Tải bản đầy đủ (.docx) (135 trang)

Đảng bộ thành phố hải phòng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục (1996 1 2009)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.62 KB, 135 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ
HỘI VÀ NHÂN VĂN * * *

PHẠM THỊ DUNG

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
(1996 - 2009)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2010

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

PHẠM THỊ DUNG

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
(1996 - 2009)
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử Đảng
Mã số: 60 22 56

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Kim Đỉnh

Hà Nội – 2010



2


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các trích
dẫn trong Luận văn đều trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Các kết luận của
Luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác. Nếu
sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2010
Học viên
Phạm Thị Dung

3


Lời cảm ơn
Để hoàn thành Luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận
được sự giúp đỡ của rất nhiều người. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
các thầy, cô giáo trong Khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn đã nhiệt tình giảng dạy, trang bị những kiến thức rất bổ ích cho tôi.
Đặc biệt, tôi muốn nói lời cảm ơn và sự biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS. TS
Trần Kim Đỉnh, người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt
quá trình tôi bắt đầu làm cho đến khi hoàn thành Luận văn.

4


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT


BCH
: Ban
Chấp hành
CNH – HĐH: Công
nghiệp hoá - hiện đại
hoá

HĐGD
giáo dục

: Hội đồng

HĐND
nhân dân

: Hội đồng

GDĐT
– đào tạo

: Giáo dục

LLXH
: Lực
lượng xã hội
UBND
nhân dân

: Ủy ban


XHHGD : Xã hội
hoá giáo dục
TU
uỷ

: Thành

TW
ương

: Trung

THCS
học cơ sở

: Trung

THPT
: Trung
học phổ thông
NQ
quyết

: Nghị


định

: Quyết



5


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………………….

1

NỘI DUNG…………………………………………………………….

8

Chương 1. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC GIAI
ĐOẠN 1996 – 2001………………………………………….
1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hoá và xã hội……………..

8
8

1.2. Giáo dục – đào tạo Hải Phòng những năm 1986 – 1995......

12

1.3. Quá trình triển khai chủ trương xã hội hóa giáo dục ở Hải
Phòng (1996 - 2001).....................................................................

21


Chương 2. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO ĐẨY
MẠNH XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC GIAI ĐOẠN 2001 –
2009……………………………………………………………………..

46

2.1. Chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam về đẩy mạnh xã hội
hóa giáo dục……………………………………………………………

46

2.2. Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo đẩy mạnh thực hiện
xã hội hóa giáo dục giai đoạn 2001 – 2009………………………...

53

2.3. Tổ chức thực hiện và kết quả……………………………….....

61

Chương 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KIẾN NGHỊ....................

87

3.1. Nhận xét chung..................................................................................

87

3.2. Bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp..............................


98

KẾT LUẬN...............................................................................................

109

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................

112

PHỤ LỤC

6


7


MỞ ĐẦU
Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược của Đảng và
Nhà nước, tạo động lực và phát huy mọi nguồn lực để phát triển một nền giáo dục
tiên tiến, chất lượng với sự tham gia của toàn xã hội. Xã hội hoá là một trong những
phương thức thực hiện để mọi người dân đều có cơ hội được học tập. Nghị quyết
Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) đã nêu: “Nhà nước cần đầu
tư nhiều hơn cho giáo dục, nhưng vấn đề quan trọng là phải quán triệt sâu sắc và
tiến hành tốt việc xã hội hoá các nguồn đầu tư, mở rộng phong trào xây dựng, phát
triển giáo dục trong nhân dân, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội”. Tiếp đó,
Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 2 (khóa VIII), Kết luận Hội
nghị Trung ương 6 (khóa IX) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc khóa X của

Đảng đều khẳng định: “Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp
của toàn dân, là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục”. Chủ
trương xã hội hóa giáo dục là xuất phát từ quan điểm coi sự nghiệp giáo dục là sự
nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực rất lớn và chất lượng cao. Vì vậy, phải phát
triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao
của nhân dân. Trong điều kiện mới, Nhà nước chưa đủ sức và không thể bao cấp
toàn bộ sự nghiệp phát triển giáo dục thì xã hội hóa là một trong những phương
thức cơ bản để phát triển giáo dục.
Vì vậy, cùng với việc tăng cường đầu tư cho giáo dục từ nguồn ngân sách
Nhà nước, cần làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục nhằm tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ, toàn diện và vững chắc đối với sự nghiệp giáo dục, thể hiện quan điểm của
Đảng “Coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu”.
Thực tiễn thời gian qua, xã hội hóa giáo dục đã có vai trò lớn trong việc mở
rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, góp phần to lớn thúc đẩy
sự nghiệp giáo dục – đào tạo phát triển, đáp ứng ngày càng tốt yêu

