Tải bản đầy đủ (.docx) (134 trang)

Quá trình xây dựng và chiến đấu của lực lượng vũ trang cách mạng miền nam ( 1961 1965) luận văn ths lịch sử việt nam 60 22 54

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.31 KB, 134 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THÙY LINH

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ CHIẾN ĐẤU
CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG
MIỀN NAM (1961 – 1965)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THÙY LINH

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ CHIẾN ĐẤU
CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG
MIỀN NAM (1961 – 1965)

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54

Người hướng dẫn: PGS. TS Nguyễn Đình Lê


Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Đình Lê.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, chính xác, đảm bảo tính khách
quan, khoa học và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2015

Tác giả luận văn

Nguyễn Thùy Linh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Đình Lê đã nhiệt tình định
hướng và góp ý cho luận văn của mình. Những chỉ bảo, nhận xét của thầy là
động lực quan trọng giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình đã tạo điều
kiện cho tôi cả về vật chất và tinh thần. Trân trọng cảm ơn quý thầy cô trong và
ngoài khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp tôi
hoàn thành khóa học. Chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động
viên tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Tác giả


Nguyễn Thùy Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 3
Chương 1. TÌNH HÌNH MIỀN NAM VIỆT NAM SAU HIỆP ĐỊNH
GIƠNEVƠ.................................................................................................................................. 12
1.1 Âm mưu của Đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam .. 12

1.1.1 Âm mưu của Đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam.................................... 12
1.1.2 Chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam............................................ 13
1.1.3 Tình hình cách mạng miền Nam lâm vào thế khó khăn........................19
1.2 Quá trình xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam từ
năm 1954 đến năm 1961................................................................................................... 20
1.2.1. Khái niệm lực lượng vũ trang cách mạng................................................. 20
1.2.2. Các bộ phận của lực lượng vũ trang cách mạng................................... 20
1.2.3. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn 1954-1960 . 21
1.2.4. Tình hình phát triển của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam
đến năm 1961................................................................................................................... 27
Tiểu kết chương 1................................................................................................................ 37
Chương 2. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH
MẠNG MIỀN NAM 1961-1965........................................................................................ 40
2.1. Chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng (1961 - 1965) .. 40
2.1.1. Âm mưu của đế quốc Mỹ trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
................................................................................................................................................ 40
2.1.2 Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam 1961 - 1965....................... 47
2.2 Quá trình xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam 1961-1965..................58
2.2.1 Xây dựng hệ thống tổ chức – chỉ huy thống nhất.................................... 58
2.2.2 Xây dựng lực lượng bộ đội chủ lực............................................................... 62
2.2.3 Xây dựng lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích.............64

2.2.4 Xây dựng căn cứ đứng chân và hậu cần – kỹ thuật cho lực lượng vũ
trang miền Nam............................................................................................................... 66
2.2.5 Xây dựng lực lượng an ninh miền................................................................. 70
1


Tiểu kết chương 2................................................................................................................. 81
Chương 3. QUÁ TRÌNH CHIẾN ĐẤU CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
CÁCH MẠNG MIỀN NAM................................................................................................ 82
3.1. Lực lượng vũ trang cách mạng đánh bại quốc sách “ấp chiến lược”
và kế hoạch bình định của địch (1961-1963)............................................................ 82
3.1.1. Lực lượng vũ trang miền Nam phối hợp cùng nhân dân phá ấp
chiến lược........................................................................................................................... 82
3.1.2. Lực lượng vũ trang miền Nam đấu tranh chống địch bình định,
càn quét............................................................................................................................... 87
3.2. Đẩy mạnh hoạt động tác chiến mùa khô 1964-1965, đánh bại
chiến lược “chiến tranh đặc biệt”................................................................................ 100
Tiểu kết chương 3.............................................................................................................. 112
KẾT LUẬN.............................................................................................................................. 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 119
PHỤ LỤC................................................................................................................................. 126

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) là một thiên anh
hùng ca của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, là mốc son chói lọi nhất trong
lịch sử dân tộc. Đó là cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, là sự kiện có tầm vóc quốc

tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc. Cuộc kháng chiến đã để lại nhiều bài học
kinh nghiệm góp phần làm phong phú thêm kho tàng kinh nghiệm của cách mạng
Việt Nam. Một trong những bài học được tổng kết và đúc rút ra từ cuộc chiến là
bài học về đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng.

Là một bộ phận đặc biệt của Quân đội nhân dân Việt Nam, sinh ra từ phong
trào đấu tranh chính trị của quần chúng, lớn lên cùng bão lửa cuộc chiến tranh
cách mạng – chiến tranh giải phóng dân tộc. Lực lượng vũ trang cách mạng
miền Nam đã góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cả dân tộc. Trong giai
đoạn lịch sử khốc liệt của cả dân tộc, lực lượng vũ trang cách mạng không
ngừng lớn mạnh, hoạt động mạnh mẽ trên các mặt đã tạo thế và lực mới cho
phong trào đấu tranh cách mạng, tạo thành bạo lực cách mạng liên tiếp tiến
công tiêu diệt địch và làm tan giã sinh lực địch, đưa cách mạng đến toàn
thắng….Nói đến những năm tháng lịch sử này là nói đến cuộc chiến
tranh của toàn dân tộc, sử dụng toàn bộ sức người, sức của, chí và lực của toàn
dân, và những trang hào hùng nhất là những trang sử viết về lực lượng vũ trang
miền Nam giai đoạn này.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với tình hình khu vực và quốc tế có
nhiều biến động khôn lường, trong quan hệ với các nước lớn, các nước láng
giềng, các phần tử khủng bố đang đe dọa an ninh toàn cầu và lợi ích kinh tế
được đặt lên hàng đầu. Những biến động về chính trị - an ninh và kinh tế - xã
hội, xung đột vũ trang, mâu thuẫn sắc tộc, chủ nghĩa khủng bố, ly khai, cạnh
tranh địa chiến lược, tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên,

