đông Nam Á. Mục tiêu chung trong điều chỉnh chính sách
của các nước lớn là, nhằm củng cố và nâng cao ảnh hưởng tại khu vực, tạo cơ
sở hỗ trợ đắc lực cho việc thực thi chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của
mỗi nước. Cục diện cạnh tranh quyền lực và ảnh hưởng chiến lược giữa các
nước lớn ở khu vực Đông Nam Á trong những năm đầu thế kỷ XXI có chiều
hướng gia tăng, ảnh hưởng mạnh đến quan hệ quốc tế và tiến trình hợp tác,
liên kết ASEAN.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.65.
19
- Về chính sách của Mỹ:
Ngay sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ có động thái buông lỏng
Đông Nam Á, từng bước rút quân khỏi các căn cứ quân sự ở khu vực này.
Nhưng, bước sang những năm đầu thế kỷ XXI, cùng với sự điều chỉnh "chiến
lược toàn cầu mới" sau sự kiện 11-9-2001, Mỹ quan tâm nhiều hơn đến Đông
Nam Á. Sự điều chỉnh chính sách đối với Đông Nam Á của Mỹ xuất phát từ
hai nhân tố cơ bản, đó là, tầm quan trọng ngày càng tăng về kinh tế của các
nước ASEAN đối với nền kinh tế Mỹ và vai trò ảnh hưởng của Trung Quốc
đối với khu vực này trong thời gian gần đây đang làm giảm vai trò của Mỹ
tại đây. Về kinh tế: "ASEAN là đối tác kinh tế lớn thứ tư của Mỹ với thị
trường trên 500 triệu dân và nền kinh tế giá trị khoảng 700 tỷ USD. Thương
mại hai chiều giữa Mỹ và ASEAN đạt khoảng 120 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp
của Mỹ vào ASEAN là khoảng 50 tỷ USD, đứng thứ hai sau Nhật Bản. Mỹ
là nước nhập khẩu lớn nhất từ Đông Nam Á với tổng giá trị nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ liên tới 80 tỷ USD"
2
. Tính đến hết năm 2008 đầu tư của Mỹ
vào ASEAN đạt 100 tỷ USD thương mại song phương, Mỹ - ASEAN đạt
178 ty USD
3
.
Trong bối cảnh diễn ra sự cạnh tranh gay gắt về ảnh hưởng giữa các
nước lớn, trong đó Trung Quốc ngày càng có vai trò vượt trội trong khu vực,
mục tiêu chiến lược mà Mỹ đặt ra là ngăn chặn không cho nước nào nổi lên
đe doạ lợi ích của Mỹ ở Đông Nam Á. Để đạt được mục tiêu đó, chính quyền
Mỹ đã tiến hành các biện pháp:
- Củng cố và tăng cường các mối quan hệ hợp tác đồng minh trong khu
vực, tìm mọi cách lôi kéo các nước Đông Nam Á tham gia "mặt trận thứ hai"
trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ.
2
Dẫn theo: Trần Thị Vinh: "ASEAN 1967-2007 cái nhìn từ Bắc Mỹ" trong cuốn Đông Nam Á truyền thống
và hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2007, tr.313.
3
Nguồn Dân trí. com. 23-7-2009.
20
- Tăng cường các quan hệ kinh tế với các nước ASEAN làm cho
ASEAN ngày càng phụ thuộc kinh tế vào Mỹ.
- Phản đối tham vọng độc chiếm biển Đông của bất cứ nước nào nhằm
đảm bảo quyền tự do đi lại trên các con đường giao thông qua biển Đông.
- Tạo điều kiện chi viện cho Nhật Bản, Hàn Quốc khi cần thiết và tăng
cường kiềm chế Trung Quốc.
Các biểu hiện về sự điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Mỹ trong
những năm đầu thế kỷ XXI có thể thấy rõ là: Sau sự kiện 11-9-2001, Mỹ gia
tăng sự hiện diện và tái can dự ở Đông Nam Á, phù hợp với Chiến lược an
ninh quốc gia mới (2002). Mỹ đã ký hàng loạt thoả thuận quân sự mới với các
nước đồng minh truyền thống, cho họ hưởng quy chế đồng minh chiến lược
ngoài Tổ chức Bắc Đại Tây Dương (NATO). Trong quá trình triển khai cuộc
chiến chống khủng bố, Mỹ đã thiết lập và mở rộng các căn cứ quân sự ở Đông
Nam Á, tăng cường giao lưu và hợp tác quân sự, tăng thêm viện trợ quân sự,
liên tiếp tổ chức tập trận chung và các chuyến thăm hải quan. Cụ thể: "Tháng
3-2001, hải quân Mỹ, Philippin và Thái Lan tổ chức diễn tập cứu hộ trên biển
Đông. Năm 2002, Mỹ đã cung cấp 500 binh sĩ thuộc lực lượng đặc nhiệm
không quân và các thiết bị quân sự giúp quân đội Philippin chiến đấu chống
khủng bố. Đồng thời, Mỹ còn tuyên bố viện trợ 50 triệu USD cho cuộc chiến
chống khủng bố của Inđônêxia và có ý triển khai hợp tác quân sự trở lại với
Inđônêxia"
4
. Ngoài ra, Mỹ còn cải thiện quan hệ và mở rộng hợp tác với đối
tác được coi là ít thân thiện hơn (Việt Nam, Malaysia); gia tăng sự can dự và
kiểm soát ở vùng eo biển Malacca và khu vực biển Đông bằng việc đưa ra
hàng loạt những sáng kiến như: Sáng kiến an ninh Contennơ (CSI), sáng kiến
an ninh hàng hải khu vực (RMSI); Hiệp ước trợ giúp hậu cần (ACSA)… với
một số nước ASEAN. Cùng với việc cải thiện quan hệ với Việt Nam, Mỹ
cũng tìm mọi cách lôi kéo các nước khác như Campuchia, Lào và Minama
4
Dẫn theo "Vai trò của Việt Nam trong ASEAN", Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2007, tr.117+118.