1


cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, do đó Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách đúng đắn tăng cường hiệu quả của công tác này.
Là thành phố lớn thứ ba của cả nước, với lịch sử phát triển lâu dài, là một
vùng đất giàu truyền thống yêu nước cách mạng, lại hội tụ những điều kiện tương
đối thuận lợi về vị trí địa lý, địa hình, Hải Phòng được xác định là một trung tâm
kinh tế, văn hóa, giáo dục trọng điểm của miền duyên hải Bắc Bộ.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, Đảng bộ, quân và dân Hải
Phòng đã phát huy truyền thống “trung dũng, quyết thắng”, đoàn kết, kiên định,
vững vàng, năng động, sáng tạo, vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được

những thành tựu quan trọng về kinh tế - văn hóa – xã hội, từng bước đưa thành phố
phát triển xứng đáng với vị trí là một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của đất
nước.
Giáo dục – đào tạo cũng đạt được những thành tựu to lớn, phát triển gắn kết
chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Thành phố giữ vững được kết quả phổ cập
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc phổ
thông trung học và nghề. Cơ sở vật chất, thiết bị trường học đã được tăng cường.
Tổng vốn đầu tư phát triển lĩnh vực giáo dục và đào tạo chiếm 1,4% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội năm 2009; chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo chiếm khoảng 10%
tổng chi đầu tư phát triển. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của thành phố đạt 65%,
trong đó lao động qua đào tạo nghề là 43%. Tiềm lực khoa học và công nghệ được
tăng cường; thành phố phát triển được đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ. Tổng
số cán bộ có trình độ đại học, thạc sỹ, tiến sỹ (năm 2009) là 23.122 (trong đó: thạc
sỹ và tiến sỹ: 1.352.
Nghị quyết số 32 – NQTW ngày 05/8/2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và
phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ CNH – HĐH đất nước khẳng định:
“Hải Phòng phải trở thành trung tâm giáo dục đào tạo của vùng duyên hải Bắc Bộ”.
Đây là một định hướng quan trọng, đồng thời cũng là nhiệm vụ và thách thức to lớn
đối với Đảng bộ thành phố Hải Phòng trong

2


lãnh đạo phát triển sự nghiệp GDĐT thời kỳ mới. Để đạt được mục tiêu trên, xã hội
hoá giáo dục là biện pháp đã và đang triển khai có hiệu quả làm giáo dục – đào tạo
thành phố có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, thực trạng xã hội hóa giáo dục
ở Hải Phòng vẫn tồn tại hai vấn đề cơ bản cần được xem xét và giải quyết:

Một là, sự chi phối của tư tưởng bao cấp, nhất là bao cấp trong giáo dục đã ăn
sâu vào trong tiềm thức xã hội gần một nửa thế kỷ nay. Thói quen của người dân là

hưởng thụ nền tri thức do giáo dục mang lại bằng những chính sách ưu việt của Nhà
nước. Vì vậy, đứng trước những vấn đề của giáo dục, xã hội thường quen đòi hỏi
nhiều hơn mà chưa thấy hết trách nhiệm trong việc tham gia cùng với giáo dục để
phát triển con người.
Hai là, xã hội hóa giáo dục dù sao vẫn còn là vấn đề mới mẻ, nên nhận thức về
nó trong nhân dân và cả đội ngũ những người làm giáo dục cũng chưa thật đầy đủ.
Không ít người vẫn quan niệm rằng: xã hội hóa giáo dục là vận động xã hội đóng
góp công sức và tiền của cho giáo dục. Đây là cách hiểu phiến diện làm sai lệch bản
chất của xã hội hóa giáo dục. Mặt khác, trong quá trình thực hiện chủ trương xã hội
hóa, ở một số đơn vị giáo dục đã bộc lộ tư tưởng lạm dụng tinh thần của xã hội hóa,
tạo ra các khoản thu không hợp lý, không phù hợp với mong muốn của nhân dân,
gây ảnh hưởng xấu và làm tổn thương đến uy tín của ngành Giáo dục – đào tạo.
Chính vì vậy, nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố đối với công
tác xã hội hóa giáo dục ở Hải Phòng từ năm 1996 đến nay có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng, giúp chúng ta có thể hiểu rõ được thực trạng xã hội hóa giáo
dục tại Hải Phòng cũng như sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ thành phố về công tác
này, từ đó có thể rút ra những kinh nghiệm và tìm chọn những giải pháp đẩy mạnh
xã hội hóa giáo dục của thành phố.
Với ý nghĩa trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Đảng bộ thành phố
Hải Phòng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục (1996 -

3


2009)” làm luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
Sản Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục - đào tạo nói chung và vấn đề xã hội hóa giáo dục nói riêng đã và
đang là vấn đề nóng bỏng được xã hội quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu, do vậy, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục được tiếp cận ở nhiều góc độ, với nhiều

phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Xét dưới góc độ nghiên cứu về đường lối giáo dục của Đảng có thể kể đến
các tác phẩm sau: “50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo (1945
- 1995)” của Trần Hồng Quân chủ biên (Nxb Giáo dục, H, 1995); “Phát triển giáo