3


dịch bệnh… đe dọa nghiêm trọng đến an ninh, hòa bình của thế giới tại một số
khu vực. Tại Trung Đông, tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS đe dọa nền
hòa bình ổn định trong khu vực, kéo theo đó là việc một số các công dân Châu

Âu tình nguyện gia nhập lực lượng IS.
Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Biển Đông là điểm nóng tiềm
ẩn nguy cơ xung đột cao do hành động đơn phương bồi đắp, mở rộng, xây
dựng các bãi đá ngầm tại khu vực đang có tranh chấp của Trung Quốc. Bên
cạnh đó, việc Mỹ tiếp tục tăng cường thực thi chiến lược “tái cân bằng” ở châu
Á thông qua việc đẩy mạnh quan hệ với đồng minh và các nước có mâu thuẫn
về chủ quyền với Bắc Kinh cũng làm gia tăng căng thẳng trong khu vực.
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm và đặt vấn đề lực lượng an ninh,
quân đội, quốc phòng lên hàng đầu để sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu của
các lực lượng có nguy cơ đe dọa đến nền độc lập dân tộc và sự phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước. Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân lại càng trở
nên cấp thiết. Cũng nhân dịp này, nhiều quân khu, sư đoàn, quân đoàn tổ chức
kỷ niệm ngày thành lập để tôn vinh những cống hiến to lớn của lực lượng vũ
trang cách mạng trong lịch sử dân tộc.. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “ Quá
trình xây dựng và chiến đấu của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam
(1961-1965)” làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam
của mình, với mong muốn góp phần tổng kết, cụ thể hóa một giai đoạn lịch sử
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng và trọng tâm lấy lực lượng vũ trang cách mạng làm đối tượng nghiên cứu
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đến nay đã có nhiều cuốn sách, tạp chí, công trình khoa học trong và
ngoài nước nghiên cứu về cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam chống đế quốc

4


Mỹ và chính quyền thân mỹ, đặc biệt rất nhiều bài viết, tạp chí, công trình
nghiên cứu về vấn đề lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam (1961 – 1965).
Cụ thể như nhóm các bộ sách đồ sộ nghiên cứu về giai đoạn kháng chiến

chống Mỹ cứu nước và cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam như Lịch sử Nam
Bộ kháng chiến (1945 – 1975) (tập 2) với nhiều tài liệu lần đầu được giải mã
và công bố với nhiều nhân chứng lịch sử. Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của dân tộc, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia là bộ sách đồ sộ 9 tập nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Bộ sách Lịch sử quân sự Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia – Sự thật, tập 12 với tên gọi Những nhân tố hợp thành sức
mạnh Việt Nam thắng Mỹ do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Bộ Quốc phòng
biên soạn đã nghiên cứu, đánh giá, luận giải về những nguyên nhân thắng lợi
của cuộc kháng chiến Chống Mỹ cứu nước (1954-1975). Tập 12 đã đi sâu phân
tích và chứng minh những thắng lợi vĩ đại của quân và dân ta ở cả 2 miền
Nam, Bắc với nghệ thuật tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn
diện, đánh địch bằng hai lực lượng, ba thứ quân trên cả 3 vùng chiến lược, kết
hợp khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, đấu tranh quân sự với đấu tranh
chính trị và ngoại giao.. Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam bộ kháng
chiến, Lịch sử Nam bộ kháng chiến (tập 2), NXB Chính trị Quốc gia là bộ sách
có ý nghĩa lịch sử to lớn cũng đã nghiên cứu toàn diện sâu sắc về bối cảnh
miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 trong đó có nghiên cứu tới lực lượng vũ
trang cách mạng…và rất nhiều những bộ sử khác.
- Nhóm các sách chuyên luận, chuyên khảo xuất bản thành sách.
Khu VIII – Trung nam Bộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 1975), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, Quân khu 7, Bộ Quốc phòng,
Lịch sử lực lượng vũ trang quân khu 7 (1945-2010), NXB Quân đội nhân dân,
Hà Nội 2010, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Cuộc chiến tranh xâm lược
thực dân mới của Đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Hà Nội 1991, Lê Quốc Dân ,
5


“Cuộc đọ sức thần kì” Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1991. PGS. TS
Nguyễn Trọng Phúc, “Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua các đại
hội và hội nghị Trung ương” Nxb Lao Động, Hà Nội, 2003. Trần Văn Giàu,

“Miền Nam giữ vững Thành đồng” Tập 2,Nxb KHXH, Hà Nội, 1966. Các
cuốn sách trên nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có đề cập
đến giai đoạn 1961 -1965, nhưng chưa tập hợp nghiên cứu quá trình xây dựng
và chiến đấu của riêng lực lượng vũ trang cách mạng. Nam Trung Bộ kháng
chiến (1954-1975), NXB Chính trị Quốc gia, HN 1995. Lịch sử miền Đông
Nam Bộ và cực Nam Trung bộ kháng chiến (1945 – 1975), Bộ tư lệnh quân khu
7, NXB Chính trị quốc gia, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử Quân đội
nhân dân Việt Nam, NXB Quân đội Nhân dân, HN 1994.
-

