Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Giáo dục phổ thông việt nam (1986 2000)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.13 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

TRẦN THỊ NHUNG

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VIỆT NAM
(1986-2000)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

TRẦN THỊ NHUNG

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VIỆT NAM
(1986-2000)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đình Lê

Hà Nội - 2016

2




MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.........................................................................................................
1.

Lý do chọn đề tài ..............

2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

3.

Mục đích và nhiệm vụ ngh

4.

Đối tượng và phạm vi ngh

5.

Phương pháp và nguồn tư

6.

Đóng góp của luận văn ....

7.


Bố cục luận văn ...............

Chương 1: GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM ĐẦU ĐỔI MỚI (1986 – 1993) .............................................................
1.1.

Giáo dục phổ thông Việt N

1.1.1.

Cơ cấu hệ thống giáo dục

1.1.2.

Thực trạng giáo dục phổ th

1.2.

Giáo dục phổ thông Việt N

1.2.1.

Đổi mới cơ cấu hệ thống g

1.2.2. Mở rộng quy mô hệ thống giáo dục ....................................................
1.2.3. Một số chuyển biến về chất lượng giáo dục ở các cấp học ................
Tiểu kết chương 1..........................................................................................
Chương 2: GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM 1993 – 2000 ..........................................................................................

2.1. Thực hiện các biện pháp xây dựng và phát triển giáo dục phổ thông ...
2.2.1. Huy động nguồn lực, xây dựng cơ sở vật chất ...................................
2.1.2. Tăng cường đội ngũ giáo viên ............................................................
2.2. Tiếp tục mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hóa các loại hình trường
lớp………………………………………………………………………….
56
3


2.2.1. Mở rộng quy mô đào tạo.....................................................................56
2.2.2. Đa dạng hóa các loại hình trường lớp.................................................61
2.3. Đổi mới chương trình, phương pháp dạy học, nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục............................................................................................. 68
Tiểu kết chương 2..........................................................................................77
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ.....................................79
3.1. Những thành tựu.................................................................................... 79
3.2. Một số hạn chế....................................................................................... 83
Tiểu kết chương 3..........................................................................................87
KẾT LUẬN...................................................................................................89
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................92
PHỤ LỤC

4


DANH MỤC BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT.

5



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Tỷ lệ học sinh lưu ban bỏ học năm học 1982-1983.
Bảng 1.2: Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học.
Bảng 1.3: Tỷ lệ học sinh lưu ban bỏ học (% tổng số học sinh của cấp
học).
Bảng 2.1: Số lượng giáo viên phổ thông các cấp cả nướctrong những
năm 1996 – 2000.
Bảng 2.2: Số lượng học sinh phổ thông các cấp cả nước trong những
năm 1996 – 2000.
Bảng 2.3: Số lượng trường phổ thông các cấp trên phạm vi cả nước
trong những năm 1996 – 2000.
Bảng 2.4: Tỷ lệ học sinh lưu ban (% tổng số học sinh của cấp học) năm
học 1995 – 2000.
Bảng 2.5: Tỷ lệ học sinh bỏ học năm hcọ 1995 – 2000 (% tổng số học
sinh của cấp học).

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1986 Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, Đảng và
Nhà nước đã nhanh chóng xác định: giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát
triển giáo dục đặc biệt là giáo dục phổ thông được đánh giá là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, là điều kiện để có thể xây dựng và phát huy nguồn nhân lực nhanh
chóng đẩy mạnh quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong những năm
sau đó các nghị quyết về giáo dục tiếp tục được ban hành đã đánh dấu
những bước tiến quan trọng trong nhận thức về tầm quan trọng của giáo
dục phổ thông, những nghị quyết, nghị định này nhanh chóng đi vào cuộc

sống, thúc đẩy nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài phục vụ cho sự nghiệp của đất nước.
Trong công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và bằng những
nỗ lực của toàn thể dân tộc cũng như lòng quyết tâm cao độ trong quá trình
thực hiện, ngành giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu cũng như
những kết quả đáng khích lệ, quy mô trường lớp, số người đi học ở các cấp,
ngành học đều tăng, đội ngũ giáo viên không ngừng được tăng cường nâng
cao cả về chất lượng và số lượng. Tuy nhiên trong một số năm trở lại lại
đây, giáo dục phổ thông Việt Nam đã và đang gặp phải những thách thức,
vấn đề mang tính cấp bách mới như: chạy theo thành tích, quá trình thương
mại hóa giáo dục, nội dung chương trình học quá tải, phương pháp dạy và
học không phù hợp,… Mặt khác, bên cạnh những điểm thuận lợi thì giáo
dục phổ thông Việt Nam cũng gặp phải không ít khó khăn cụ thể đó là sự
chênh lệch về nhu cầu giáo dục cũng như điều kiện để phát triển giáo dục,

