Tải bản đầy đủ (.docx) (119 trang)

Hoàng văn thụ với việc xây dựng lực lượng cách mạng việt nam (1928 1944)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.58 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ THANH TRÚC

HOÀNG VĂN THỤ VỚI VIỆC XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1928-1944)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ THANH TRÚC

HOÀNG VĂN THỤ VỚI VIỆC XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1928-1944)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Viết Nghĩa

Hà Nội - 2015




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản than, tác giả xin
bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trong Bộ môn Lịch sử Việt
Nam – Khoa Lịch Sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội; Thư viện Quốc gia Việt Nam, Ủy ban nhân dân huyện Văn
Lãng… đã giúp đỡ, tạo điều kiện trong quá trình tìm kiếm, thu thập tài liệu
nghiên cứu. Đặc biệt, tác giả gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Trần Viết
Nghĩa nhờ sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song giới hạn về mặt thời gian và nhận
thức nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Do vậy, tác giả
rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô giáo và những đóng góp ý
kiến quý báu của toàn thể các bạn.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận văn Hoàng Văn Thụ với việc xây dựng lực
lượng cách mạng Việt Nam (1928-1944) là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần Viết Nghĩa mà trước đó chưa có bất cứ
tác giả nào công bố.
Những tư liệu và số liệu sử dụng trong bản luận văn là có tính xác thực
và nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả

Lê Thanh Trúc


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề........................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu...........................................................6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.............................................6
6. Đóng góp của luận văn..............................................................................6
7. Cấu trúc của luận văn...............................................................................7
Chƣơng 1: QUÊ HƢƠNG, GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG YÊU
NƢỚC ĐẦU TIÊN CỦA HOÀNG VĂN THỤ............................................ 8
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX............8
1.2. Quê hƣơng và gia đình Hoàng Văn Thụ........................................... 11
1.3.

Những hoạt động yêu nƣớc đầu tiên của Hoàng Văn Thụ.............19

Tiểu kết chƣơng 1.........................................................................................26
Chƣơng 2: HOÀNG VĂN THỤ XÂY DỰNG CƠ SỞ, LỰC LƢỢNG VŨ
TRANG CÁCH MẠNG Ở VÙNG CAO – BẮC – LẠNG.........................28
2.1. Xây dựng cơ sở cách mạng ở các tỉnh Cao Bằng – Lạng Sơn –
Thái Nguyên...................................................................................................28
2.2. Xây dựng lực lƣợng Cứu Quốc quân, thành lập căn cứ địa cách mạng

Bắc Sơn – Võ Nhai.........................................................................................42
Tiểu kết chƣơng 2......................................................................................... 53


Chƣơng 3: HOÀNG VĂN THỤ VỚI SỰ CHUYỂN HƢỚNG CÁCH
MẠNG, XÂY DỰNG AN TOÀN KHU, VÀ MẶT TRẬN VIỆT MINH
TRONG THỜI KỲ 1939-1945..................................................................... 55

3.1. Thực hiện chuyển hƣớng cách mạng Việt Nam..................................55
3.2. Xây dựng An toàn khu...........................................................................66
3.3. Xây dựng Mặt trận Việt Minh.............................................................. 73
Tiểu kết chƣơng 3......................................................................................... 77
Chƣơng 4: HOÀNG VĂN THỤ VỚI VIỆC GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG
CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN.........................79
4.1. Sáng lập báo Giải phóng – Cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Bắc Kỳ .. 79

4.2. Giáo dục chính trị, tƣ tƣởng trong nhà tù Hỏa Lò............................83
4.3. Một số nhận xét từ sự nghiệp cách mạng của Hoàng Văn Thụ.........89
Tiểu kết chƣơng 4......................................................................................... 94
KẾT LUẬN....................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................98
PHỤ LỤC.....................................................................................................103


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Tên tuổi và sự nghiệp của Hoàng Văn Thụ đã trở nên bất tử trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Hoàng Văn Thụ một người
con ưu tú của Xứ Lạng, của cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hoàng
Văn Thụ là một trong những chiến sĩ cộng sản hàng đầu Việt Nam trước Cách
mạng Tháng Tám 1945. Cuộc đời hoạt động cách mạng của ông gắn liền với
giai đoạn lịch sử khó khăn nhất của cách mạng Việt Nam, từ ngày đầu thành
lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cho tới những năm tháng sôi động
của thời kỳ tiền khởi nghĩa chuẩn bị giành chính quyền về tay nhân dân. Thời
trẻ, Hoàng Văn Thụ đã sớm có chí đấu tranh chống Pháp, giải phóng dân tộc.