Nhóm các bộ sử địa phương viết về lực lượng vũ trang cách mạng như

của tác giả Hồ Sơn Đài với 3 ấn phẩm, 50 năm lực lượng vũ trang Quân khu 7
(1945 – 1995), NXB Quân đội nhân dân, Lịch sử Công tác Đảng, công tác
chính trị lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bình Dương (1945-2010), Lịch sử
Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Long An (1945 – 2005), NXB Quân đội
nhân dân. Trần Văn Lộc, Những trận đánh của lực lượng vũ trang tỉnh Hậu
Giang, NXB Quân đội nhân dân. Hay các tác phẩm do tỉnh ủy các địa phương
ban hành như Những trận đánh của lực lượng vũ trang tỉnh Cần Thơ, NXB
Quân đội Nhân dân; Những trận đánh của các lực lượng vũ trang Bến Tre,
NXB Bến Tre; Những trận đánh trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ tổ
quốc của lực lượng vũ trang tỉnh An Giang, NXB Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh An
Giang… cũng đã nghiên cứu quá trình đấu tranh của các lực lượng vũ trang tại
địa phương góp phần tạp nên thành công chung của toàn miền. Tuy nhiên, các
tài liệu trên chỉ phản ánh từng mặt, trên phạm vi khu vực, chưa nói lên tính hệ
thống, tính khái quát về Quân giải phóng miền Nam từ năm 1961-1965.

6



- Nhóm các bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành. Nguyễn
Đình Lê, Nghị quyết 15 với lực lượng vũ trang cách mạng
miền Nam, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1, 1999 và Vài nét về lực lượng vũ trang
cách mạng Nam bộ thời kỳ 1854 – 1960, Tạp chí Lịch sử quân sự số 4, 1996.
Quang Lợi có bài “ Cuộc chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam”
đăng trên Tạp chí Học Tập số 7, năm 1963. Duy Nghĩa “Ấp chiến lược tập trung
dân vào cứ điểm quân sự của Mỹ - Diệm ở miền Nam” Tạp chí Học Tập, số 1,
năm 1962. Trần Như Cương, “Quốc sách ấp chiến lược, một âm mưu nguy hiểm
của Mỹ - Nguỵ ở miền Nam (1961 -1965)” Tạp chí Lịch Sử Đảng, số 11, năm
1999. Phạm Quang Toàn “ 20 năm bình định tàn bạo thâm độc của Mỹ - Nguỵ”,
Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 6, 1976. Nguyễn Xuân Năng, Phụ nữ miền Nam
trong kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí Lịch sử Quân sự, Số 2/1995. Nguyễn Hữu
Nguyên, Bước đầu tìm hiểu sự phá triển chiến thuật của bộ đội địa phương Long
An trong kháng chiến chống Mỹ (giai đoạn 60-65), Tạp chí Lịch sử Quân sự, số
12/1986. Đỗ Quang Hưng, Lực lượng vũ trang ba thứ quân trên chiến trường
miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến Chống Mỹ cứu nước, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 6/1995. Đỗ Xuân Huy, Quân giải phóng
miền Nam Việt Nam – sự vận dụng đúng đắn sáng tạo tư tưởng quân sự của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang, Tạp chí Lịch sử Quân sự, Số
5/1994. Trương Minh Dục, Cuộc đấu tranh chống, phá “ấp chiến lược” ở đồng
bằng Khu 5 (1961-1965), Tạp chí Lịch sử Quân sự, Số 1/1993. Trần Văn Trà,
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, một chặng đường lịch sử vẻ vang của Quân
đội nhân dân Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 6/1991. Lê Quốc San, Chiến
thắng Ấp Bắc, Bước ngoặt mở đầu sự thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của Mỹ ngụy… Các bài nghiên cứu chuyên sâu về những lát cắt hay sự kiện
hay giai đoạn nào đó trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của các tác giả được đăng
tải và nghiên cứu rất nhiều trong các tạp chí nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Lịch sử
Quân sự…
7



- Nhóm các luận văn, luận án có liên quan.
Nguyễn Đình Lê, Đảng bộ Long An xây dựng lực lượng cách mạng lãnh
đạo nhân dân toàn tỉnh đấu tranh chống Mỹ - Diệm trong giai đoạn 1954 –
1960, Luận văn tốt nghiệp, Hà Nội 1977. Huỳnh Thị Liêm, Phong trào đấu
tranh chống, phá ấp chiến lược ở Đông Nam Bộ (1961-1965), Luận án Tiến sỹ
Khoa học Lịch sử, Bùi Thị Trang, Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị
với đấu tranh quân sự ở miền Nam 1961 – 1968, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử,
HN 2014. Vũ Thị Thu Hiền, Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng an ninh miền
Nam từ 1960 đến năm 1975, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử, HN 2012. Luận văn
thạc sỹ, Hà Nội 2012. Lê Đình Hùng, Luận văn thạc sỹ Đảng lãnh đạo xây
dựng lực lượng vũ trang và dấu tranh vũ trang ở miền Nam từ năm 1961 đến
năm 1965. Trần Như Cương, Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Đảng lãnh đạo phong
trào chiến tranh chống chương trình bình định của chính quyền Sài Gòn tại
Đông Nam Bộ từ 1961 đến 1965” Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
2003. Phí Văn Thức, Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Đảng lãnh đạo phong trào đấu
tranh chính trị tại một số đô thị lớn miền Nam từ năm 1961 đến 1968” Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006. Trần Thị Thu Hương, Luận án
Tiến sĩ Lịch sử “Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh chống “Quốc sách ấp
chiến lược” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn từ 1961 -1965”, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000…và rất nhiều các công trình khoa học khác..
-

Nhóm các tài liệu người nước ngoài viết về cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước.
Maicơn Máclia có tác phẩm “Việt Nam cuộc chiến tranh mười nghìn
ngày” Nxb CTQG, Hà Nội - 1990. Tác giả R.S Mác Namara với cuốn “Nhìn
lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam” Nxb CTQG, Hà
Nội, 1995. Hay R.Nich Xơn cũng đã đề cập một phần về cuộc chiến tranh Việt