dục, phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế - xã hội” (Nxb Khoa học xã
hội, H, 1996), “Về giáo dục” (Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000) của Phạm Minh
Hạc; “Ngành giáo dục – đào tạo phía Nam bước vào thế kỷ XXI”
do Đào Trọng Tùng chủ biên (Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, H, 2000)…
Nghiên cứu riêng về vấn đề xã hội hóa giáo dục có tác phẩm như: “Xã hội
hóa công tác giáo dục” của Phạm Minh Hạc (Nxb Giáo dục, H, 1997); “Xã hội hóa
công tác giáo dục – nhận thức và hành động” của Bùi Gia Thịnh, Võ Tấn Quang,
Nguyễn Thanh Bình (Viện khoa học giáo dục, H, 1999); “Xã hội hoá công tác giáo
dục” của Võ Tấn Quang (Nxb Đại học quốc gia, H, 2001)...
Các nhà nghiên cứu khác như GS-TSKH Nguyễn Mậu Bành, PGS Võ Tấn Quang,
TS. Nguyễn Thanh Bình, GS-TSKH Thái Duy Tuyên, TS. Đào Huy Ngân... có
nhiều bài viết về công tác XHHGD. Viện Khoa học Giáo dục nước ta nhiều năm
qua đã tiến hành hệ thống đề tài nghiên cứu về XHHGD, tổng kết kinh nghiệm, xây
dựng đề án XHH giáo dục – đào tạo với những giải pháp
ở tầm vĩ mô nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục ở nước ta. Các công trình trên giúp

chúng ta tìm hiểu rõ về bản chất, vị trí, vai trò cũng như giải pháp để
triển khai công tác xã hội hóa giáo dục có hiệu quả. Tuy nhiên cho tới nay chưa có
một công trình nào nghiên cứu đầy đủ và chi tiết về chủ trương xã hội hóa giáo dục
của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng. Như vậy, đây là một vấn đề cần được đi sâu
nghiên cứu.

4



Các công trình nghiên cứu trên là cơ sở lý luận quan trọng giúp cho người
viết có được cái nhìn rõ nét về con đường phát triển của ngành GDĐT nước ta, về
quá trình ngành GDĐT tổ chức thực hiện đường lối phát triển giáo dục của Đảng
nói chung và xã hội hóa giáo dục nói riêng để từ đó khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp GDĐT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hải Phòng đối với công tác xã hội hóa

giáo dục.
- Kết quả thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục ở thành phố.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đường lối, chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam và các nghị quyết của
Đảng bộ thành phố Hải Phòng về xã hội giáo dục trong những năm 1996 - 2009.
- Những nội dung cụ thể trong việc triển khai thực hiện chủ trương xã hội
hóa giáo dục ở Hải Phòng nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới GDĐT của
thành phố.
- Thành tựu và hạn chế của công tác xã hội hóa giáo dục ở Hải Phòng trong

những năm 1996 - 2009.
- Về thời gian: luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ

thành phố Hải Phòng từ năm 1996 (thời điểm Hải Phòng thực hiện xã hội hóa giáo
dục bước đầu có hiệu quả rõ rệt) đến năm 2009 (thời điểm cập nhập về tình hình
thực hiện xã hội hóa giáo dục ở thành phố).
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

- Thứ nhất, làm rõ các chủ trương của Đảng bộ thành phố Hải Phòng đối với
vấn đề xã hội hóa giáo dục.

5


- Thứ hai, quá trình triển khai thực hiện những chủ trương mà Đảng bộ thành
phố đã đề ra qua hai giai đoạn phát triển 1996 – 2001, 2001 – 2009 của công tác xã
hội hóa giáo dục trên địa bàn thành phố.
- Thứ ba, bước đầu phân tích những bài học kinh nghiệm và đề xuất kiến

nghị phục vụ cho đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục ở Hải Phòng.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp, hệ thống những tư liệu lịch sử có liên quan đến công tác xã hội

hóa giáo dục ở thành phố Hải Phòng trong những năm 1996 – 2009.
- Trình bày quá trình lãnh đạo và chỉ đạo công tác xã hội hóa giáo dục của

Đảng bộ thành phố Hải Phòng trong hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể từ năm
1996 đến năm 2009.
- Phân tích những chủ trương, biện pháp và quá trình tổ chức thực hiện công

tác xã hội hóa giáo dục của thành phố.
- Rút ra những nhận xét về thành tựu, hạn chế trong quá trình triển khai thực

hiện đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác này.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu tham
khảo
5.1. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ


Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về GDĐT nói
chung, xã hội hóa giáo dục nói riêng, đặc biệt là quan điểm về phát triển nguồn lực
con người trong thời kỳ CNH – HĐH và hội nhập quốc tế của
đất nước.
- Phương pháp nghiên cứu đề tài là phương pháp lịch sử và phương

pháp logic. Bằng phương pháp lịch sử, chúng tôi trình bày việc triển khai thực hiện
công tác xã hội hóa giáo dục ở Hải Phòng theo trình tự thời gian, qua từng giai đoạn
cụ thể. Đồng thời, phương pháp logic giúp nghiên cứu các hiện tượng trong hình
thức tổng quát nhằm vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận
động của đối tượng khách quan được nhận thức. Cụ

6


thể, chúng tôi đặt chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng vào thực tiễn thành phố
Hải Phòng để nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố nhằm hiện thực hóa
chủ trương và phát huy cao nhất hiệu quả của chủ trương này.
5.2. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu được sử dụng để nghiên cứu chủ yếu là các văn kiện, nghị
quyết của Đảng, của Thành ủy, HĐND, Quyết định của UBND thành phố Hải
Phòng; các văn bản của Bộ GDĐT; các báo cáo của Sở GDĐT Hải Phòng, Phòng
GDĐT các quận, huyện, thị xã; một số sách, báo của tập thể, cá nhân các nhà
nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Cung cấp nguồn tư liệu cơ bản và từ góc độ lịch sử trình bày một cách có

hệ thống đường lối, chủ trương, biện pháp, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ thành
phố Hải Phòng về xã hội hóa giáo dục trong thời gian từ năm 1996 đến năm 2009.