Mặc dù gia đình có đủ điều kiện cho học cao hơn để kiếm danh lợi trong xã
hội thuộc địa lúc đó, nhưng Hoàng Văn Thụ từ bỏ tất cả, sẵn sàng chấp nhận
gian khổ hy sinh, quyết tâm theo đuổi chí hướng của mình. Ông là người có
công lao to lớn trong việc khôi phục phong trào cách mạng, xây dựng cơ sở
quần chúng cách mạng và yêu nước trong cộng đồng người Việt Nam tại vùng
biên giới phía Nam Trung Quốc, trong đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc, rộng hơn là cho dân tộc Việt Nam.
Với sự hoạt động nỗ lực, đầy trách nhiệm của một cán bộ lãnh đạo
Đảng, Hoàng Văn Thụ đã có nhiều đóng góp tích cực vào việc xây dựng, phát
triển chi bộ Đảng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và Thái Nguyên; giữ vững, củng cố
và xây dựng được nhiều cơ sở Đảng ở Hà Nội, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Hải
Dương... Sự phát triển vững chắc của các cơ sở Đảng, các Đảng bộ đó đã
đóng vai trò nòng cốt cho việc mở rộng phát triển phong trào cách mạng trên
một địa bàn khá rộng lớn. Hoạt động rộng khắp của Hoàng Văn Thụ trên
nhiều địa bàn, ngoài nước, trong nước, miền núi, đồng bằng, thành

1


phố, trong hầm mỏ, nhà máy... đã thể hiện quan điểm cách mạng toàn diện
của một cán bộ lãnh đạo có tầm nhìn xa, hiểu rộng.
Với tư chất của một cán bộ lãnh đạo năng động, sáng tạo, trong cuộc
đời hoạt động cách mạng sôi nổi và nhiệt thành của mình, Hoàng Văn Thụ đã
có những đóng góp quan trọng, có tính chất quyết định tới thắng lợi của
đường lối lãnh đạo của Đảng, Ông đã có công lớn trong việc đề xuất sáng lập
báo “Giải phóng”, tham gia viết bài cho báo "Cờ giải phóng" và "Tạp chí
cộng sản". Những bài viết, dịch của ông về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, về
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế đã góp phần phổ biến, giác ngộ tinh
thần cách mạng vô sản cho đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng cách
mạng. Phương pháp, nguyên tắc hoạt động bí mật đầy hiệu quả do Hoàng Văn

Thụ xây dựng đã giúp cho Đảng ta có được nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích
trong quá trình vận động, tổ chức phong trào quần chúng rộng khắp trong cả
nước.
Những hoạt động của Hoàng Văn Thụ trên cương vị là uỷ viên Ban
Thường vụ Trung ương Đảng đặc trách công tác công vận và binh vận của
Đảng đã góp phần thức tỉnh và lôi cuốn được nhiều binh lính, sĩ quan yêu
nước người Việt nam trong quân đội Pháp ở thuộc địa, tham gia tích cực vào
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến tới nổi dậy khởi nghĩa giành chính
quyền tháng Tám năm 1945. Bước đường hoạt động của người chiến sĩ cộng
sản Hoàng Văn Thụ đã để lại cho thế hệ cách mạng đời sau tấm gương sáng
chói về một người cộng sản đầy ý chí, nghị lực, vượt qua mọi khó khăn gian
khổ, thường xuyên tự trau dồi, rèn luyện để không ngừng trưởng thành. Từ
một thanh niên học sinh yêu nước khi tham gia hoạt động cách mạng mới chỉ
có ít vốn chữ Nho học ở trường làng và tiếng Pháp học ở trường tiểu học Pháp
- Việt Lạng Sơn, khi trở thành cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, bằng việc
tự học tập, rèn luyện Hoàng Văn Thụ đã có một trình độ lý luận cao, tầm hiểu
2


biết rộng và sâu sắc về thực tiễn. Ông vừa làm một nhà chiến lược tài ba, vừa
là một dịch giả tiếng Trung Quốc, vừa là người viết báo sắc bén. Những hoạt
động sáng tạo của Hoàng Văn Thụ trên nhiều phương diện đã bộc lộ khả năng
tiềm tàng của trí tuệ, của trình độ lý luận, kiến thức khoa học đã được rèn
luyện nghiên cứu, học tập qua nhiều năm gian khổ phấn đấu.
Suốt cuộc đời hy sinh vì độc lập dân tộc, vì lý tưởng cách mạng cao
đẹp, Hoàng Văn Thụ đã nêu tấm gương kiên trung, bất khuất của một người
cộng sản gang thép, hiên ngang trước kẻ thù, nhưng cũng đầy tình thương yêu
đối với đồng chí, đồng bào. Ông bị bắt, bị tù đày và kết án tử hình khi vừa
mới 35 tuổi đời.
Cuộc đời cách mạng của Hoàng Văn Thụ thật oanh liệt, những cương vị

mà ông đảm trách đều gắn liền với thời kỳ cam go, gian khổ của cách mạng
Việt Nam. Ông là một lãnh tụ người dân tộc thiểu số sớm có một vị trí cao
trong Đảng, một trong những nhà lãnh đạo gắn bó mật thiết với dân.
Việc tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng Văn Thụ để làm sáng tỏ
cuộc đời – sự nghiệp, công lao, cống hiến của Hoàng Văn Thụ đối với việc
phát triển lực lượng cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1928-1943 là một
công việc thiết thực, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ
mai sau. Vì những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Hoàng Văn Thụ với việc
xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam (1928-1944) ” làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn Thạc sĩ của mình.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Từ trước đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu vê cuộc đời
và hoạt động cách mạng của Hoàng Văn Thụ. Tuy nhiên nguồn tư liệu về
Hoàng Văn Thụ một số đã thất lạc và phân tán ở nhiều nơi, nên việc tập hợp,
thu thập tài liệu mặc dù đạt được kết quả khả quan, đã thu thập được

3


nhiều tài liệu có giá trị, song vẫn chưa đầy đủ. Các công trình nghiên cứu tiêu
biểu nhất có thể kể đến như:
Cuốn “Hoàng Văn Thụ - Tên anh sáng mãi” của Hội Văn học nghệ
thuật Lạng Sơn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2009. Đây là công trình toàn diện,
công phu nhất viết về Hoàng Văn Thụ với gần 600 trang viết. Công trình là
kết quả tập hợp những tư liệu, tác phẩm viết về thân thế, sự nghiệp cách mạng
của người chiến sĩ cộng sản Hoàng Văn Thụ và những sáng tác văn học viết
về ông.