Nam trong “Hồi ký” của mình Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004).
8


Do quan điểm lập trường giai cấp tư sản, các học giả có đề cập đến cuộc chiến
tranh của Mỹ ở Việt Nam, nhưng cách nhìn nhận đánh giá về cuộc chiến tranh
có khác nhau nên chưa thật sự khách quan. ấn phẩm Chiến tranh Việt Nam là
thế đó của tập thể tác giả do E.P Gladunoops, Phó Tiến sỹ kinh tế, Chủ tịch Hội
đồng biên soạn, NXB Chính trị quốc gia 2007 là cuốn hồi ký chân thực, tập
hợp 29 bài viết từ những góc nhìn của mỗi sỹ quan, mỗi chuyên gia về bối
cảnh, tình thế của cuộc chiến đấu chống trả cuộc tấn công bằng đường không
của Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng…
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích
Làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn sáng tạo của Đảng xây dựng
lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang trong những năm 1961 – 1965 ở miền
Nam, nhân tố quan trọng quyết định đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
của đế quốc Mỹ. Nêu vai trò, đóng góp của lực lượng vũ trang cách mạng
trong những năm 1961 – 1965. Làm rõ giá trị lịch sử, hiện thực và đúc rút
những kinh nghiệm có giá trị tham khảo vận dụng vào hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ:
Để đạt mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
-

Làm rõ yêu cầu khách quan, hoàn cảnh lịch sử dẫn đến quá trình xây

dựng và đấu tranh của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam từ năm 1961
đến năm 1965.
-


Làm rõ Quá trình xây dựng và đấu tranh của lực lượng vũ trang cách

mạng kể từ khi hình thành đến khi phát triển, trưởng thành qua các trận đánh
lớn, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
4.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình xây dựng
và chiến đấu của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam từ năm 1961 đến
năm 1965.
9


* Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Nghiên cứu về lực lượng vũ trang cách mạng (khái niệm,
các bộ phận, lực lượng cấu thành), quá trình xây dựng và chiến đấu của lực
lượng vũ trang.
Thời gian: Từ năm 1961 đến năm 1965 qua các sự kiện tiêu biểu. Tuy
nhiên để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả có mở rộng tìm
hiểu bối cảnh lịch sử, âm mưu của đế quốc Mỹ, chính quyền Sài Gòn và chính
sách của Đảng trong những năm 1954 – 1960.
Không gian: Trên chiến trường miền Nam.
Tác giả lựa chọn những năm 1961-1965 vì đây là giai đoạn những năm
bản lề trong quá trình xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng.
Những năm 1961 – 1965 có những thời cơ và hoàn cảnh mới để lực lượng vũ
trang cách mạng phát triển và dần đi đến hoàn thiện.
5. Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận: Dựa trên đường lối, chủ trương của Đảng, Bộ Chính trị về
chiến tranh cách mạng, về xây dựng lực lượng vũ trang, đấu tranh vũ trang.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận mác xít, phương
pháp nghiên cứu, phương pháp lịch sử, phương pháp lôgích.
6. Đóng góp của luận văn

Tập hợp, hệ thống hóa các nội dung liên quan đến lực lượng vũ trang cách
mạng từ 1961- 1965 nhằm đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế
quốc Mỹ. Xây dựng cái nhìn toàn cảnh, thống nhất quá trình xây dựng, chiến
đấu của lực lượng vũ trang cách mạng giai đoạn hình thành và phát triển này, là
bản lề tiến lên quân đội vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ sau này.
Khẳng định ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa hiện thực của chủ trương xây dựng lực
lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang để từ đó có thể đúc rút kinh nghiệm vận
dụng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo về Tổ
quốc hiện nay.
10


7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
Luận văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Tình hình miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ.
Chương 2: Quá trình xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam
1961 - 1965
Chương 3: Quá trình chiến đấu của lực lượng vũ trang cách mạng miền
Nam 1961-1965

11


Chương 1
TÌNH HÌNH MIỀN NAM VIỆT NAM SAU HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ
1.1 Âm mưu của Đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt
Nam
1.1.1 Âm mưu của Đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam
Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt

Nam được ký kết năm 1954 đã chính thức kết thúc cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp của nhân dân ta. Sau hiệp định này, miền Bắc hoàn toàn được
giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng theo nội dung hiệp định
này, từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam, nhân dân Việt Nam vẫn phải tiếp tục cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất hai miền và tiến theo con đường
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, Đông Nam Á là một khu vực có vị trí
chiến lược quan trọng. Khu vực này trở thành bàn đạp để Mỹ thực hiện mục
tiêu bá chủ thế giới. Vì vậy, hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết
buộc Pháp phải kết thúc cuộc chiến tranh, điều này khiến Mỹ bàng hoàng lo sợ
“Cộng sản sẽ kiểm soát toàn bộ Đông Nam Á sẽ làm cho vị trí của Mỹ ở các
mắt xích gồm các đảo ngoài khơi Thái Bình Dương trở nên mong manh và sẽ
phá hoại nghiêm trọng lợi ích an ninh cơ bản của Mỹ ở viễn đông” [1, tr.237].
Vì thế, Mỹ quyết định chọn Việt Nam làm nơi thí nghiệm chiến lược toàn cầu
phản cách mạng nhằm đè bẹp cách mạng Việt Nam, ngăn chặn và đẩy lùi chủ
nghĩa cộng sản ở Đông Dương và Đông Nam Á. Qua đó răn đe các nước xã hội
chủ nghĩa, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Chỉ một ngày sau khi Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết,
tổng thống Mỹ Ai-xen-hao tuyên bố với báo chí rằng: Hoa Kỳ không tham dự
vào những quyết định của Hội nghị Giơnevơ và không bị ràng buộc vào những
quyết định ấy. “Tuyên bố này của người đứng đầu nước Mỹ như một
12