7


đào tạo giữa các miền, sự mất cân đối về cơ cấu đội ngũ giáo viên hay kinh
phí để mua sắm các trang thiết bị phục vụ hoạt động giáo dục học tập.
Đứng trước những thách thức và cơ hội trong thời kì đổi mới, nền
giáo dục phổ thông Việt Nam cần phải có những bước tiến mang tính chất
đột phá về cả chất lượng và quy mô giáo dục.
Thông qua nghiên cứu về hệ thống giáo dục phổ thông trong từng
giai đoạn lịch sử có thể giúp Đảng và Ngành giáo dục đúc kết ra những
kinh nghiệm, đề xuất những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc
phục những hạn chế, góp phần tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục tiếp tục
phát triển.
Với lý do đó, tôi đã chọn “Giáo dục phổ thông Việt Nam (1986 –
2000)” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Lịch sử.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xuất phát từ vai trò đặc biệt quan trọng của sự nghiệp giáo dục trong
quá trình phát triển của đất nước nên vấn đề giáo dục luôn luôn là đề tài nhận
được nhiều sự quan tâm, ưu ái và chú ý của nhiều tác giả, nhiều công trình
nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Sau năm 1975 đặc biệt từ khi
Đảng thực hiện công cuộc đổi mới đất nước năm 1986, giáo dục Việt Nam đã
được hợp nhất giữa hai miền. Trong bối cảnh đó một số công trình nghiên cứu
về giáo dục Việt Nam được thực hiện như: Năm 1995 Nhà xuất bản Giáo dục
đã xuất bản cuốn “Giáo dục học” của Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt. Tác
phẩm chủ yếu trình bày về những vấn đề chung của giáo dục học trong đó bao
gồm đối tượng, mục đích giáo dục và phát triển cá nhân hệ thống giáo dục và
phổ cập giáo dục tại Việt Nam cũng như những lý luận dạy học và đánh giá
những kết quả đã đạt được trong quá trình thực

8


hiện đổi mới giáo dục. Cuốn “Tổng kết giáo dục 10 năm (1975 – 1985)”
của Bộ Giáo dục và đào tạo do NXB Giáo dục ban hành vào năm 1986, đã
nhanh chóng tổng kết công tác giáo dục của Việt Nam sau 10 năm giành
được độc lập, giải phóng dân tộc, cũng như những nhận xét phân tích tình
hình giáo dục Việt Nam trong giai đoạn này, trong đó cuốn sách có đề cập
đến tình hình phát triển của ngành giáo dục phổ thông Việt Nam.
Năm 1996, Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành cuốn “Tổng kết đánh
giá 15 đổi mới giáo dục (1986 – 1996)”, thông qua đây đã tổng hợp được
những báo cáo của các địa phương sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới
giáo dục. Trong đó các thành tích giáo dục của mỗi địa phương được trình
bày một cách có hệ thống và cụ thể.
Một số cuốn như: “35 năm phát triển giáo dục phổ thông” của tác giả
Võ Thuần Nho; “Sơ thảo về giáo dục Việt Nam (1945 – 1990)” và cuốn “Phát

triển giáo dục – Phát triển con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” đồng tác giả Phạm Minh Hạc; “Những bài nói và viết về giáo
dục” của tác giả Nguyễn Văn Huyên hay cuốn “Tri thức Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới xây dựng đất nước” của Tổng bí thư Đỗ Mười … Cũng đề cập
đến vấn đề giáo dục, năm 1986 Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội đã xuất bản
cuốn sách “Một số vấn đề về giáo dục và khoa học giáo dục” của Phạm Minh
Hạc. Cuốn sách là tác phẩm tập hợp những bài báo cáo khoa học và những bài
nói tập trung làm sáng tỏ các vấn đề về vị trí vai trò của giáo dục đối với cuộc
cách mạng đang tiến hành ở Việt Nam. Đồng thời tác phẩm cũng chỉ ra được
đối tượng của giáo dục và khoa học giáo dục. Tính chất nhiệm vụ của nhà
trường đối với sự nghiệp phát triển và xây dựng giáo dục, khoa học giáo dục.
Năm 2008 Nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã cho ra đời cuốn “Lịch sử giáo
dục Việt Nam” của TS Bùi Minh Hiền. Tác phẩm đã

9


trình bày một cách có hệ thống các giai đọan phát triển của giáo dục Việt Nam
đồng thời cũng xác định mục tiêu, định hướng nhằm phát triển giáo dục Việt
Nam trong giai đoạn mới. Năm 2010 Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã xuất
bản cuốn “Giáo dục và phát triển nguốn nhân lực trong thế kỉ XXI” của tác
giả Trần Khánh Đức. Tác phẩm đã nêu ra những chủ trương, mục tiêu, nhiệm
vụ của giáo dục Việt Nam trong thế kỉ XXI. Song song với đó tác phẩm cũng
xác định rõ vị trí, vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển giáo dục
của đất nước, tác phẩm đưa ra những định hướng, đề xuất mới nhằm thúc đẩy
giáo dục Việt Nam phát triển phù hợp với giai đoạn mới.