Cuốn “Hoàng Văn Thụ - Người chiến sĩ cộng sản gang thép” của Ban
Chấp hành tỉnh Hà Đông, Ban Nghiên cứ lịch sử Đảng, 1964. Tác phẩm đã đề
cập đến những bài viết về cuộc đời chiến đấu của Hoàng Văn Thụ, những
ngày cuối cùng, bài thơ cuối cùng của Hoàng Văn Thụ; những mẩu chuyện về
Hoàng Văn Thụ với công tác tuyên truyền vận động phụ nữ. Tác phẩm này
cung cấp được phần nào những hoạt động Hoàng Văn Thụ trong những năm
tháng cách mạng.
Cuốn “Hoàng Văn Thụ người chiến sĩ cộng sản kiên trung bất
khuất” do Trương Thanh Sơn chủ biên, Ban Tuyên giáo tỉnh Lạng Sơn xuất
bản năm 1994. Tác phẩm đề cập một cách khá cụ thể về tiểu sử, quá trình hoạt
động cách mạng, vai trò lãnh đạo của Hoàng Văn Thụ trong việc xây dựng,
phát triển phong trào cách mạng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và Thái Nguyên trong
những năm 1930-1945.
Cuốn “Những ngày cuối cùng của anh Hoàng Văn Thụ” của Trần
Đăng Ninh và Trần Độ, do Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội xuất bản năm 1964.
Đây là cuốn hồi ký cách mạng của 2 đồng chí Trần Đăng Ninh và Trần Độ kể
về những ngày tháng cuối cùng của đồng chí Hoàng Văn Thụ. Đây là tác
phẩm cung cấp rõ nhất, chân thực nhất về những hoạt động của Hoàng Văn
Thụ khi ông bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Hỏa Lò.
4


Cuốn “Gương chiến đấu của những người cộng sản” do Phan Quang
chủ biên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1965. Cuốn sách này cung cấp một cách khái
quát quá trình tham gia và hoạt động cách mạng của một số người con ưu tú
của Đảng, trong đó có Hoàng Văn Thụ.
Cuốn “Những người cộng sản trẻ tuổi” do Đức Vượng và Nguyễn
Đình Nhơn chủ biên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2003; giới thiệu về những
người cộng sản trẻ đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh một cách oanh liệt như Trần
Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Đức Cảnh... Trong tác phẩm này

cũng đề cập một cách khái quát về cuộc đời và những hoạt động cách mạng
của Hoàng Văn Thụ.
Ngoài ra còn có một số bài báo, bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí
như Tạp chí Văn hóa, Toàn cảnh sự kiện... cũng đề cập ít nhiều đến các khía
cạnh nhỏ trong cuộc đời hoạt động của Hoàng Văn Thụ.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu đã đề cập đến cuộc đời và
những hoạt động cách mạng của Hoàng Văn Thụ trong giai đoạn 1928-1944
với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, do mục đích, nhiệm vụ khác nhau, vì
vậy cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống về Hoàng Văn Thụ với việc xây dựng và phát triển lực lượng cách
mạng trong thời kỳ 1928-1944, từ đó rút ra được vai trò của ông trong tiến
trình lịch sử cách mạng Việt Nam.
3.
3.1.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về Hoàng Văn Thụ với việc xây dựng lực lượng cách mạng
Việt Nam để:
Làm rõ cuộc đời và con đường hoạt động cách mạng của
Hoàng Văn
Thụ.

5


Đánh giá vai trò và những đóng góp của Hoàng Văn Thụ đối
với viêc
xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam (1928-1944) trong sự nghiệp đấu

tranh giải phóng dân tộc.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

-

Hệ thống được các tư liệu nghiên cứu về Hoàng Văn Thụ

Làm rõ được đóng góp của Hoàng Văn Thụ trong xây dựng lực lượng

cách mạng Việt Nam giai đoạn 1928-1944.
4.
4.1.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Đề tài chủ yếu nghiên cứu về vai trò của Hoàng Văn Thụ trong việc xây
dựng lực lượng cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1928 – 1944.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Con người và những hoạt động cách mạng của Hoàng Văn Thụ từ khi
giác ngộ cách mạng cho đến khi hy sinh 1944. Đồng thời nghiên cứu những
đóng góp của Hoàng Văn Thụ trong việc xây dựng lực lượng cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám 1945.
5.
5.1.


Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò
quần chúng nhân dân và vĩ nhân trong lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn này, tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử
và logic là chính. Ngoài ra, tôi còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ quan
trọng khác như điền dã, phân tích, tổng hợp, và so sánh.
6.