sự thừa nhận gián tiếp việc Mỹ sẽ tiếp tục thực hiện mục tiêu xâm lược và
thống trị mà người Pháp phải bỏ dở. Để hiện thực hóa lời khẳng định của Aixen – hao, Mỹ đã thi hành rất nhiều những thủ đoạn quân sự, chính trị, ngoại
giao, từng bước xâm lược Việt Nam” [1, tr.240]
Về quân sự, Mỹ chủ trương dùng chính sách dùng người Việt trị người
Việt, đầu tư tài chính để xây dựng lực lượng quân đội và đội ngũ chỉ huy tay
sai bản xứ chứ không trực tiếp mang quân tham chiến tại Việt Nam. Đồng thời,

dưới danh nghĩa giúp đỡ chính quyền Sài Gòn, một số lượng lớn sĩ quan tham
mưu của Mỹ cũng được đưa sang Việt Nam để thực hiện nhiệm vụ biến miền
Nam Việt Nam thành “mồ chôn cộng sản”. Chính quyền ngụy quyền Ngô Đình
Diệm thân Mỹ được dựng lên thực hiện các mưu đồ chính trị dưới danh nghĩa
nước Việt Nam cộng hòa. Bên cạnh đó, các lực lượng tay sai thân Pháp trước
kia cũng bị loại bỏ hoàn toàn.
Về lực lượng quân đội gồm có quân Bình Xuyên của Bảy Viễn, lực lượng
vũ trang Hoà Hảo và tín đồ Cao Đài vốn là những lực lượng thân Pháp. Nằm
trong chiến lược loại bỏ ảnh hưởng của Pháp ở miền Nam Việt Nam, Mỹ Diệm đã lần lượt thanh toán xong những lực lượng quân sự này và tiêu diệt nốt
lực lượng các đảng phái tay chân của Pháp như Đại Việt, Quốc Dân Đảng
... nhằm loại bỏ tận gốc ảnh hưởng của Pháp chỉ trong khoảng thời gian hơn
một năm từ tháng 4/1955 đến tháng 6/1956.
Như vậy, tới cuối năm 1956, Mỹ đã hoàn toàn loại bỏ ảnh hưởng của thực
dân Pháp ra khỏi Việt Nam, tiến tới độc chiếm toàn Đông Dương, thực hiện
mục đích biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới.
1.1.2 Chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam
Được sự trợ giúp của Mỹ, ở miền Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm
càng điên cuồng phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, cự tuyệt tổng tuyển cử, bày ra
chiến dịch “đả thực”, “bài phong”, “diệt cách mạng” nhằm xóa bỏ bộ máy cai
trị của Pháp và đàn áp dã man những người yêu nước. Tháng 3/1956, dưới
13


sự bảo trợ của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức tuyển cử, bầu ra Quốc
hội. Tháng 10/1956, Diệm ban hành Hiến pháp của “nền Đệ nhất cộng hoà” một chính quyền tay sai “hợp hiến, hợp pháp” giả hiệu đã được xây dựng.
Chính quyền đó đã thi hành hàng loạt các biện pháp nhằm chống phá cách
mạng, tiêu diệt phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam, phá hoại Hiệp
định Giơnevơ [46, tr 13].
Mỹ - Diệm xây dựng một bộ máy cai trị từ Trung ương đến tận thôn, xã.
Ở Trung ương, ngoài Quốc hội là cơ quan lập pháp, có Tổng thống và kèm

theo đó là Phủ Tổng thống với các Bộ Quốc phòng, ngoại giao, nội vụ, kinh tế,
tư pháp, y tế, công dân vụ ... Ở xã, Mỹ - Diệm đưa bọn ác ôn về làm nòng cốt,
buộc những người có thế lực hay kháng chiến cũ tham gia chính quyền để
tranh thủ nhân dân, sau đó thanh lọc dần hoặc biến họ thành tay sai. Bộ máy
kìm kẹp ở cơ sở gồm Hội đồng hương chính xã, ban đại diện ấp, uỷ viên cảnh
sát, tổng đoàn, xã đoàn, dân vệ, tổ chức ngũ gia liên bảo, mạng lưới công an,
do thám chìm nổi. Chúng buộc đồng bào lập sổ hộ tịch, làm thẻ căn cước, phân
loại từng gia đình hòng nắm chặt từng người dân.
Như vậy, về cơ bản chính quyền Mỹ - Diệm đã được xây dựng một cách
hoàn bị từ Trung ương đến cơ sở. Trên cơ sở đó chính quyền Mỹ - Diệm bắt
tay vào thực hiện “bình định” miền Nam Việt Nam với mục tiêu hàng đầu là
thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” [46, tr 13]
Từ tháng 5/1955 đến tháng 5/1956, Mỹ - Diệm phát động “chiến dịch tố
cộng” giai đoạn một gọi là giai đoạn mở rộng diện trên quy mô rộng lớn toàn
miền Nam. Mục đích của “chiến dịch tố cộng” là gây uất hận trong dân chúng
đối với Việt cộng. Mục tiêu của địch là tập trung vào nơi có phong trào cách
mạng phát triển, đánh cả người hoạt động cách mạng và dân thường, lấy đánh
vào Đảng cộng sản làm mục tiêu quyết định nhất, vừa tiêu diệt được con
người, vừa khủng bố tinh thần. Tất cả đều nhằm mục đích tối hậu là làm cho