Việt Nam xu hướng nghiên cứu về thực trạng giáo dục và những


thành tựu cũng như những thách thức khó khăn ngành giáo dục gặp phải và
sau đó đưa ra những đề xuất, cải tổ nhằm làm thay đổi chúng là một xu hướng
vận động chung được giới nghiên cứu lựa chọn làm hướng nghiên cứu của
mình trong suốt chiều dài của sự phát triển lịch sử giáo dục nói chung và của
giai đoạn 1986 đến năm 2000 nói riêng trên các tạp chí văn hóa – xã hội và
giáo dục phổ biến. Trong số các tạp chí có bài viết đề cập đến vấn đề giáo dục
thì có những tạp chí có mật độ bài viết dày đặc các bài nghiên cứu viết về các
vấn đề văn hóa, giáo dục lúc bấy giừ phải kể đến như: Tạp chí giáo dục, Tạp
chí khoa học hay Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Tạp chí khoa học xã hội… Các
bài viết về giáo dục Việt Nam trên các tạp chí này có những giá trị như một
công trình khảo cứu có giá trị to lớn về mặt tư liệu cũng như độ chuyên sâu về
giáo dục Việt Nam từ khi Đảng bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới. Ngoài
những công trình nghiên cứu trên các tạp chí thì tại một số trường Đại học
cũng xuất hiện các bài viết dưới dạng các bài viết chuyên khảo của các giảng
viên, cán bộ của các trường như: Tinh thần dân tộc trong cải cách giáo dục ở
Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu XX của PGS.TS Vũ Quang Hiển và
PGS.TS.Trần Viết Nghĩa; Văn hóa giáo dục Việt Nam đi
10


về đâu? của Thu Giang và Nguyễn Duy Cần hay bài viết của Nguyễn Thị
Thanh Hương với tiêu đề Phát triển hệ thống giáo dục phổ thông ở Việt
Nam từ năm 1975 đến nay được đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội số II
(171) năm 2012.
Đối với giáo dục phổ thông cũng đã có một số công trình như: “Mối
quan hệ đặc trưng giữa sự gia tăng dân số và quy mô phát triển giáo dục
phổ thông ở Việt Nam” của Định Thị Minh Tuyết (Luận án tiến sỹ Giáo dục
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2001). “Hoàn thiện cơ chế quản lý
tài chính đối với Giáo dục phổ thông ở Hà Nội” của Nguyễn Duy Phong
(Luận án tiến sỹ Kinh tế năm 2003). “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả

hoạt động của hệ thống thông tin quản lý Giaó dục phổ thông” của Vương
Thanh Hương (Luận án tiến sỹ giáo dục năm 2003). “Một số biện pháp sử
dụng nguồn lực tài chính nhằm phát triển Giaó dục phổ thông trong giai
đoạn hiện nay” của Lê Xuân Trường (Luận án tiến sỹ Giáo dục học năm
2004). Các công trình nghiên cứu về giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả
nước, đã cung cấp cho tác giả luận văn những hiểu biết chung về đặc điểm,
tình hình giáo dục phổ thông Việt Nam trong những năm qua.
Các công trình nghiên cứu về lịch sử ngành giáo dục nói chung và giáo
dục phổ thông nói riêng là nguồn tư liệu quan trọng để học viên có thể thực
hiện tìm hiểu, nghiên cứu về đề tài giáo dục phổ thông việt Nam từ năm
1986 đến năm 2000. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một công trình nào
thuộc mã ngành Lịch sử Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống về giáo
dục phổ thông Việt Nam từ 1986 đến năm 2000.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.

Mục đích nghiên cứu

11


Phục dựng một cách có hệ thống những chuyển biến quan trọng của
hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam từ 1986 đến năm 2000, từ đó rút ra
một số nhận xét nhằm cung cấp thêm căn cứ khoa học cho việc hoạch định
chủ trương, chính sách đối với giáo dục phổ thông Việt Nam trong những
năm tiếp theo.
3.2.


Nhiệm vụ nghiên cứu

Tập hợp các nguồn tư liệu về giáo dục phổ thông Việt Nam từ 1986
đến năm 2000.
Trình bày khái quát những chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với
sự nghiệp Giáo dục – đào tạo và sự vận dụng trong quá trình thực hiện
những chủ trương trên.
Phục dựng lại những hoạt động chủ yếu của giáo dục phổ thông Việt
Nam từ năm 1986 đến năm 2000.
Phân tích những thành tựu và những yếu kém của giáo dục phổ thông
Việt Nam trong những năm thực hiện đổi mới đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động của hệ thống giáo
dục phổ thông Việt Nam từ 1986 đến 2000 bao gồm: giáo dục Tiểu học,
Trung học cơ sở, Trung học phổ thông.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Về mặt nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những chuyển biến
quan trọng về cơ cấu hệ thống, quy mô và chất lượng giáo dục.

12



Về không gian: Luận văn nghiên cứu về giáo dục phổ thông ở Việt
Nam.
Về mặt thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về giáo dục phổ
thông ở Việt Nam từ năm 1986 cho đến năm 2000. Năm 1986 là năm Việt
Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước nói chung và đổi mới giáo dục
nói riêng. Năm 2000 là năm đất nước bước đầu hoàn thành những nội dung
cơ bản phát triển giáo dục trong giai đoạn đầu đổi mới.
5.

Phương pháp và nguồn tư liệu nghiên cứu

5.1.

Nguồn tư liệu

Nguồn tư liệu: gồm có nguồn tư liệu gốc và các nguồn tư liệu khác
cụ thể như sau:
Nguồn tư liệu gốc quan trọng nhất và sử dụng chủ yếu nhất trong
luận văn chính là các tư liệu được khai thác từ các Phông Lưu trữ hiện được
bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III. Đây là khối lượng tài liệu gốc
mà dựa vào đó tác giả luận văn có thể có cơ sở để phục dựng lại bức tranh
về giáo dục Việt Nam trước đổi mới và những yêu cầu đặt ra đối với giáo
dục phổ thông. Bên cạnh nguồn tư liệu gốc ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
III, luận văn đã khai thác và sử dụng một nguồn tư liệu khác gồm: sách và
tư liệu, các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ về lịch sử Việt Nam hiện đại
của các tác giả đi trước cùng với các tác phẩm, bài viết của nhiều tác giả
trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, kết hợp phương
pháp logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh, và mô tả

và điền dã…
6.

