Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Tác động của chủ nghĩa dân tộc đối với liên minh châu âu từ năm 2004 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.38 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------

LÊ THỊ BÍCH PHƢƠNG

TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TỘC ĐỐI VỚI
LIÊN MINH CHÂU ÂU TỪ NĂM 2004 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUAN HỆ QUỐC TẾ

HÀ NỘI – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------

LÊ THỊ BÍCH PHƢƠNG

TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TỘC ĐỐI VỚI
LIÊN MINH CHÂU ÂU TỪ NĂM 2004 ĐẾN NAY

Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số chuyên ngành: 60 31 02 06

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUAN HỆ QUỐC TẾ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. PHẠM QUANG MINH

HÀ NỘI – 2016




LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, em đã nhận đƣợc sự
hƣớng dẫn, động viên, giúp đỡ tận tình của PGS.TS Phạm Quang Minh. Em xin
đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô trong Khoa Quốc tế học,
trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã nhiệt
tình giảng dạy và cung cấp cho chúng em những kiến thức hữu ích trong suốt thời
gian học Cao học.
Đặc biệt, em muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, ngƣời thân,
bạn bè vì sự trợ giúp, động viên to lớn về mặt tinh thần cũng nhƣ vật chất trong
suốt thời gian qua.
Hà Nội, ngày 20 tháng 01 năm
2016
Học viên

Lê Thị Bích Phƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................ 1
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu..............................................................................6
6. Cấu trúc nội dung luận văn...........................................................................6
7. Ý nghĩa khoa học và những đóng góp của Luận Văn...................................6
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC Ở CHÂU ÂU. 8

1.1. Khái quát về Chủ nghĩa dân tộc............................................................. 8
1.1.1. CNDT – khái niệm và quá trình hình thành............................................8
1.1.2. Những mặt tích cực và tiêu cực của CNDT.......................................... 12
1.1.3. CNDT trong tương quan với Chủ nghĩa khu vực; Chủ nghĩa toàn cầu.
.........................................................................................................................16
1.2. Khái quát về Liên minh Châu Âu – EU và vấn đề CNDT.................19
1.2.1. CNDT ở Châu Âu từ thế kỷ XVII đến trước Chiến tranh thế giới II.....19
1.2.2. CNDT Châu Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai đến trước 2004........22
Tiểu kết...........................................................................................................24
CHƢƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TỘC ĐỐI VỚI
LIÊN MINH CHÂU ÂU TỪ NĂM 2004.....................................................25
2.1. Khái quát bối cảnh Châu Âu từ 2004 đến nay....................................25
2.2. Những yếu tố làm nổi lên CNDT ở Liên minh Châu Âu từ năm 2004
.........................................................................................................................27
2.3. Đặc điểm CNDT ở một số nƣớc châu Âu trong quá trình hội nhập
vào Liên minh châu Âu.................................................................................31
2.4. Tác động tích cực................................................................................... 32
2.4.1. Chính trị................................................................................................33
2.4.2. Kinh tế...................................................................................................35


2.4.3. Văn hóa.................................................................................................38


2.5. Tác động tiêu cực................................................................................... 40
2.5.1. Chính trị: Ly khai và bất ổn.................................................................. 40
2.5.2. Kinh tế: Suy thoái và phân rẽ................................................................47
Tiểu kết...........................................................................................................54
CHƢƠNG 3: TRIỂN VỌNG CỦA MỐI QUAN HỆ NÀY VÀ BÀI HỌC
CHO ĐÔNG NAM Á....................................................................................55

3.1. Triển vọng cho mối quan hệ này...........................................................55
3.2. Bài học cho Đông Nam Á trong xử lý mối quan hệ giữa CNDT và
CNKV.............................................................................................................59
Tiểu kết...........................................................................................................71
KẾT LUẬN....................................................................................................72
PHỤ LỤC.......................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................78


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN

Association of Southeast Asian Nations

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CNDT

Chủ nghĩa dân tộc

CNQT

Chủ nghĩa quốc tế

CNKV

Chủ nghĩa khu vực

EEC

European Economic Community

Cộng đồng kinh tế Châu Âu

EFSF

European Financial Stability Facility
Quỹ bình ổn định tài chính châu Âu

EU

European Union
Liên minh Châu Âu

GDP

Gross Domestic Products
Tổng sản phẩm quốc nội


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Hội nhập khu vực là 1 trong những xu thế chính chi phối tình hình chính trị
kinh tế thế giới kể từ sau chiến tranh lạnh kết thúc. Sự ra đời của các liên minh khu
vực mà trong đó Liên Minh Châu Âu (EU) là biểu hiện rõ nét của toàn cầu hóa và
khu vực hóa. Những thành công mà EU và các tổ chức khu vực khác nhƣ ASEAN
dƣờng nhƣ dần củng cố niềm tin về một thế giới đại đồng vì lợi ích và an ninh
chung. Nhƣng gần đây, những biến động của nền kinh tế, chính trị thế giới đã để lộ
1