14


những người cộng sản hoặc bị tiêu diệt, hoặc chịu thuần phục quốc gia, làm
cho quần chúng hoặc chết, hoặc trở thành người dân quốc gia.
Để đạt mục tiêu trên, Mỹ - Diệm tổ chức bộ máy chỉ đạo tố cộng rất chặt
chẽ và thống nhất từ trên xuống dưới. Cao nhất là Hội đồng chỉ đạo tố cộng
bao gồm tất cả các bộ trưởng trong chính phủ do Diệm trực tiếp làm chủ tịch.
Dưới Hội đồng chỉ đạo tố cộng là Uỷ ban tố cộng Trung ương với các ban
thường trực gồm đại diện Bộ công an, Thông tin, Quốc phòng ... Nhiệm vụ của

Uỷ ban tố cộng Trung ương là trực tiếp chỉ đạo phong trào tố cộng ở các tỉnh,
các cơ quan và đào tạo cán bộ làm công tác tố cộng ở cấp Trung ương. Giúp
việc cho uỷ ban này có các Ban Tuyên huấn, Học tập kiểm thảo, khai thác ...
[44, tr.30]
Kết thúc giai đoạn 1 tố cộng Mỹ - Diệm đạt được một phần ý đồ của
chúng là gây hoang mang, lo sợ trong dân chúng, tạo nên mối nghi ngờ về lòng
tin của nhân dân với cách mạng. Các chiến dịch tố cộng, diệt cộng ác liệt của
Mỹ - Diệm đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động, mất lòng tin,
không giữ vững được khí tiết người cộng sản, đã ra đầu hàng, tự thú với địch.
Sau thành công bước đầu của giai đoạn 1, từ giữa năm 1956, Mỹ - Diệm
triển khai tiếp giai đoạn 2, trọng điểm là các tỉnh Nam Bộ, đồng thời Ngô Đình
Diệm ngang nhiên tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơnevơ, không hiệu
thương với miền Bắc, không tổng tuyển cử. Từ đây, Mỹ - Diệm tăng cường
đánh phá với quy mô lớn và rất tàn bạo đối với nhân dân miền Nam. Chúng
công khai đưa vào hiến pháp những điều khoản phủ nhận chủ nghĩa cộng sản,
“đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”. Những kinh nghiệm của tố cộng giai
đoạn một được Mỹ - Diệm tận dụng triệt để trong giai đoạn
2. Tất cả những điểm trên làm cho tố cộng, diệt cộng giai đoạn 2 của Mỹ Diệm trở nên rất khốc liệt.
15


Bắt đầu từ ngày 24/06/1956 đến ngày 24/02/1957 địch sử

dụng 2

sư đoàn bộ binh (sư 11 và sư 13), 6 trung đoàn độc lập, 4 hải đoàn xung
phong kết hợp với các đoàn tố cộng và bộ máy kìm kẹp ở cơ sở mở cuộc hành
quân mang tên Thoại Ngọc Hầu càn quét, đánh phá các tỉnh đồng bằng Sông
Cửu Long. Mục tiêu cuộc hành quân này là tiêu diệt cơ sở cách mạng, thanh
toán lực lượng vũ trang của ta và tàn quân của Hoà Hảo, củng cố, phát triển

chính quyền ngụy. Đồng thời, từ ngày 10/07/1956 đến ngày 24/02/1957, chúng
mở cuộc hành quân Trương Tấn Bửu, càn quét các tỉnh miền Đông Nam Bộ
(Kể cả Sài Gòn, chợ Lớn) nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng và tàn quân
Bình Xuyên, Cao Đài, kiểm soát chặt chẽ vùng biên giới, tái lập an ninh nông
thôn, hỗ trợ cho các đoàn tố cộng, thực hiện chiến dịch tố cộng, diệt cộng ở
vùng này [4, tr.34].
Từ ngày 01/10/1957 đến tháng 12/1957, Mỹ - Diệm lại mở tiếp cuộc
hành quân mùa Thu, đánh vào miền Tây Nam Bộ lần thứ 2 nhằm củng cố kết
quả tố cộng ở đây và ngăn trở hoạt động của ta, bảo vệ vựa lúa của chúng ở
đồng bằng Sông Cửu Long.
Với thủ đoạn đánh phá vô cùng thâm hiểm như chà đi, xát lại nhiều lần,
phân vùng, chia ô để đánh, đánh cả ngày lẫn đêm, dùng biệt kích, thám báo,
chụp bắt bất ngờ cơ sở ta; sử dụng bọn đầu hàng, tự thú chỉ điểm, dùng hình
thức chiến tranh tâm lý để khủng bố, uy hiếp, lung lạc tinh thần cản bộ nhân
dân ... địch đã gây cho ta những tổn thất nặng nề.
Đi đôi với tố cộng, diệt cộng, Mỹ - Diệm còn ban hành hai chính sách “cải
tiến nông thôn” và “lập khu trù mật”, “khu dinh điền” nhằm khống chế nông
dân, kiểm soát nông thôn, bổ sung cho “chiến lược tố cộng”. Chương trình cải
tiến nông thôn được tiến hành trên cơ sở lấy “cải cách điền địa” làm khâu trung
tâm để mua chuộc, lừa phỉnh, lôi kéo nông dân nhằm làm suy yếu phong trào
cách mạng ở nông thôn.
16


Bằng chương trình cải cách điền địa, chính quyền Ngô Đình Diệm đã
cướp không ruột đất của nông dân, phát triển chế độ chiếm hữu ruộng đất của
giai cấp địa chủ, duy trì phương thức bóc lột phong kiến nhằm xoá bỏ ảnh
hưởng của cách mạng ở nông thôn, bần cùng hoá lực lượng đồng minh của giai
cấp công nhân trong cách mạng dân tộc dân chủ.
Cùng với việc thực hiện Chương trình cải cách điền địa, tháng 04/1957