Đóng góp của luận văn
13


-

Luận văn phác họa lại quá trình phát triển của giáo dục phổ thông

Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2000.
-

Luận văn góp phần tìm hiểu những thành tựu và hạn chế của giáo

dục Việt Nam nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng.
-

Bên cạnh đó luận văn góp phần bổ sung và làm phong phú thêm

nguồn tài liệu lưu trữ nhằm phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và tổng kết về
lịch sử Việt Nam trong giai đoạn tiến hành đổi mới cũng như lịch sử giáo
dục phổ thông Việt Nam.
7.

Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn
được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1. Giáo dục phổ thông Việt Nam trong những năm đầu đổi mới
(1986 – 1993)
Chương 2. Giáo dục phổ thông Việt Nam trong những năm 1993 - 2000.
Chương 3. Một số nhận xét và đánh giá.

14


Chương 1: GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM ĐẦU ĐỔI MỚI 1986 – 1992
1.1. Giáo dục phổ thông Việt Nam trước năm 1986
1.1.1. Cơ cấu hệ thống giáo dục phổ thông trước 1986
Trước đổi mới cơ cấu hệ thống giáo dục phổ thông trước năm 1986 có
nhiều chuyển biến điều này được thể hiện khá rõ qua các lần thực hiện cải
cách giáo dục. Từ năm 1956 đến năm 1976, tại miền Bắc Việt Nam, theo
quy định của Bộ Giáo dục cụ thể dựa theo Nghị định 596 ngày 30/8/1956
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên các trường phổ thông sẽ tổ
chức theo hệ thống trường phổ thông 10 năm. Hệ thống trường phổ thông
10 năm chia làm 3 cấp học, cấp 1: 4 năm: từ lớp 1 đến lớp 4, cấp 2: 3 năm:
từ lớp 5 đến lớp 7, và cấp 3: 3 năm: từ lớp 8 đến lớp 10. Năm học gồm 9
tháng và chia làm 4 học kỳ: Học kỳ 1 từ ngày 1 tháng 9 đến ngày 30 tháng
10

(2 tháng). Học kỳ 2 từ ngày 2 tháng 11 đến ngày 31 tháng 12 (2 tháng).

Học kỳ 3 từ ngày 4 tháng 1 đến ngày 2 tháng 3 (2 tháng). Học kỳ 4 từ ngày
5

tháng 3 đến ngày 31 tháng 5 (3 tháng)1.
Tháng 4 năm 1975 cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập và thống nhất đất


nước của nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi hoàn toàn. Ngay sau khi
đất nước giành được độc lập, đối với lĩnh vực giáo dục nói chung và giáo
dục của miền Nam nói riêng, Chính phủ đã tập trung vào hai nhiệm vụ
chính: một là cơ cấu lại hệ thống giáo dục phổ thông, hai là thực hiện xóa
mù chữ cho nhân dân trong độ tuổi 12 – 50 tuổi. Khi đất nước thống nhất ở
Việt Nam có hai cấu trúc hệ thống giáo dục song song tồn tại và có nhiều
điểm khác biệt: Miền Bắc tiếp tục hệ 10 năm và miền Nam tiếp tục hệ 12
năm. Sự khác nhau về hệ thống cơ cấu giáo dục đòi hỏi Đảng và Ngành
1 Nguồn: Nghị định 596.
15


giáo dục phải nhanh chóng có biện pháp cụ thể để thống nhất hệ thống giáo
dục phổ thông tại hai miền theo một cơ cấu hệ thống thống nhất trong cả
nước.
Căn cứ vào xu thế chung, Đảng và Nhà nước đã quyết định chuyển hệ
thống giáo dục phổ thông sang hệ 12 năm. Nhiệm vụ này được tiến hành
từng bước. Bước sang năm 1981 cơ cấu hệ thống giáo dục miền Bắc có sự
điều chỉnh chuyển sang hệ 11 năm. Ở cấp 1 nay điều chỉnh số năm học từ 4
năm thành 5 năm (thêm lớp 5)2.
Bên cạnh việc thống nhất cơ cấu hệ thống giáo dục hai miền và cố
gắng hoàn thiện, phủ kín các trường cấp I trên cả nước, Ngành còn chuẩn bị
các điều kiện để tách các trường cấp II ra khỏi trường cấp III, hình thành
nên trường trung học cơ sở (cấp II).
Tính đến năm học 1980 – 1981 trên phạm vi cả nước số trường PTCS
bao gồm cả cấp 1 và cấp 2 còn tồn tại khá nhiều khoảng 11.240 trường [42,
tr.308]. Ngành giáo dục phổ thông đã từng bước thực hiện công tác tách
trường cấp I khỏi cấp II và hình thành trường tiểu học cấp I và THCS riêng
biệt. Từ năm học 1981 – 1982 số trường PTCS bao gồm cả cấp I và cấp II

có xu hướng giảm tuy nhiên tốc độ giảm còn chậm và chưa ổn định so với
năm 1980 – 1981 số trường này đã giảm 104 trường. Đến năm 1985 – 1986
số trường PTCS giảm xuống còn 9.851 trường trong đó có khoảng 334.560
lớp học3.
Trong quá trình triển khai cuộc cải cách giáo dục lần ba đã gặp rất
nhiều khó khăn và bộc lộ một số hạn chế. Hạn chế lớn nhất là, mục tiêu và
2Nghị định 596.
3 Trích nguồn “số liệu thống kê giáo dục và đào tạo 1945 – 1995” của Bộ giáo dục và đào tạo, Trung tâm
thông tin và quản lý giáo dục năm 1995.