Đóng góp của luận văn

6


-

Làm rõ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hoàng Văn Thụ trong

phong trào cách mạng Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
-

Làm rõ được những đóng góp của Hoàng Văn Thụ trong xây dựng lực


lượng cách mạng ở Việt Nam trong giai đoạn 1928-1944.
-

Luận văn là một tài liệu tham khảo bổ ích để hiểu thêm thông tin về

lịch sử Việt Nam, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, và lịch sử Lạng Sơn.
7.

Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Quê hương, gia đình và những hoạt động yêu nước đầu tiên
của Hoàng Văn Thụ
Chương 2: Hoàng Văn Thụ xây dựng cơ sở, lực lượng vũ trang cách
mạng ở vùng Cao – Bắc – Lạng
Chương 3: Hoàng Văn Thụ với sự chuyển hướng cách mạng, xây dựng
An toàn khu và Mặt trận Việt Minh trong thời kỳ 1939-1945
Chương 4: Hoàng Văn Thụ với việc giáo dục tư tưởng cách mạng cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên.

7


Chƣơng 1
QUÊ HƢƠNG, GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG YÊU NƢỚC
ĐẦU TIÊN CỦA HOÀNG VĂN THỤ
1.1.

Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam, sau đó

từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến Việt Nam từ một quốc
gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia
Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ
một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột
kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt
ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở
công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai
thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch,
gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu
nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Những chính sách này đã làm cho nền
văn hóa Việt xuất hiện những đặc điểm không thuần nhất, lai căng, trì trệ.... Tuy
nhiên bên cạnh đó, những tinh hoa của nền văn hoá phương Tây cũng

đã có những tác động tích cực đến văn hoá nước ta. Ở Việt Nam đã xuất hiện
các trào lưu văn hoá có sự giao thoa giữa Á - Âu, Đông - Tây.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa,
giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc.
8


Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông
dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ
phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu
tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Giai cấp nông dân

là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến
áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân
Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng
thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và
quyền sống tự do. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có
quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp
bức bóc lột. Giai cấp tư sản dân tộc bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh
tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh
thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam
bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh,
dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực
dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người
dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột.
Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa
cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu
thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang
đặt ra hai yêu cầu, một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành
9


quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó,
chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Trước những yêu cầu
đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên
tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh
đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng

(năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh
hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên
Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại. Các phong trào yêu nước từ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất
của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu
đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó
đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cứu nước.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam có bước chuyển
biến mới, sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm
ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam – con đường cách mạng vô
sản. Cũng vào thời gian này, ảnh hưởng của phong trào cách mạng dân chủ tư
sản của Tôn Trung Sơn, của phong trào Ngũ Tứ ở Trung Quốc, đặc biệt ảnh
hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã lan tỏa đến Việt Nam.
Một số thanh niên yêu nước như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong... xuất dương
sang Quảng Châu, tiếp thu tư tưởng mới của thời đại, lập ra các tổ chức cách
mạng theo xu hướng Mác xít. Từ năm 1925 khi Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên ra đời với những hoạt động của mình đã có ảnh hưởng lớn đến tư
10


tưởng của tầng lớp thanh niên yêu nước trong đó có Hoàng Văn Thụ - một
trong những vị lãnh tụ của phong trào cách mạng Việt Nam sau này.
1.2.

Quê hƣơng và gia đình Hoàng Văn Thụ


Hoàng Văn Thụ, người dân tộc Tày, tên khai sinh là Hoàng Ngọc Thụ
(có bí danh Lý, Giáo), sinh ngày 04-11-1909 1 (tức ngày 22-09 năm Kỷ Dậu)
tại thôn Phạc Lạn, tổng Nhân Lý, châu Văn Uyên, nay là thôn Phạc Lạn, xã
Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.
Trong lịch sử hình thành xứ Lạng, từ khi thành lập nước Văn Lang,
Lạng Sơn thuộc bộ Lục Hải. Thời Bắc thuộc, Lạng Sơn thuộc quận Giao Chỉ,
sau đó là quận Giao Châu. Sang đến thời Lý, Lạng Sơn có tên là lộ Lạng
Giang. Đầu thời Trần, Lạng Sơn được gọi là lộ Lạng Châu, sau đổi là trấn
Lạng Giang, đến năm 1397, trấn Lạng Giang được đổi thành trấn Lạng Sơn.
Trải qua bao biến cố lịch sử có nhiều tên gọi khác nhau, như Lạng Sơn trấn,
Lạng Sơn phủ, Lạng Sơn xứ. Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đặt thành
tỉnh Lạng Sơn. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (19461954), Lạng Sơn trở thành một trong 6 tỉnh của căn cứ địa Việt Bắc. Năm
1956, Khu tự trị Việt Bắc được thành lập bao gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng
Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Năm 1975, Lạng Sơn sáp nhập
với tỉnh Cao Bằng thành tỉnh Cao Lạng. Đến năm 1978, hai tỉnh tách ra thành
Lạng Sơn và Cao Bằng. Hiện nay, tỉnh Lạng Sơn có diện tích là 8.187,25 km 2,
số dân là 851.200 người (theo số liệu thống kê năm 2013), mật độ 90
người/km2 và gồm 1 thành phố, 10 huyện, 14 thị trấn và 226 xã phường, là
một trong những tỉnh có đường biên giới giáp Trung Quốc dài nhất [6, tr. 9].