Mỹ - Diệm cho ra đời cái gọi là Chính sách tái định cư và cứu tế dân di cư,
bằng việc xây dựng các khu dinh điền. Núp dưới danh nghĩa là một tổ chức sản
xuất nông nghiệp để giải quyết đời sống cho dân nghèo, đặc biệt là dân di cư từ
miền Bắc vào. Các dinh điền được thiết lập trên các cao nguyên hẻo lánh và
xung yếu dọc biên giới nhằm mục tiêu chủ yếu là xây dựng tuyến ngăn chặn từ
xa, từng bước bao vây, cô lập cách mạng. Chính Diệm - Nhu đã xác định: “Khu
dinh điền là biện pháp xẻ đường đưa dân vào chiến khu, mật khu Việt cộng,
dùng dân đề đẩy cộng sản ra khỏi vùng đó và dinh điền là nơi cung cấp tin tình
báo, nơi xuất phát để hành quân ngăn chặn xâm nhập” [1, tr.67]. Ngay cả
Trưởng phái đoàn viện trợ kinh tế Mỹ thì tuyên bố: “Phải làm cho các khu dinh
điền trở thành những cứ điểm bao vây bọn Việt cộng. Với ý đồ như vậy, Mỹ Diệm tổ chức bộ máy chỉ đạo để thực hiện chương trình này rất chặt chẽ và
thống nhất từ trung ương tới địa phương.
Với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, sau gần 2 năm thực hiện (từ
4/1957 đền đầu năm 1959) trên toàn miền Nam, Mỹ - Diệm đã dồn được
128.374 người, trong đó có 90.436 người là dân di cư từ miền Bắc vào 84 khu
dinh điền, khai phá 12.322 ha đất canh tác. Riêng Nam Bộ, chúng xây dựng
được 7 khu gồm 47 điểm ở Phước Long, Kiến Phong, Kiến Tường, có cả
những khu dành cho các gia đình binh sĩ quân đội Sài Gòn ở dọc biên giới
huyện Mộc Hoá (Long An), Tân Uyên ... [4, tr.40]. Phần lớn dân chúng bị dồn
ép, cưỡng bức vào các khu dinh điền, không chịu nổi cuộc sống khắc nghiệt, bị
o ép mọi bề ở nơi rừng thiêng, nước độc này nên cuối năm 1958, số bỏ trốn
ngày càng tăng.
17


Sau hàng loạt các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, các chương trình cải
cách điền địa, lập khu trù mật, khu dinh điền ... chính quyền Mỹ - Diệm đã làm
cho cách mạng miền Nam tổn thất nặng nề. Để tiến lên tiêu diệt hoàn toàn cách
mạng miền Nam, Mỹ - Diệm tiếp tục thi hành thêm nhiều chính sách khốc liệt
hơn.

Tháng 04/1959, Quốc hội chính quyền Sài Gòn thông qua đạo luật 91,
được Diệm ban hành ngày 06/05/1959 mang tên “Luật 10/59” về thành lập các
toà án quân sự đặc biệt để xử những người cộng sản. Theo luật 10/59, tội xử
chỉ có 2 mức: tử hình và khổ sai, kéo dài 3 ngày là tối đa, không có giảm
khinh, không có kháng án. Thực chất của luật 10/59 là đánh vào tất cả các lực
lượng cách mạng và nhân dân miền Nam yêu nước. Như vậy, “sau khi căn bản
thanh toán xong lực lượng vũ trang giáo phái, lực lượng Đại Việt, Việt Nam
Quốc dân Đảng, Mỹ - Diệm quay lại đàn áp lực lượng kháng chiến cũ, bởi đây
mới thực sự là đối tượng nguy hiểm nhất của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của
Mỹ ở miền Nam. Các đợt “tố cộng, diệt cộng” ngày càng tàn bạo, đãm máu.
Đỉnh cao của chính sách trả thù người kháng chiến cũ của Mỹ - Diệm là ban
hành Luật 10/59 để khủng bố khốc liệt đồng bào yêu nước ở miền Nam”[54,
tr.6]
Ngày 04/07/1959, Quốc hội Diệm lại thông qua luật số 21 cho phép
Diệm dùng máy chém giết hại nhân dân miền Nam. Chúng đưa máy chém đi
khắp nơi, gây nên các vụ giết người man rợ. Bất kỳ ai được chúng gọi là Việt
cộng hoặc “chứa chấp” Việt cộng đều bị buộc tội, “nhà nào chứa chấp cộng sản
thì bị chặt đầu hết cả nhà”. Chúng giở sổ theo dõi của mật vụ, moi móc đủ mọi
chuyện lớn nhỏ của đồng bào từ trước tới nay: ai đã biểu tình, ai xin miễn dịch,
ai phản đối trưng cầu dân ý, ai chưa dứt khoát với cộng sản ... Hàng loạt người
bị bắt, bị giết, bị tù đày. Đây là thời kỳ đen tối nhất của phong trào cách mạng
miền Nam. Máy chém đã trở thành biểu tượng của chế độ phát xít Ngô Đình
Diệm do Mỹ dựng lên.
18