16


giải pháp thiếu tính khả thi điều này được thể hiện rõ trong việc tiến hành
kế hoạch hóa tập trung quan liêu, là việc sáp nhập trường cấp I và cấp II
thành trường phổ thông cơ sở 9 năm. Vì các điều kiện thực tế không cho
phép nên những trường lớp đã sáp nhập sau một thời gian đều phải tách trở
lại. Mặt khác thời kì này tư tưởng, quan niệm bao cấp vẫn còn nặng nề,
nhấn mạnh giáo dục là “phúc lợi xã hội” chính điều này đã cản trở sự phát
triển giáo dục. Ngoài ra hạn chế còn được thể hiện trong việc ngành giáo
dục muốn phát triển quy mô lớn, muốn bao cấp về giáo dục cho mọi đối
tượng, muốn phổ cập giáo dục toàn dân… Trong khi đó lại thiếu sự chuẩn
bị về nguồn lực và thực sự không thể đảm bảo về nguồn lực do chiến tranh
biên giới và kinh tế suy thoái.
1.1.2. Thực trạng giáo dục phổ thông Việt Nam trước năm 1986
Quy mô hệ thống giáo dục phổ thông trước năm 1986
Sau ngày giải phóng, Việt Nam phải tiếp quản và cải tạo hệ thống các
trường phổ thông cũ ở miền Nam, xây dựng phát triển ngành học phổ thông
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc cũng như trên phạm vi cả nước. Mạng lưới
trường phổ thông, nhất là trường cấp I và cấp II đã được mở rộng ở khắp

các huyện xã, đảm bảo cho hầu hết trẻ em trong tuổi đi học có thể đến
trường. Giáo dục phổ thông 10 năm đầu sau ngày giải phóng phát triển khá
mạnh, nhưng không đồng đều ở các vùng, các cấp học và trong từng giai
đoạn khác nhau.
Giáo dục tiểu học (cấp 1): Trong 10 năm qua mạng lưới trường, lớp
cấp I đã trải khắp các địa bàn. Mỗi xã đều có một trường phổ thông cơ sở
hai cấp4 hoặc ít nhất cũng có cấp I. Trên phạm vi cả nước tốc độ phát triển
mở rộng quy mô trường, lớp ở các tỉnh miền Nam khá nhanh. Đây là một
4 Trường phổ thông cơ sở hai cấp có nghĩa là : trường phổ thong cơ sở liên cấp gồm cả cấp 1 và cấp 2
17


trong những điều kiện quan trọng để trẻ em đến tuổi đi học được thỏa mãn
nhu cầu học tập.
Trong năm học đầu tiên sau khi đất nước thống nhất 1975 – 1976 quy
mô học sinh trong cả nước là 10.831 nghìn học sinh tham gia học tập ở cả
ba cấp học. Đến năm 1985 – 1986 số học sinh trên phạm vi cả nước đã lên
đến 12.034 nghìn học sinh [42, tr.307]. Nhìn chung trên phạm vi cả nước số
học sinh tham gia học các cấp tăng không nhanh, nhưng ổn định và đều
đặn. Việc huy động trẻ em trong độ tuổi đến trường tham gia học tập đạt
khoảng 98% ở khu vực miền xuôi và 80% ở khu vực miền núi. Tính đến
năm 1985 nhiều tỉnh, địa phương đã phổ cập Tiểu học về cơ bản, nhất là ở
các thành phố và khu vực đồng bằng như Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên và
Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh…
Cấp Tiểu học và THCS tính đến “năm 1983 có 8,1 triệu học sinh. Tại
20 tỉnh đồng bằng, trung du miền Bắc, miền trung và các tỉnh thành phố lớn
có trên 70% số trẻ em trong độ tuổi đi học. Còn lại 20 tỉnh thành thuộc
đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, mới có từ 50 –
60% số trẻ em đi học. Ở vùng cao, biên giới phía Bắc tỷ lệ này còn thấp
hơn (từ 20 -30%), nhiều xã chỉ có đến lớp 2 từ nhiều năm nay. Đáng chú ý

nhất là tỷ lệ học sinh lưu ban còn cao.” [56, tr.3].
Bảng 1.1: Tỷ lệ học sinh lưu ban bỏ học năm học 1982-1983.