- Đánh giá thành tựu, hạn chế của công tác xã hội giáo dục ở Hải Phòng

trong thời gian 1996 – 2009.
- Phân tích những bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp, kiến nghị

về công tác xã hội hóa giáo dục trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương, phần phụ lục, danh
mục tài liệu tham khảo.
Chương 1. Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo thực hiện chính sách xã
hội hóa giáo dục giai đoạn 1996 – 2001
Chương 2. Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo đẩy mạnh xã hội hóa
giáo dục giai đoạn 2001 – 2009
Chương 3. Nhận xét chung, bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp

7


NỘI DUNG
Chương 1
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC GIAI ĐOẠN 1996 – 2001
1.1.
1.1.1.

Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hoá và xã hội
Điều kiện tự nhiên

Hải Phòng là một thành phố ra đời từ những năm 70 của thế kỷ XIX. Nền
móng đầu tiên để từ đó Hải Phòng phát triển lên thành đô thị xuất phát từ một làng

chài nhỏ gần cửa sông, ở đó có bến thuyền, trạm thuế quan và đồn canh cửa biển,
với hai chức năng kinh tế và quốc phòng. Sau khi ra đời với vị trí địa lý thuận lợi và
trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, Hải Phòng nhanh chóng phát triển thành thành phố hải cảng có tầm quan trọng lớn về cả mặt kinh tế - chính trị và quân sự trên phạm vi
quốc gia.
Ngày nay, Hải Phòng là thành phố lớn thứ ba của Việt Nam sau thành phố
Hồ Chí Minh và Thủ đô Hà Nội. Thành phố nằm trên bờ vịnh Bắc Bộ, với diện tích
2

tự nhiên khoảng 1.507,6 km , chiếm 0,47% diện tích cả nước, gồm phần đồng bằng
ven biển và phần biển đảo. Phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía Đông Bắc giáp tỉnh
Quảng Ninh, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Tây và Tây Bắc giáp
tỉnh Hải Dương. Hải Phòng tiếp giáp với các địa phương kinh tế phát triển năng
động như Quảng Ninh, Hải Dương, lại cách Thủ đô Hà Nội không xa và là một cực
trong tam giác tăng trưởng kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là Hà Nội –
Hải Phòng – Quảng Ninh nên thành phố có điều kiện thuận lợi học hỏi kinh nghiệm
phát triển kinh tế cũng như giao lưu văn hóa, giáo dục với các địa phương này.
Địa hình Hải Phòng đa dạng, bao gồm vùng biển – hải đảo, đồng bằng ven
biển và miền núi. Đặc điểm này có tác động rõ nét tới sự phân bố dân cư (đông đúc
ở thành phố, các thị trấn và thưa thớt ở vùng miền núi, hải đảo…) cũng như sự phân
bố mạng lưới các trường học. Các địa phương khác nhau có trình độ phát triển kinh
tế khác nhau cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện các

8


chính sách giáo dục, nhất là triển khai chính sách xã hội hóa giáo dục ở vùng sâu,
vùng xa, miền núi, hải đảo.
Hải Phòng là thành phố công nghiệp, có diện tích đất nông nghiệp không
lớn, song có tiềm năng phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH –
HĐH. Với tài nguyên biển và rừng phong phú, thành phố còn có điều kiện phát

triển mạnh ngành du lịch và ngư nghiệp. Với cơ cấu ngành kinh tế đa dạng như vậy,
cùng với quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH ở thành phố, Hải Phòng ngày càng cần
hơn nguồn lao động có số lượng lớn và chất lượng cao. Do vậy, giáo dục – đào tạo
Hải Phòng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của thành phố. Giáo dục – đào tạo không chỉ đào tạo nguồn nhân lực cho Hải Phòng
nói riêng mà còn cho cả những địa phương xung quanh nhằm đáp ứng nhu cầu lao
động lớn của thành phố.
Với vị trí địa lý thuận lợi, thành phố giữ vai trò quan trọng đối với xuất nhập
khẩu qua đường biển của vùng Bắc Bộ, có điều kiện tiếp nhận và ứng dụng nhanh
các thành tựu GDĐT, khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại, kỹ năng về quản
lý. Điều này tác động mạnh đến công tác quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
1.1.2.