1.1.3 Tình hình cách mạng miền Nam lâm vào thế khó khăn
Trước âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm,
bằng nhiều cách thức và phương pháp đàn áp, Mỹ - Diệm ra sức đánh phá cách
mạng. Địch dùng bạo lực phát xít đánh thẳng vào lực lượng cách mạng, vào

phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Vì thế, phong trào cách mạng
của quần chúng gặp nhiều khó khăn, tổn thất: thế cách mạng ở thành phố, thị
xã, thị trấn yếu dần, tại nông thôn tình hình đấu tranh chống địch bị giảm sút,
nhiều cơ sở cách mạng bị tan rã và bị thiệt hại nặng, quần chúng bị kìm kẹp gắt
gao, có chỗ gượng lại được nhưng không bằng cũ. Theo thống kê, chỉ hai năm
sau Hiệp định Giơnevơ, Đảng bộ Nam Bộ bị tổn thất nặng: 1 phó bí thư Xứ uỷ,
18 tỉnh uỷ viên, 100 huyện uỷ viên bị bắt hoặc bị giết. Trong vòng 4 năm (1955
- 1958), trên 9/10 cán bộ, đảng viên ở miền Nam bị giết hại. Riêng Nam Bộ chỉ
còn 5 ngàn đảng viên trên tổng số 60 ngàn (chỉ còn trên 8%). Tỉnh uỷ Gia Định
sau nhiều lần “lột xác”, đến cuối năm 1959, không còn một tỉnh uỷ viên nào.
Tỉnh uỷ Kiến Tường đến giữa năm 1959 chỉ còn lại 1 chi bộ, với 3 đảng viên
trên địa bàn 21 xã. Một số địa phương như Gò Công, Chợ Giao, Châu Thành,
Mỹ Tho gần như vùng trắng. Khu uỷ Sài Gòn, chợ Lớn đến đầu năm 1960, chỉ
còn khoảng 200 đảng viên và quần chúng nòng cốt. Khu uỷ chỉ còn 2 đồng chí
Võ Văn Kiệt và Huỳnh Tấn Phát, buộc phải đứng ngoài căn cứ để tiếp tục chỉ
đạo phong trào [40, tr. 21].
Như vậy, trước sự khủng bố, đàn áp dã man của chính quyền Mỹ - Diệm,
cách mạng miền Nam Việt Nam đã bị tổn thất nặng nề. Đây được coi là thời kỳ
“đen tối” nhất của phong trào cách mạng miền Nam. Cuộc đấu tranh quyết liệt
của nhân dân chống Mỹ - Diệm đòi hỏi cấp bách phải có sự chuyển hướng
chiến lược đấu tranh mới có thể thống nhất nước nhà được. “Những chính sách
địch áp dụng ở miền Nam chính tỏ rằng, không thể thực hiện thống nhất nước
nhà bằng hòa bình, hiệp thương tổng tuyển cử như Hiệp định Giơ-ne-vơ đã quy
định. Nếu không có giải pháp đấu tranh mới thì chẳng những mực tiêu
19


thống nhất nước nhà không thực hiện được mà ngay bản thân lực lượng chính
trị yêu nước ở miền Nam cũng có nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn” [54, tr.7].
1.2 Quá trình xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam từ năm

1954 đến năm 1961
1.2.1 Khái niệm lực lượng vũ trang cách mạng
Lực lượng vũ trang nhân dân là các tổ chức vũ trang và bán vũ trang của
nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quản lí, có nhiệm vụ “chiến đấu giành và giữ độc
lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và những thành quả cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước. Là lực
lượng xung kích trong khởi nghĩa toàn dân giành chính quyền, là lực lượng
nòng cốt của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân” [36, tr.45]
Lực lượng vũ trang nhân dân là tên gọi tiền thân từ lực lượng vũ trang
cách mạng. Lực lượng vũ trang cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ
chức, lãnh đạo và rèn luyện qua cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong những
năm kháng chiến chống Mỹ, vai trò của lực lượng vũ trang trở nên cấp thiết,
quan trọng và từng bước phát triển phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
1.2.2 Các bộ phận của lực lượng vũ trang cách mạng
“Quan điểm Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng là sức mạnh của toàn
dân tộc. Trên cơ sở quan điểm đó, tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân từng
bước được phát triển bao gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương
và dân quân tự vệ, hình thành quân chủ lực và quân địa phương, lực lượng cơ
động và lực lượng tại chỗ. Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc”.Đó là cách tổ chức
độc đáo và đặc biệt hiệu quả đối với cách mạng Việt Nam. Mỗi thứ quân có vai
trò chiến lược nhất định, nên khi đã tổ chức, các thứ quân phải cùng phối hợp
hoạt động, hỗ trợ, phát huy tác dụng để tạo sức mạnh tổng hợp lớn
20


nhất. Tư tưởng này đã được Người thể hiện rất rõ qua Chỉ thị thành lập đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân. Ngày nay, các bộ phận của lực lượng vũ

trang nhân dân đã rộng hơn, hoàn chỉnh và phù hợp với giai đoạn hiện nay
“Lực lượng vũ trang gồm : Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương ,lực lượng cảnh
sát biển hợp thành Quân đội nhân dân.Công an nhân dân(gồm An ninh-Cảnh
sát ) - Lực lượng bán vũ trang gồm : Dân quân tự vệ, được tổ chức ở các đơn vị
cơ sở, vừa sản xuất vừa chiến đấu, gắn liền với đồng ruộng và các nhà máy xí
nghiệp cơ quan nhà nước…”
Trong những năm kháng chiến chống mỹ, bố đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân du kích từng bước phát triển và phát huy được vai trò
cách mạng.
1.2.3. Chủ trương của Đảng giai đoạn 1954-1960
Hiệp định Giơnevơ được ký kết đã đưa cách mạng Việt Nam bước sang
giai đoạn mới. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bắt đầu công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong khi tình hình miền Nam lại có rất nhiều biến động.
Trước sự chuyển biến của tình hình, từ ngày 05 đến ngày 07/09/1954, Bộ chính
trị đã họp và ra nghị quyết: “Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách
mới của Đảng”.
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm và tình hình mới của cách mạng
Việt Nam, Bộ chính trị đề ra nhiệm vụ của cách mạng nước ta là: “Đoàn kết và
lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến ... để củng cố hoà
bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng
cường xây dựng Quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy
mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, đặng củng cố hoà bình
thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc” [20, tr.15].

21


×