1 Trong một số sách đã xuất bản viết về tiểu sử của Hoàng Văn Thụ đều nói là sinh năm 1906, như sách

“Những người cộng sản” của Đức Vượng và Trần Đình Nhơn, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000. Nhưng theo
tài liệu của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lạng Sơn (nhân kỷ niệm 85 ngày sinh Hoàng Văn Thụ) đã khẳng định là
năm 1909 theo nguồn Gia phả họ Hoàng (bản chữ Hán), lưu tại gia đình Hoàng Văn Thụ, bản chụp lưu tại
Viện Hồ Chí Minh.

11



Trong lịch sử Việt Nam, Lạng Sơn luôn luôn được xác định là nơi có vị
trí chiến lược quan trọng, là cánh cửa chính ở phía Bắc che chở cho trung tâm
đồng bằng và trái tim cả nước. Lạng Sơn là chiếc cầu nối liền giữa vùng núi
với vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ với biên giới Việt – Trung, là nơi có
những yếu tố thuận lợi cho các cuộc chiến tranh du kích. Với vị trí địa lý vô
cùng quan trọng, là tỉnh có cửa khẩu chính ngạch trong giao lưu đường bộ với
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có hệ thống đường giao thông thuận tiện
cho công thương hàng hóa (ngày nay Lạng Sơn chỉ cách thủ đô Hà Nội 154km
theo đường Quốc lộ 1A). Từ xa xưa, Lạng Sơn đã luôn là thủ phủ của vùng
biên ải phía Bắc nước ta. Dọc theo tuyến biên giới trải dài 253 km, tiếp giáp
với tỉnh Quảng Tây thuộc vùng cực Nam của nước Trung Hoa rộng lớn, ngay
từ thời Tần – Hán, các triều đại phương Bắc đã thường xuyên đem quân lấn
chiếm các quốc gia phương Nam theo con đường Thiên lý qua Mục Nam quan
(nay là Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị) của Lạng Sơn. Thời kỳ Bắc thuộc và
phong kiến tự chủ, Lạng Sơn là nơi in đậm dấu ấn các sự kiện lịch sử trọng đại
của đất nước. Đây là trọng điểm của con đường kinh lý mà các Đoàn sứ bộ của
các triều đại phong kiến nước ta đi sang Trung Quốc và cũng là nơi tiếp đón
các Đoàn sứ giả của Trung Quốc vào Việt Nam. Chính vì vậy mảnh đất này đã
chứng kiến nhiều sự kiện thăng trầm của lịch sử ngoại giao nước ta.
Sau khi đánh chiếm miền Bắc nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính
sách bình định và cai trị. Ở Lạng Sơn, chúng xây dựng bộ máy cai trị từ tỉnh
đến tận thôn bản, dung túng cho các lực lượng thổ phỉ, thổ ty, địa chủ phong
kiến và dựa vào lực lượng này để thống trị nhân dân. Một trong nhũng thủ
đoạn thâm độc nhất của thực dân Pháp về mặt chính trị là thi hành chính sách
“chia để trị”, chia rẽ dân tộc nhằm làm suy yếu sức mạnh đoàn kết vốn có của
nhân dân các dân tộc trong tỉnh, gây thù hằn giữa các dân tộc đa số với các
dân tộc thiểu số. Thực dân Pháp xúi giục người Mán (Dao) giết người Kinh
12



để lấy muối, giết người Tày để lấy ruộng cày. Ban hành cái gọi là “Chế độ
ngoại kiều” và thi hành một số chính sách đối xử riêng rẽ giữa người Việt với
người Hoa nhằm kích động chủ nghĩa dân tộc, phá vỡ mối quan hệ vốn có của
nhân dân hai nước Việt – Trung.
Ngày 6-8-1891, Toàn quyền Đông Dương De Lanessan cho rằng: Việc
bình định xứ Bắc Kỳ chỉ có thể thực hiện được, nếu quyền hành chính và
quân sự đều được tập trung trong tay một người, nên đã ra nghị định thành lập
4 đạo quan binh [13, tr. 126]. Lạng Sơn nằm trong đạo quan binh thứ hai và là
trụ sở của đạo quan binh thứ hai. Tại thị xã Lạng Sơn và ở các châu, huyện,
thực dân Pháp xây dựng các đồn binh (lính chính quy) và các đồn bảo an (đồn
lính khố xanh). Đứng đầu đồn binh là một sĩ quan người Pháp. Hệ thống đồn
binh ở Lạng Sơn được xây dựng dày đặc và kiên cố. Riêng thị xã Lạng Sơn
thực dân Pháp đã bố trí tiểu đoàn lính khố đỏ, pháo thủ và một đại đội lính
khố xanh đóng giữ, xây dựng các pháo đài ở các núi cao như Đèo Giang –
Văn Vỉ để khống chế thị xã. Trên con đường số 4 – con đường độc đạo duy
nhất từ Lạng Sơn đi Cao Bằng và từ Lạng Sơn đi Quảng Yên, thực dân Pháp
xây dựng ở Thất Khê 12 đồn, Thoát Lãng, Ôn Châu, Lộc Bình, Cao Lộc, Bình
Gia, Điềm He và các vùng xung quanh thị xã đều có ít nhất 6 đồn và trại lính
[6, tr. 10]. Để các đồn bốt vận hành có hiệu quả, thực dân Pháp tăng cường bắt
lính, xây dựng lực lượng lính dõng địa phương. Lực lượng này có nhiệm vụ
hỗ trợ cho bọn quan binh trong những cuộc bắt phu, bắt lính, ép sưu thuế và
đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân.
Chính sách cai trị của thực dân Pháp làm cho tình hình xã hội Lạng Sơn
có nhiều biến động sâu sắc. Ngoài những giai tầng và những mâu thuẫn cơ
bản vốn có, trong xã hội còn xuất hiện những giai tầng mới, những mâu thuẫn
xã hội mới, trong mối quan hệ phức tạp, đa dạng đã hình thành nên những thái
độ chính trị khác nhau. Nhưng nhìn chung, nhân dân các dân tộc Lạng Sơn
13