Các đặc điểm kinh tế - xã hội

Trong 10 năm 2000 - 2009, kinh tế thành phố phát triển ổn định, tăng trưởng
khá nhanh và toàn diện; quy mô kinh tế được mở rộng, năng lực sản xuất - kinh doanh
được nâng lên, đặc biệt là nội lực. GDP tăng liên tục với tốc độ bình quân 11,1%/năm;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tỷ trọng 2 nhóm
ngành công nghiệp - dịch vụ tăng từ 82,22% năm 2000 lên 90% năm 2009 (tốc độ tăng
bình quân 12%/năm); thị trường xuất khẩu được mở rộng, tăng nhanh về giá trị, chủng
loại sản phẩm với kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 20%/năm (năm 2009 gấp trên 6
lần năm 2000). Thu hút vốn đầu tư phát triển tăng nhanh, bình quân 19,1%/năm. Năng
lực sản xuất của nhiều ngành kinh tế tăng mạnh. Với tốc độ tăng trưởng trên, năm
2009, thu ngân sách thành phố đã tăng hơn 6 lần so với năm 2000, đạt tốc độ tăng
trưởng bình quân là 20,23%/năm, trong đó thu nội địa tăng bình quân 18,83%/năm.
Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn thành phố

9



có sự tăng trưởng vượt bậc, năm 1990 chỉ mới có 527,8 tỷ đồng nhưng đến năm
2000 đã là 5.236,3 tỷ đồng và năm 2007 là 20.055 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội đạt 22.500 tỷ đồng vào năm 2008, góp phần quan trọng thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển [58].
Cơ cấu kinh tế theo ngành đã có sự chuyển dịch đúng hướng với sự tăng rất
nhanh của công nghiệp - xây dựng, dịch vụ và giảm dần của nông - lâm - ngư
nghiệp.
Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ cũng đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm
dần chênh lệch giữa các vùng, mở rộng đô thị, hiện đại hoá nông thôn, phát triển
nhanh vùng ven biển. Quy mô đô thị ngày càng mở rộng, chất lượng đô thị ngày
càng được nâng cao, tập trung nhiều ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ chất lượng
cao. Khu vực nông thôn đã có sự thay đổi cơ bản về chất theo hướng sản xuất hàng
hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của lĩnh vực sản xuất
phi nông nghiệp.
Tỷ lệ đô thị hoá tăng nhanh (dân số đô thị từ 35% năm 2000 lên 48% năm
2009), thành phố lập thêm 2 quận mới và chuyển 1 thị xã thành quận; quy mô và
diện mạo đô thị đã phát triển rõ nét. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn có nhiều chuyển biến. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, nhất là
hạ tầng giao thông, cảng biển được chú trọng đầu tư, theo hướng hiện đại, tạo nền
tảng đẩy nhanh quá trình phát triển Hải Phòng trở thành thành phố cảng, công
nghiệp văn minh, hiện đại. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được được
cải thiện rõ rệt; thu nhập thực tế của người dân năm 2009 gấp hơn 5 lần so với năm
2000; phúc lợi xã hội và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng, tỷ lệ
hộ nghèo giảm nhanh. Đây là cơ sở quan trọng để vận động nhân dân tham gia tích
cực vào công tác xã hội hoá giáo dục của thành phố [14].
Về chất lượng dân cư, nguồn nhân lực, Hải Phòng là địa phương có nhiều lợi
thế hơn các tỉnh, thành phố khác trong cả nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Công
tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được chú trọng về mọi mặt như đổi mới phương

thức hoạt động, hoạt động truyền thông dân số được triển khai đến tận xã, phường

10


nên tỷ lệ sinh giảm rõ rệt: 2,09% (năm 1995), 1,80% (năm 2003), 1,1% (năm 2009)
[14].
Theo số liệu thống kê năm 2009, dân số của Hải Phòng là 1.841.700 người.
Số lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân là 1.453.435 người, trong đó
có 44,4% tổng số lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ; 16% trong
lĩnh vực GDĐT. Số người đang trong độ tuổi đi học là 158. 824 người [14].
Thành phố đã xây dựng được hầu hết các thư viện ở các xã, phường, 190 nhà
văn hóa, cùng với các làng văn hóa được hình thành, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân
trí và tiến bộ xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là phát thanh, truyền
hình, báo chí từng bước được nâng cấp, đầu tư hiện đại.
Trên địa bàn thành phố có 23 bệnh viện, nhiều phòng khám khu vực, 218
trạm y tế xã, phường và hàng trăm cơ sở y tế tư nhân. Tất cả các trạm y tế xã,
phường đều có bác sĩ, y sĩ.
Trên địa bàn Hải Phòng hiện có 4 trường đại học: đại học Hàng Hải Việt
Nam, đại học Y Hải Phòng, đại học Hải Phòng và đại học Dân lập Hải Phòng; 2
viện nghiên cứu: Viện nghiên cứu về biển, Viện Y học biển và 8 trường cao đẳng,
hàng chục trường trung cấp chuyên nghiệp. Về tiềm lực khoa học – kỹ thuật Hải
Phòng đứng thứ hai sau Hà Nội ở đồng bằng sông Hồng và đứng thứ ba trong cả
nước, nhờ đó có thể đào tạo và cung cấp đội ngũ lao động có chất lượng cao cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong phát triển xã hội, gắn với phát triển kinh tế,
song tình hình kinh kế - xã hội thành phố vẫn còn nhiều hạn chế. Kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém so với yêu cầu phát triển của thành phố, còn
nhiều yếu tố tiềm ẩn bất ổn về an ninh xã hội; nhiều vấn đề của xã hội vẫn còn khá
gay gắt như việc làm, tệ nạn xã hội. Chuẩn nghèo của Hải Phòng so với nhiều địa