Cấp học
Tiêu chí
Lưu ban
Bỏ học


Nguồn: [45, tr.3].
Có thể nói quy mô, mạng lưới trường phổ thông cơ sở cấp II khá dày,
đủ để thu nhận số lượng học sinh đã hoàn thành chương trình cấp I. Năm
học 1984 – 1985 tổng số trường phổ thông cơ sở trên phạm vi cả nước là
12.265 trường, trong đó trường chỉ có cấp II là 179 trường [10, tr.21]. Tính
đến năm 1985 có 62 trường lá cờ đầu của cả nước cũng như của 40 tỉnh,
thành và có hàng trăm trường tiên tiến xuất sắc của các tỉnh và hàng nghìn
trường tiên tiến của cấp huyện. Đây là những trường có tiến bộ rõ rệt trong
việc đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện.
Đối với giáo dục tại hệ thống các trường trung học phổ thông (cấp III):
là cấp học hoàn chỉnh chương trình phổ thông, trực tiếp chuẩn bị mọi mặt
cho học sinh trở thành những người công dân, lao động… hay những hành
trang để tiếp tục bước vào cánh cổng đại học và chuyên nghiệp. Chính vì
điều này mà quy mô hệ thống các trường phổ thông cấp III đã không ngừng
được mở rộng. Năm học 1985 – 1986 cả nước ta có khoảng 666 trường phổ
thông trung học rải khắp các huyện [42, tr.308], có huyện có tới 3-4 trường,
với khoảng 17,4 nghìn lớp học, 854,3 nghìn học sinh [42, tr.310]. Như vậy
quy mô số lượng học sinh cấp III trong 10 năm đầu sau ngày giải phóng
tăng một cách đều đặn nhất là ở các tỉnh phía Nam, vì ở đây trước năm
1975 số trường cấp III vẫn còn quá ít, mặt khác chúng lại tập trung ở những
thành phố.

Cơ sở vật chất – kỹ thuật
Cơ sở vật chất – kỹ thuật là một trong những yếu tố tối thiếu để tiến
hành phát triển công tác giáo dục phổ thông ở các trường. Với những nhận
thức đó, trong mười năm đầu sau ngày đất nước thống nhất, vận dụng một

19


cách sáng tạo, chủ động các chủ trương, phương châm Nhà nước cùng với
các cơ quan chính quyền, nhân dân đã cùng nhau chăm lo cho sự nghiệp
giáo dục, ngành giáo dục đã có những bước tiến lớn trong việc xây dựng,
sửa chữa, bảo quản, nâng cấp cơ sở vật chất – kỹ thuật của ngành, phấn đấu
từng bước làm cho “trường ra trường, lớp ra lớp”. Kết quả là tính đến năm
1985 Ngành giáo dục đã có hàng vạn trường rải khắp địa bàn cả nước. Tuy
nhiên cơ sở vật chất nói chung ; hệ thống trường, lớp nói riêng sau năm
1975 vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Hệ thống trường lớp học kiên cố chưa
có nhiều chủ yếu vẫn được xây cất một cách tạm bợ bằng tre, nứa, lá là chủ
yếu không đảm bảo về môi trường học tập giảng dạy cho học sinh và giáo
viên.
Hệ thống trường, lớp
Bước ra khỏi cuộc chiến tranh đất nước giành được độc lập, non sông
thu về một mối, cả nước phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề về
người và của. Chính vì vậy sau ngày giải phóng thống nhất đất nước Ngành
giáo dục phải tiếp quản một hệ thống cơ sở vật chất trường lớp trong tình
trạng thiếu thốn, nghèo nàn và vô cùng lạc hậu. Do đó để chuẩn bị cho năm
học mới với khí thế hào hứng cùng sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự
nhiệt tình của nhân dân đã dấy lên một phong trào xây cất trường lớp tạm
thời bằng mọi vật liệu có được đã được triển khai đặc biệt là ở các trường
học thuộc các tỉnh phía Nam. Bên cạnh đó hệ thống các trường học từ trước
bị chiến tranh tàn phá không ngừng được sửa chữa và mở rộng. Chỉ trong

một thời gian ngắn đã có hàng loạt các phòng học được cất lên từ nhiều
nguồn nguyên liệu khác nhau như: cây, lá, tre, nứa…ở khắp các địa bàn cả
nước nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.

20


Việc cải tạo các cơ sở trường tư đã diễn ra một cách thuận lợi. Với
mục tiêu đảm bảo việc học tập của học sinh cũng như người dân trên phạm
vi

cả nước. Ngành giáo dục cũng lãnh đạo các tỉnh thành phố cần nhạy bén

tuyên truyền, vận động các chủ sở hữu các cơ sở trường tư, đặc biệt là các
cơ sở giáo dục do tôn giáo quản lý đã tự nguyện giao trường lớp cho chính
quyền cách mạng dưới hình thức hiến hoặc cho mượn lâu dài. Cũng từ đây
Ngành giáo dục tiếp tục sử dụng và đưa các trường tư vào hoạt động dưới
hình thức công lập hóa nhằm mục đích tách trường lớp khỏi ảnh hưởng của
tôn giáo và chủ trương đưa dần toàn bộ trường tư vào sự quản lý của Nhà
nước.
Mặc dù ngành giáo dục đã không ngừng nỗ lực mở rộng quy mô
trường lớp phục vụ hoạt động dạy và học của thầy và trò nhưng giữa sự
phát triển về số lượng học sinh và quy mô trường lớp không có sự đồng bộ
nên nhiều địa phương xảy ra tình trạng thiếu chỗ ngồi cho học sinh hoặc sĩ
số lớp học vượt quá mức quy định. Tình trạng học ba ca/ngày vẫn còn tồn
tại ở nhiều địa phương. Đây là một trong những yếu tố góp phần làm giảm
chất lượng, hiệu quả giáo dục trong suốt những năm qua.
Trang thiết bị phục vụ hoạt động giáo dục
Trong bối cảnh vô cùng khó khăn thì vấn đề trang thiết bị giáo dục là
một trong những vấn đề nan giải đối với Ngành giáo dục cũng như hệ thống