chỉ có một con đường chung nhất để giải phóng quê hương và giải phóng
mình là cùng nhất tề đứng lên đánh đổ thực dân, phong kiến và bè lũ tay sai.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, Lạng Sơn là địa bàn cơ động về chiến
lược, là nơi dụng binh lợi hại. Vì vậy ngay từ buổi đầu thực dân Pháp xâm
lược đã có những cuộc nổi dậy, những cuộc khởi nghĩa của nhân dân các dân
tộc Lạng Sơn diễn ra. Lạng Sơn cũng là nơi có địa thế thuận lợi cho việc gây
dựng cơ sở cách mạng, xây dựng phát triển lực lượng, phát động chiến tranh
du kích, phối hợp hành động tác chiến, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó
khăn có thể rút lui để bảo toàn lực lượng. Thông qua hệ thống giao thông
đường bộ, đường thủy, đường sắt tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quân
sự, việc di chuyển từ địa bàn này sang địa bàn khác vừa mau lẹ, vừa đảm bảo
bí mật, an toàn, vừa giữ vững lực lượng thông tin liên lạc giữa các vùng trong
tỉnh và giữa Lạng Sơn với Xứ ủy Bắc Kỳ. Mặt khác, tất cả những diễn biến về
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội ở Hà Nội và các tỉnh đồng bằng,
trung du đều có tác động mạnh mẽ tới phong trào cách mạng ở Lạng Sơn.
Ngược lại cũng tạo điều kiện cho Lạng Sơn hỗ trợ hợp đồng tác chiến với các
địa phương khác những khi gặp khó khăn.
Có thể nói rằng, với vị thế đặc biệt của mình, lịch sử dựng nước và giữ
nước của quân dân Việt Nam gắn liền với các chiến tích hào hùng của quân và
dân Lạng Sơn. Vùng đất địa đầu biên giới này đã viết nên những trang vàng
trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Những địa danh cho đến nay
vẫn luôn là niềm tự hào trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước và giải
phóng dân tộc như: Ải Chi Lăng, Mục Nam Quan, Bắc Sơn, Chiến dịch Biên
giới, Đường số 4 rực lửa làm kinh hoàng đội quân viễn chinh Pháp.
Cùng với những trang sử chống xâm lược oanh liệt, qua quá trình hình
thành và phát triển, vùng đất Lạng Sơn đã xây dựng nên bề dày truyền thống
văn hóa. Việc phát hiện những di chỉ, di vật, hiện vật cổ ở vòm đá Thẩm
14



Khuyên có niên đại cách đây 47 vạn năm đã minh chứng cho thấy Lạng Sơn
là một trong những chiếc nôi của người Việt cổ. Hầu hết trong các huyện thị
của Lạng Sơn nơi nào cũng có dấu tích của nền văn hóa cổ xưa. Ngoài ra, văn
hóa xứ Lạng còn nổi tiếng cả nước với những bài thơ và cả những địa danh từ
lâu đã được ghi tạc vào lòng người:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải vui quên hết lời em dặn dò.
Vùng đất Văn Lãng – Lạng Sơn, quê hương của Hoàng Văn Thụ thuộc
đất địa đầu, trấn ải nơi biên cương của Tổ quốc. Về địa danh huyện Văn Lãng
là tên hợp nhất của hai huyện Văn Uyên và Thoát Lãng thời trước. Theo các
nguồn tài liệu lịch sử thì đại danh này còn lưu giữ hai âm cổ “Văn” và “Lãng”,
“Văn” tức châu Văn Uyên thời Lý, sau là châu Thoát Lãng, nơi đây đã được
Nguyễn Trãi ghi lại trong Ức Trai Dư địa chí: “Văn Uyên có đồng bạc, Thoát
Lãng có voi trắng khi nào có lệnh thì tiến dâng” [15, tr. 758]. Trong thời kỳ
Pháp, chúng vẫn duy trì hai đơn vị hành chính này nhưng gọi là châu (1891).
Từ năm 1945 mới đổi châu thành huyện. Đến tháng 8-1964, hai huyện Văn
Uyên và Thoát Lãng hợp nhất thành huyện Văn Lãng. Đến nay, huyện Văn
Lãng có 20 đơn vị hành chính trực thuộc: 1 thị trấn và 19 xã [1, tr. 7].
Theo gia phả của dòng họ Hoàng, tổ tiên của Hoàng Văn Thụ đã định
cư, dựng nghiệp rất sớm ở vùng đất Phạc Lạn, xã Nhân Lý (nay là xã Hoàng
Văn Thụ). Đây là một xã vùng biên, là địa bàn quần tụ sinh sống lâu đời của
các dân tộc thiểu số anh em: Tày, Nùng, sau có thêm người Kinh... trong đó
dân tộc Tày, Nùng chiếm đa số. Nhân Lý, nơi sinh thành ra người con ưu tú
15