phương trong cả nước còn thấp (250.000 đồng/người/năm), trong khi Đà Nẵng là
800.000 đồng/người/năm; thành phố Hồ Chí Minh là hơn 1.000.000
đồng/người/năm. Do vậy, nếu tăng mức chuẩn nghèo lên bằng Đà Nẵng, thành phố
Hồ Chí Minh thì tỷ lệ hộ nghèo ở Hải Phòng còn cao.

11


Hải Phòng có dân số trẻ, số người dưới 15 tuổi chiếm 26,96% tổng dân số.
Số người trên 60 tuổi chỉ chiếm 10,49% [14]. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo
còn thấp, đạt 45% . Trình độ học vấn của người dân ở nông thôn còn thấp. Theo báo
cáo của Hội Nông dân thành phố, trình độ nông dân có trình độ cao đẳng, đại học
trở lên là 6%, trình độ THCS trở xuống là 23% (chủ yếu là những người già từ 60
tuổi). Đây là những hạn chế về nguồn nhân lực cần được khắc phục ngay để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố nói chung và đổi
mới sự nghiệp giáo dục – đào tạo nói riêng.
1.1.3. Truyền thống văn hóa – giáo dục
Hải Phòng là một vùng đất ven biển, người Hải Phòng có truyền thống lao
động cần cù và dũng cảm, không chịu khuất phục trước thiên tai, khó khăn và vất
vả. Chính đặc điểm này đã làm nên nét đặc sắc về tính cách, thống nhất trong đa
dạng của người Hải Phòng.
Các thế hệ người Hải Phòng hội tụ trên mảnh đất vùng ven biển và hải đảo
đã tạo dựng nên truyền thống vật chất văn hóa và tinh thần độc đáo. Truyền thống
đó đã và đang được những thế hệ đi sau tiếp thu và phát huy trong điều kiện lao
động mới.
Hải Phòng còn là mảnh đất có truyền thống hiếu học. Trong lịch sử giáo dục
thi cử Nho học của nước ta Hải Phòng đã có 3 người đỗ trạng nguyên. Huyện Thủy
Đường (nay là huyện Thủy Nguyên) có 18 người, huyện Nghi Dương (nay là huyện
Kiến Thụy) có 14, huyện An Lão có 8, huyện An Dương có 7 người, huyện Vĩnh
Lại (nay là huyện Vĩnh Bảo) có 18, huyện Tiên Minh (nay là huyện Tiên Lãng) có

11 người đỗ tiến sĩ [33]. Trong đó có trạng nguyên nổi tiếng là Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm, người đã từng cáo quan về ở ẩn, dạy học và dạy nhiều trò thành tài
như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ…Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phan Huy
Chú đã ghi rằng: “có tài giỏi, lưu tiếng nghìn đời” và sứ nhà Thanh cũng phải khen
“An Nam lý học hữu Trình tuyển” (người An Nam giỏi lý học chỉ có Trình tuyển
hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm).

12


Về văn hóa, lễ hội, các hội làng có những điểm tương đồng với các địa
phương khác trong vùng đồng bằng Bắc Bộ nhưng sự khác biệt là có sự đan xen với
văn hóa vùng biển. Sự dung hòa, đan xen đó làm cho văn hóa Hải Phòng không bị
khép kín mà luôn tiếp nhận những tinh hoa văn hóa từ bên ngoài, tạo nên đặc trưng
phong phú, đa dạng.
Có thể nói truyền thống văn hóa lâu đời là cơ sở tạo nên tinh thần năng động,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, luôn nhạy bén với cái mới của người Hải Phòng, làm
cho họ sớm tiếp thu được tinh hoa của thời đại trước những biến thiên của lịch sử.
Chính vì thế Hải Phòng là một trong những địa phương khởi đầu của quá trình đổi
mới đất nước những năm cuối thế kỷ XX.
Các truyền thống quý báu của địa phương vẫn tiếp tục được bảo tồn và phát
huy đã góp phần to lớn trong sự phát triển của sự nghiệp giáo dục – đào tạo Hải
Phòng thời đại mới.
1.2. Giáo dục – đào tạo Hải Phòng những năm 1986 - 1995
Tháng 12 – 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến
hành. Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước chuyển biến quan
trọng trong nhận thức của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng
ở thành phố Hải Phòng diễn ra trong bối cảnh phức tạp với những điều kiện thuận


lợi và khó khăn, thách thức đan xen, đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo từ
thành phố đến cơ sở phải năng động, sáng tạo và sâu sát với thực tế.
Từ năm 1986, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng đã chủ động đề xuất và
được Ban Chấp hành Trung ương Đảng đồng ý cho Hải Phòng làm thí điểm đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế. Thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội VI của Đảng, Ban Thường vụ Thành ủy đã ra các Nghị quyết chuyên đề triển
khai thực hiện các chương trình kinh tế lớn. Kết quả thực hiện là tình hình kinh tế
của thành phố có nhiều chuyển biến tích cực: năm 1987, tỉ trọng hàng xuất khẩu
chiếm 66%, hàng tiêu dùng 66%, hàng tiêu dùng chiếm 26% trong cơ cấu sản lượng
công nghiệp, có thêm 50 mặt hàng mới phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Năm 1988, giá
trị tổng sản lượng công nghiệp