các trường phổ thông. Kinh tế Nhà nước thực chất chỉ đáp ứng được một
phần nhu cầu của Ngành nên việc đầu tư cho giáo dục đặc biệt là việc xây
dựng hệ thống trường lớp còn nhiều hạn chế chỉ tập trung tu sửa, xây cất
phòng học bằng cây, tre, lá tạm thời, bán kiên cố… đầu tư về trang thiết bị
giáo dục còn quá ít. Đây là một trong số những nguyên nhân làm chậm

21


quá trình phát triển của giáo dục đòi hỏi ngành giáo dục phải có hướng giải
quyết nhằm khắc phục tình trạng chung của các trường.
Từ năm học 1979 – 1980 đáp ứng cho nhu cầu cải cách giáo dục thiết
bị dạy học cho các trường phổ thông thời kì này cũng được chú ý hơn. Từ
Bộ giáo dục cho đến các tỉnh đều có các cơ quan chuyên lo về việc sản
xuất, cung ứng, hướng dẫn tổ chức quản lý, sử dụng trang thiết bị dạy học
cho các trường phổ thông. Bộ giáo dục đã ban hành quy chế bảo quản đồ
dùng dạy học và bằng cách này đã nhanh chóng khuyến khích các thầy cô
giáo cải tiến đồ dùng dạy học. Để có thể phục vụ tốt cho công tác giảng dạy
cũng như hưởng ứng cuộc vận động làm đồ sung dạy học của Bộ, mỗi giáo
viên đều tự làm đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết học của mình và đồng
thời với đó chính là việc bổ sung đồ dùng dạy và học chung cho nhà
trường. Tuy nhiên chất lượng đồ dùng, trang thiết bị giáo dục còn nhiều hạn
chế do được làm thủ công, không có sự chuyên nghiệp và kỹ thuật nên tính
chính xác và phát huy hiệu quả của các trang thiết bị giáo dục chưa cao, chỉ
mang tính chất tạm thời, nếu để sử dụng lâu dài trong quá trình giảng dạy,
học tập thì không có tính khả thi.
Cùng với đó công tác biên soạn in ấn và phát hành sách cũng đạt
những thành tựu đáng kể. Bộ giáo dục đã chuyển đến các địa phương, các
cơ sở giáo dục phổ thông 344.897.000 bản sách giáo khoa các loại trong đó
có khoảng hơn 62.176.000 [11, tr.212] bản sách giáo khoa cải cách giáo

dục, sách dân tộc và sách ngoại ngữ, hơn 4 triệu tập san nghiên cứu giáo
dục, chuyên san cấp I, II và mẫu giáo, báo giáo viên nhân dân nhằm đáp
ứng một phần yêu cầu về học tập, giảng dạy, nghiên cứu, chỉ đạo. Tuy
nhiên số lượng sách giáo khoa được in ấn, biên soạn chưa đủ để có thể cung
ứng được hết cho các trường đặc biệt là các trường thuộc vùng sâu,

22


vùng xa… Bên cạnh đó ngành giáo dục đã kiên trì thực hiện chủ trương xây
dựng thư viện và tủ sách trường học nhằm phục vụ tốt công tác học tập
giảng dạy, bảo quản sách nhằm sử dụng lâu dài sổ sách đã xuất bản. Các
nguồn tài liệu trong thư viện các trường vẫn chủ yếu là các loại sách giáo
khoa, sách giáo viên…các đầu sách tham khảo, mở rộng kiến thức cho học
sinh, giáo viên vẫn còn hạn chế về số lượng. Tính đến năm học 1983 –
1984 số trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học có thư viện đã tăng
lên so với những năm học trước, số thư viện của trường phổ thông trung
học đạt chuẩn theo quy định về thư viện ngày một nhiều.
Nội dung chương trình.
Nội dung chương trình giáo dục phổ thông trong những năm 1975 –
1985 là giáo dục toàn diện, bao gồm giáo dục chính trị và đạo đức cách
mạng, giáo dục văn hóa khoa học, giáo dục kỹ thuật, giáo dục lao động,
giáo dục thể chất. Trong đó công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức
được đưa lên hàng đầu. Thời kì trước đổi mới các hoạt động giáo dục về thể
dục, thể thao, các môn khoa học vẫn chưa thật sự được chú trọng và quan
tâm đúng mức, nhiều môn học vẫn bị coi nhẹ. Thời kì trước đổi mới giáo
dục của Việt Nam nói chung vẫn mang tính chất giáo dục truyền thống, coi
trọng, nặng nề về lý thuyết, hoạt động giáo dục chỉ chú trọng đến định
hướng đầu vào chưa gắn liền với thực tiễn xã hội, các môn văn hóa ở một
số cấp học còn quá tải, đôi khi bị cắt xén, giản lược ở nhiều bộ môn. Chính

vì vậy kiến thức học sinh thu nhận được đã ít ỏi nay lại không vững chắc
thiếu tính hệ thống. Điều này ít nhiều làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo
dục của Việt Nam.
Chất lượng giáo dục.