của dân tộc Tày, của quê hương Lạng Sơn, vốn được coi là một miền quê trù
phú, giàu đẹp ở Văn Uyên bởi có những cánh rừng hồi xanh ngát, những cánh
đồng đất đai màu mỡ, những con suối nước chảy trong lành, đem lại cho con
người nơi dây cuộc sống yên vui, no ấm. Nhân Lý ở gần 2 thị trấn biên giới là
Đồng Đăng (châu Văn Uyên) và Na Sầm (châu Thoát Lãng), cách thị xã Lạng
Sơn không bao xa, nên người Nhân Lý đều thường xuyên có dịp về các chợ
Đồng Đăng, Na Sầm, Kỳ Lừa để mua bán hàng hóa, thăm thân họ hàng, giao
lưu tình cảm, văn hóa với đông đảo đồng bào các dân tộc anh em trong vùng.
Do có điều kiện để giao lưu và mở mang sự hiểu biết về đời sống, trong
những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, người Văn Uyên, đặc biệt là
tầng lớp trí thức nho học địa phương sớm đã chịu ảnh hưởng tinh thần yêu
nước, ý thức dân tộc, thông qua những nhận biết về hoạt động của các sĩ phu
yêu nước Việt Nam qua lại giữa hai vùng biên giới Việt – Trung. Sau năm
1945, xã Nhân Lý được mang tên xã Hoàng Văn Thụ, để ghi nhớ công ơn của
người con kiên trung, bất khuất của quê nhà. Xã Hoàng Văn Thụ có hệ thống
giao thông khá thuận tiện, rất gần với trung tâm huyện nên việc giao lưu buôn
bán, tiếp nhận những thông tin mới sớm hơn các xã khác.
Có thể nói rằng, được sinh ra trên vùng đất biên cương, quê hương
Phạc Lạn – Văn Lãng – Lạng Sơn của Hoàng Văn Thụ vốn đã có một vị trí
chiến lược quan trọng trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm cũng như
bề dày truyền thống văn hóa. Tất cả những yếu tố đó có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến tình cảm, tinh thần và sự nhận thức về tinh thần dân tộc của Hoàng Văn
Thụ. Mặt khác, những năm đầu thế kỷ XX, do ở vào vị trí có nhiều đầu mối
giao thông thuận tiện (có đường sắt, đường bộ, đường sông và rất nhiều
đường mòn có thể qua lại biên giới Việt – Trung) nên Văn Lãng đã trở thành
địa bàn qua lại, nơi gây dựng cơ sở của những sĩ phu yêu nước và là địa bàn
hoạt động quan trọng của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngay
16



trong thời kỳ đầu tiên. Chính sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh thần
yêu nước, giác ngộ cách mạng của họ đã có ảnh hưởng rất lớn tới các thanh
niên yêu nước ở Lạng Sơn nói chung và thanh niên ở Văn Lãng nói riêng.
Trong số đó phải kể đến Hoàng Văn Thụ.
Thân phụ của Hoàng Văn Thụ là ông Hoàng Khải Loan hay còn gọi là
Lan, dân tộc Tày, ông được bố mẹ cho theo học chữ Nho nên là một trong số
ít những người biết chữ trong làng. Qua việc học hành chữ nghĩa thánh hiền,
ông chịu ảnh hưởng và thấm nhuần đạo đức Nho giáo. Bản tính ông là người
cương trực, đứng đắn, luôn đứng về phía người nghèo nên được bà con lối
xóm rất yêu quý. Cũng do là người biết chữ nên chính quyền cai trị địa
phương bổ làm lý trưởng xã Nhân Lý. Nhưng do không chịu được cảnh bó
buộc, bị bọn sai nha nhũng nhiễu, cũng không chịu nổi cảnh bọn thực dân đè
đầu, cưỡi cổ, đối xử bất công với dân mình, làm “quan” được một thời gian,
ông bỏ việc về nhà làm nghề nông, chăm lo dạy chữ Nho cho con cháu trong
làng, sống một cuộc đời thanh bạch. Thân mẫu của Hoàng Văn Thụ là bà Hà
Thị Mùi là người dân tộc Tày. Bà là người đôn hậu, tần tảo chăm chồng con,
thân ái yêu thương bà con dân bản. Chính vì thế, mặc dù ông bà đã có 3 người
con: Hoàng Thị Dụ, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Văn Lụ; ông bà vẫn nhận
Hoàng Thị Khai làm con nuôi và coi như chị cả trong nhà [43, tr 7].
Tình cảm nhân ái bao dung, nhân hậu của cha mẹ ảnh hưởng rất nhiều
đến Hoàng Văn Thụ, đó là lòng thương cảm khi thấy nỗi cơ cực của người
dân quê mình dưới ách thống trị của lý trưởng, cường hào, của bọn đế quốc
xâm lược. Nhìn cảnh đốc sưu, đôc thuế, bắt phu, cảnh người hái hồi bị ngã
xuống do làm việc kiệt sức, cảnh bọn đại lý từ thị xã lên Văn Uyên thu mua
hoa hồi bằng cách ăn chặn, bóp chẹt người dân nghèo khổ... thường xuyên
được Hoàng Văn Thụ nhắc lại với thái độ phẫn uất cao độ. Chính từ sự bất