13


tăng 9,8% so với năm 1987; cơ cấu hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu tăng 9,9%;
lượng hàng hóa thông qua cảng Hải Phòng tăng 300.000 tấn, đạt 2,9 triệu tấn; kim
ngạch xuất khẩu đạt 45,72 triệu rúp – đô la, tăng 19,1% so với năm 1987 [1,188].
Năm 1986, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ IX xác định phương
hướng chung của giáo dục – đào tạo là “nâng cao chất lượng giáo dục, tăng cường
hiệu quả, gắn GDĐT với yêu cầu và khả năng xây dựng kinh tế” [1, tr 21].
Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ X (10/1991) đặt ra
mục tiêu mà ngành GDĐT thành phố hướng tới trong 5 năm 1991 – 1995: “Nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí
thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có tâm
huyết làm cho dân giàu, nước mạnh, có đạo đức cách mạng, yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội [46, tr 48].
Hội nghị đại biểu Đảng bộ thành phố giữa nhiệm kỳ (khóa X) (3/1994) tiếp
tục coi GDĐT là một trong lĩnh vực cần được ưu tiên hàng đầu. Nghị quyết lần này
của Đảng bộ đề cập đến nhiều vấn đề nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi

dưỡng nhân tài như: “Tiếp tục đa dạng hóa các loại hình đào tạo; sắp xếp lại mạng
lưới trường học, cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy, kết hợp chặt chẽ nâng
cao chất lượng văn hóa, tay nghề với đạo đức, nếp sống, kỷ cương pháp luật” [47, tr
42].
Để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, Hội nghị cũng chỉ rõ thành phố
cần phải đầu tư nhiều mặt: trước hết là tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết
bị các trường học. Trong đó để khắc phục tình trạng chênh lệch về chất lượng đào
tạo giữa khu vực thành thị và nông thôn thành phố cần đẩy mạnh xây dựng trường
kiên cố cao tầng ở ngoại thành, tiếp theo phải xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, có nhận thức, quan điểm đúng
đắn, say mê với nghề. Để có nguồn lực đầu tư cho giáo dục, hội nghị chỉ rõ cần thực
hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” đồng thời tăng tỉ lệ ngân sách
cho GDĐT.

14


Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng bộ thành phố, ngành giáo dục
thành phố đã tổ chức thực hiện, biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện
thực, đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Từ năm 1991, giáo dục - đào tạo Hải Phòng đã có nhiều chuyển biến tích
cực, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh chóng của kinh tế - xã hội thành
phố. Quy mô giáo dục được mở rộng, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Có thể nhận định một cách tổng quát là trong thời gian đầu của công cuộc đổi mới,
giáo dục – đào tạo Hải Phòng đã có bước phát triển khá vững chắc.
Số lớp học, trường học và học sinh các cấp đều tăng qua từng năm, thể hiện
quy mô giáo dục ngày càng lớn do quy mô dân số ngày càng tăng và việc huy động
các em trong độ tuổi đến trường đã đạt được hiệu quả cao hơn. Đây là tiền đề quan
trọng bổ sung cho nguồn nhân lực của thành phố cả về số lượng và chất lượng.
Về ngành học phổ thông, các trường phổ thông cơ sở tách ra thành các

trường tiểu học và trung học cơ sở do hệ thống giáo dục – đào tạo được sắp xếp lại
thành bậc tiểu học, trung học và đại học liên thông với nhau. Từ năm 1992, bắt đầu
thí điểm thành lập trường trung học chuyên ban: trường PTTH Ngô Quyền, PTTH
Lê Chân. Trường PTTH Năng khiếu Trần Phú được thành lập năm 1986, trường
chuyên cấp II Vĩnh Bảo được thành lập cuối năm 1992.
Giáo dục bổ túc được giao nhiệm vụ rộng lớn hơn, đổi thành giáo dục thường
xuyên, không chỉ làm nhiệm vụ bổ túc văn hóa như trước đây. Trung tâm giáo dục
thường xuyên huyện Thủy Nguyên thành lập 1993 là trung tâm giáo dục thường
xuyên đầu tiên của Hải Phòng. Về dạy nghề, trong thời kỳ này, đã phát triển được
các trung tâm dạy nghề đến tất cả các quận, huyện, thị xã. Nhiều ngành và đoàn thể
cũng có trung tâm dạy nghề.
Hải Phòng cũng bắt đầu đa dạng hóa các loại hình trường học, đã thành lập
một số trường dân lập, trường bán công, trường tư thục. Việc mở ra nhiều loại hình
trường lớp: bán công, dân lập, tư thục…chính là cách xã hội hóa giáo dục một cách
tích cực nhất ở Hải Phòng trong giai đoạn 1986 - 1995. Ngoài ra, việc xây dựng mô
hình “xưởng – trường – phường” ở các khu vực thành thị - được xem như một điển
hình về xã hội hóa giáo dục một cách toàn