23


Dựa theo những phát triển về đội ngũ giáo viên, quy mô trường, lớp
học thì chất lượng giáo dục phổ thông các cấp cũng có nhiều chuyển biến.
Trải qua ba cuộc cải cách giáo dục, đặc biệt là cuộc cải cách giáo dục năm
1979, chất lượng giáo dục phổ thông giai đoạn 1975 – 1985 có nhiều biến
chuyển. Tại các trường tiên tiến và các trường thực hiện thí điểm chương
trình cải cách giáo dục chúng ta thấy học sinh được tham gia học tập, rèn
luyện về nhiều mặt, học sinh chăm ngoan hơn, đạt nhiều thành tích cao
trong suốt quá trình học tập. Tại những lớp tiến hành thay sách giáo khoa
thí điểm những vấn đề như: nề nếp, kỷ luật đều được học sinh thực hiện
một cách nghiêm túc và có hiệu quả hơn những năm trước. Chất lượng giáo
dục ở những lớp thay sách hơn hẳn những lớp vẫn học theo chương trình
sách giáo khoa cũ. Điều này được thể hiện khá rõ trong chất lượng giáo dục
của khối học sinh lớp 1 chất lượng giáo dục môn toán của học sinh đạt
khoảng 80%, học vần và tập đọc đạt 70%, tập viết đạt 50% [8, tr.50]. Ở các
lớp thuộc giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông cũng
có nhiều chuyển biến. Tỷ lệ học sinh khá giỏi ngày một nhiều hơn. Hàng
năm tỷ lệ học sinh thi đỗ tốt nghiệp và tham gia học tại các trường đại học,
cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ngày càng nhiều. Số học sinh tham gia
các kì thi mang tính chất quốc tế đạt giải ngày càng cao.
Bên cạnh những điểm đã đạt được phải nhìn nhận một cách thẳng
thắn, công bằng rằng chất lượng giáo dục phổ thông của Việt Nam trong 10
năm đầu có nhiều chuyển biến nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập chưa

được thực hiện và giải quyết. Tại những trường cấp I mặc dù số lượng học
sinh hằng năm vẫn được nâng lên, tỷ lệ học sinh theo học đúng độ tuổi có
tăng nhưng sự phát triển này giữa các địa bàn, khu vực là không đồng đều.
Tại một số tỉnh, vùng nhiều trường đã hoàn thành chương trình phổ cập
giáo dục cấp I và đang đi vào giai đoạn phổ cập giáo dục cấp II thì trên
24


phạm vi cả nước ở một số địa bàn các tỉnh còn gặp khó khăn trong vấn đề
kinh tế - xã hội việc phổ cập giáo dục cấp I còn gặp phải nhiều khó khăn.
Điển hình như một số tỉnh của khu vực đồng bằng sông Cửu Long tỷ lệ trẻ
em đi học cấp I đúng độ tuổi cao nhất cũng chỉ đạt khoảng 60%. Ở một số
tỉnh thuộc vùng miền núi, các tỉnh khu vực phía Bắc dao động trong
khoảng 20 – 30%. Cũng có những xã trẻ em chưa học qua lớp 2 [10, tr.17].
Như vậy, tại những vùng như vậy tỷ lệ tái mù chữ ở trẻ em là khá cao.
Ngoài ra hiện tượng lưu ban, bỏ học ở các trường phổ thông vẫn còn khá
cao. Trên phạm vi cả nước tỷ lệ học sinh lưu ban và bỏ học của các trường
phổ thông cơ sở cấp I có xu hướng giảm. Năm học 1984 – 1985 số học sinh
lưu ban toàn cấp trên phạm vi cả nước là 8,44% 5. Trong đó ở cấp tiểu học
tình trạng lưu ban ở khối lớp 1 là một vấn đề đáng lo ngại, năm học 1982 –
1983 tỷ lệ này chiếm khoảng 27% tương đương với khoảng 59 vạn học
sinh. Đến năm học 1983 – 1984 tỷ lệ này có giảm nhưng vẫn còn ở mức
khá cao chiếm khoảng 22% tương đương với 48 vạn học sinh. Bước sang
năm học 1984 – 1985 tỷ lệ học sinh lưu ban giảm mạnh xuống còn
11,11%6. Tuy nhiên tỷ lệ học sinh lưu ban bỏ học giữa các địa bàn, khu vực
khác nhau cũng có sự chênh lệch. Cụ thể tại những tỉnh, thành phố có điều
kiện kinh tế xã hội phát triển tỷ lệ này duy trì ở mức thấp. Ở những tỉnh
thuộc khu vực vùng núi, vùng sâu, vùng xa tỷ lệ này còn khá cao. Điều này
được minh chứng qua một số tỉnh, thành phố điển hình sau: Tại Hà Nội tỷ
lệ học sinh lưu ban và bỏ học lần lượt là 4,77% và 4,17%. Ngược lại tỷ lệ

học sinh lưu ban, bỏ học ở các tỉnh miền núi như: Hà Tuyên là 8,65% và
25,79%, tại Lai Châu tỷ lệ học sinh lưu ban chiếm 11,83%, tỷ lệ học sinh

5Số liệu thống kê gáo dục và đào tạo năm 1945 – 1995.
6Số liệu thống kê gáo dục và đào tạo năm 1945 – 1995.

25


×