17



bình trước cảnh áp bức, bất công của những người dân bản, ngọn lửa cách
mạng dường như bắt đầu được nhen nhóm trong con người Hoàng Văn Thụ.
Do gia đình có điều kiện kinh tế tương đối khá giả nên Hoàng Văn Thụ
được cha mẹ cho cắp sách đến học ở trường làng 2. Tiếp nhận tình cảm và
những đức tính quý báu của cha mẹ, ngay từ thủa niên thiếu, cắp sách tới
trường làng học chữ Nho, Hoàng Văn Thụ đã sớm có được một tâm tính trung
thực, thẳng thắn, chăm chỉ học tập và làm việc giúp đỡ gia đình. Sống trong
một gia đình có nề nếp và đời sống tương đối ổn định, ông luôn có ý thức noi
gương cha mẹ trong quan hệ, ứng xử với người thân, anh em trong xóm, ngoài
làng. Trong học tập cũng như trong lúc vui chơi, ông luôn quan tâm, giúp đỡ
bạn bè với tình cảm chân thành, cởi mở. Với tình thương yêu, đặt niềm tin ở
người con trai thông minh, sáng dạ, từ năm 1923, sau khi Hoàng Văn Thụ học
xong ở trường làng, cha mẹ ông đã cho ông ra thị xã Lạng Sơn để theo học tại
trường tiểu học Pháp – Việt Lạng Sơn. Mong muốn của gia đình là chăm lo
cho con học hành, đỗ đạt để tiến thân.
Qua sự quen biết của gia đình, Hoàng Văn Thụ từ Nhân Lý ra được bố
trí ở trọ tại nhà một người bạn của ông Hoàng Khải Lan ở phố Chính Cai, chợ
Kỳ Lừa, thị xã Lạng Sơn, vừa gần trường học, vừa gần chợ để tiện sinh hoạt.
Hàng tháng, hai người chị gái của ông thường thay nhau đem tiền, gạo của gia
đình từ Nhân Lý ra cung cấp cho ông học hành. Cùng học với ông có Lương
Văn Tri, sau này họ đã trở thành bạn thân và cùng nhau tham gia hoạt động
cách mạng. Tình bạn của họ đã giúp nhau trong học tập và trên bước đường
làm cách mạng. Mặc dù học tập xa nhà, điều kiện lúc bấy giờ rất khó khăn và
vất vả, nhưng Hoàng Văn Thụ vẫn vượt qua tất cả, ông học rất giỏi và rất
siêng năng, đức tính của ông đều được mọi người yêu quý và kính nể.

2

Hiện nay trường này không còn, sau này dựng lại nhà trên mảnh đất cũ và trở thành nhà trưng bày di
tích của Hoàng Văn Thụ.


18


Như vậy có thể thấy, truyền thống giáo dục và tình cảm yêu thương của
gia đình, người thân, bạn bè có ảnh hưởng nhiều đến từng bước trưởng thành
của Hoàng Văn Thụ. Đó là những yếu tố nền tảng hun đúc nên một con người
giản dị, chan hòa, trí tuệ nhưng cũng rất kiên cường, bất khuất làm kẻ thù
khiếp sợ sau này.
1.3.

Những hoạt động yêu nƣớc đầu tiên của Hoàng Văn Thụ

Vào thời gian này, tình hình cách mạng ở Lạng Sơn cũng như trong cả
nước có nhiều biến động lớn. Những biến động của tình hình thế giới và trong
nước đã tác động đến lớp trẻ Việt Nam nói chung và lớp thanh niên ở Lạng
Sơn nói riêng. Mặc cho kẻ thù tìm mọi cách bưng bít, nhưng tin tức thắng lợi
của Cách mạng Tháng Mười Nga đã ảnh hưởng đến phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. Những sách báo tiến bộ từ nước ngoài bí mật
được chuyển về nước cũng đã đến tay các thanh niên trí thức, họ say sưa tìm
đọc. Ở trong nước, phong trào đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của
các sĩ phu yêu nước đều bị thất bại. Những hoạt động yêu nước nổi bật của
Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài và con đường cứu nước mà Người tìm ra cho
cách mạng Việt Nam đã tác động lớn đến phong trào yêu nước và lớp thanh
niên nước ta lúc đó.
Đang theo học tại trường tiểu học Pháp – Việt Lạng Sơn, Hoàng Văn
Thụ cùng các bạn cũng tìm đọc những sách tiến bộ. Thông qua việc đọc sách
báo này, Hoàng Văn Thụ và các bạn mình đã tiếp nhận được luồng thông tin
mới. Họ bước đầu nhận biết được những diễn biến của tình hình thế giới,
những tội ác của bọn thực dân và các cuộc đấu tranh của các dân tộc đòi độc

lập tự do. Họ cũng hiểu rõ dần ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp đối với
nhân dân Việt Nam và những cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống lại
sự nô dịch của thực dân Pháp. Đặc biệt tiếng bom của liệt sĩ Phạm Hồng Thái
giết hụt tên Toàn quyền Đông Dương Merlin tại Sa Diện, Quảng Châu,
19


×