15


diện (tạo nguồn lực, tạo môi trường giáo dục) – cũng bắt đầu được áp dụng ở các
trường phổ thông của Hải Phòng ở giai đoạn này. Điển hình như trường THCS Chu
Văn An (quận Ngô Quyền) đã thiết lập được một mô hình “xưởng
– trường - phòng”, kết hợp chặt chẽ với các cơ sở sản xuất trên địa bàn như Xí
nghiệp nhựa Dân sinh, nhựa Văn An, Hợp tác xã Nam Thái…
Bảng 1.1. Quy mô học sinh – sinh viên giai đoạn 1986 – 1995
Năm học
Học sinh – sinh viên
Nhà trẻ

Mẫu giáo
Cấp I
Cấp II
Cấp III
Đại học, cao đẳng
Trung học chuyên nghiệp
Công nhân kỹ thuật

Nguồn: Sở Giáo dục – đào tạo Hải Phòng
Về giáo dục mầm non, trước đây, nhà trẻ và lớp mẫu giáo phần lớn chi phí là
do Nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp đảm nhận, đến thời điểm này, ở
nông thôn, phần lớn chi phí là do phụ huynh đóng góp, các trường mầm mon đều là
trường dân lập. Ở nội thành, các trường mẫu giáo, nhà trẻ chuyển sang bán công,
phụ huynh các em đóng góp nhiều hơn trước. Ở nông thôn và nội thành đã có
trường mẫu giáo tư thục, các lớp mẫu giáo, nhóm trẻ tư nhân do các phòng giáo dục
quản lý, chất lượng của hệ thống giáo dục mầm non được nâng lên rõ rệt.
Thời kỳ này, Hải Phòng đã có 3 trường dân lập tiểu học bán trú, học 2 buổi;
1 trường trung học cơ sở bán công, 4 trường PTTH dân lập và nhiều lớp bán công,
dân lập ở các trường tiểu học, trung học cơ sở và PTTH.

16


Ngành học phổ thông đã coi trọng việc bồi dưỡng học sinh giỏi, củng cố hệ
chuyên và các lớp chọn. Từ năm 1986 đến năm 1995 thành phố có 2 học sinh đạt
giải ba toán quốc tế, 1 học sinh đạt giải Olimpic tiếng Nga và 1 học sinh đạt giải
Vật lý quốc tế. Năm 1995, thành phố có 83 học sinh đạt giải trong kỳ thi học sinh
giỏi toàn quốc. Năm 1991, Hải Phòng đã được công nhận là thành phố hoàn thành
phổ cập giáo dục tiểu học theo tiêu chuẩn quốc gia.
Về giáo dục chuyên nghiệp, công tác giáo dục dạy nghề có bước phát triển

mới. Tính đến cuối năm 1994, 12 quận, huyện, thị xã và một số ngành, đoàn thể đã
có trung tâm dạy nghề. Đáng chú ý là các trung tâm dạy nghề đã tranh thủ được tài
trợ quốc tế để xây dựng cơ sở vật chất, trang – thiết bị cho trung tâm, làm thay đổi
hẳn bộ mặt các trung tâm. Một số trường dạy nghề và trường trung học chuyên
nghiệp được sắp xếp theo hướng hợp lại để xây dựng thành các đơn vị mạnh.
Trường Đại học Hàng Hải, trường Đại học Tại chức và phân hiệu đại học Y
khoa đều được đầu tư để xây dựng trường sở khang trang và tăng cường trang –
thiết bị, tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục.
Bước vào thời kỳ đổi mới, 100% trường sở ở Hải Phòng đã được “ngói hóa”
nhưng phần lớn vẫn là nhà cấp 4 nên xuống cấp nhanh, trong khi đó, nguồn vốn
ngân sách chi cho GDĐT không đáp ứng đủ. Do đó, thành phố tập trung chỉ đạo
phong trào xây dựng trường sở theo đúng phương châm mà các nghị quyết của
Trung ương Đảng và Đảng bộ thành phố chủ trương: Nhà nước và nhân dân cùng
làm.
Phong trào xây dựng trường kiên cố cao tầng trong thời kỳ này được đẩy
mạnh, đặc biệt là kết quả xây dựng trường kiên cố 2 tầng ở các xã từ năm 1992 đến
năm 1994. Năm 1992, Sở Giáo dục – đào tạo mở hội nghị phát động phong trào xây
dựng trường kiên cố 2 tầng ở các xã. Năm 1991, thành phố mới có 17% số xã có
trường kiên cố hai tầng, nhưng đến cuối năm 1994 đã có
101 xã trong số 159 xã ở ngoại thành có trường kiên cố 2 tầng, đạt tỷ lệ

17


×