chủ nghĩa dân tộc (CNDT) đang nảy nòi và phát triển ở EU và các khu vực khác.
Vậy đâu là mối quan hệ giữa Chủ nghĩa Quốc gia dân tộc và Chủ nghĩa khu vực; và
làm sao để đảm bảo hài hòa lợi ích quốc gia và lợi ích khu vực đang là vấn đề mà
không chỉ các nhà học giả, các chính trị gia mà các nhà quyết sách đứng đầu các
chính phủ cũng đang rất quan tâm.
Một cách tổng quát, EU đã giải quyết tốt những thách thức của CNDT trong
quá trình liên kết khu vực và vực dậy nền kinh tế khu vực trong giai đoạn khó khăn
nhất đầu thế kỷ XXI sau cuộc khủng hoảng kép. Nhiều ý kiến cho rằng EU đang suy
yếu và các xu hƣớng cổ xúy CNDT cực đoan đang trỗi dậy; vậy hình thái của chúng
là gì, mức độ biểu hiện ra sao và đang gây ra những thách thức gì đối với sự tồn tại
và phát triển của khối liên minh khu vực này? Ngƣợc lại, lần mở rộng mới nhất
năm 2013 cũng nhƣ những thành tựu cân bằng kinh tế mới đây phải chăng vẫn
chứng tỏ EU với những giá trị của mình vẫn rất hấp dẫn với quốc gia khác và có thể
trở thành mẫu hình phát triển và hội nhập khu vực cho các quốc gia và khu vực
khác. Vậy đâu là những bài học và kinh nghiệm quý cho quá trình hội nhập và liên
kết khu vực trên thế giới nói chung và với Việt Nam cũng nhƣ hội nhập khu vực
Đông Nam Á nói riêng? Bài nghiên cứu sẽ đi sâu để giải quyết những vấn đề này.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Ở ngoài nước
-

Trong sách “International Politics on the world stage” (Chính trị học thế

giới trong bối cảnh quốc tế), cuốn sách đƣợc Tiến sĩ John T.Rourke, chủ nhiệm
1 Thuật ngữ Chủ nghĩa dân tộc trong bài nghiên cứu đƣợc sử dụng để chỉ Chủ nghĩa Quốc gia dân tộc. Việc
so sánh nội hàm các khái niệm sẽ đƣợc đề cập đến trong các phần sau của bài nghiên cứu.


1


khoa Chính trị học tại Đại học Connecticut biên soạn (tái bản lần thứ 8 năm 2001
do nhà xuất bản McGraw-Hill/Dushkin ấn hành) phân tích rõ ràng, sắc sảo, soi
chiếu nền chính trị thế giới từ cấp độ hệ thống quốc tế, cấp độ quốc gia đến cấp độ
cá nhân, ông luôn cố gắng đối chiếu những chiều hƣớng phát triển khác biệt trong
nền chính trị thế giới về các vấn đề cơ bản nhƣ cấu trúc các thể chế, an ninh toàn
cầu và an ninh quốc gia, kinh tế quốc tế trên cả hai phƣơng diện cạnh tranh và hợp
tác, vấn đề bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, phẩm giá con ngƣời và các giá trị toàn
cầu chung. Về CNDT, cuốn sách dành một phần riêng để đánh giá hai phƣơng
hƣớng chính trị cơ bản của các chủ thể quan hệ quốc tế trong thời kỳ hiện đại, một
là phƣơng hƣớng chính trị truyền thống lấy nền tảng là CNDT, coi CNDT là động
lực phát triển; định hƣớng chính trị thứ hai là các quốc gia lựa chọn con đƣờng
phát triển đất nƣớc đƣợc dựa trên chủ nghĩa xuyên quốc gia, nhấn mạnh vào hợp
tác và liên kết quốc tế. Cũng trong phần này, John T. Rourke giới thiệu những khái
niệm cơ bản về dân tộc, quốc gia dân tộc và CNDT, trình bày sự phát triển của
CNDT, những mặt tích cực và tiêu cực CNDT mang lại cho mỗi quốc gia cũng nhƣ
dự đoán về vai trò của CNDT trong tƣơng lai.
-

Cuốn “Imagined Communities: reflections on the Origin and Spread of

Nationalism” (Các cộng đồng đƣợc tƣởng tƣợng ra: những ý nghĩ về nguồn gốc và
sự lan truyền của chủ nghĩa dân tộc) của Benedict Anderson đã đƣa ra một cách nhìn
mới về dân tộc và chủ nghĩa dân tộc với tƣ cách là những “cộng đồng đƣợc tƣởng
tƣợng ra”. Ông đi vào phân tích nguồn gốc và sự bành trƣớng của Chủ nghĩa quốc
gia/dân tộc và khẳng định nó là tác nhân chi phối đến lịch sử nhân loại trong thế giới
cận hiện đại. Với mục đích ban đầu là những nghiên cứu phục vụ cho chính trị học, xã

hội học nhƣng tác phẩm đã vƣợt qua những mục tiêu ban đầu đó của mình và nắm giữ
vai trò to lớn trong công cuộc nghiên cứu về CNDT trên thế giới.

Cũng nhƣ John T. Rourke, Benedict Anderson cho rằng CNDT không có tính cố
hữu mà là một sản phẩm do sự phát triển của con ngƣời và tạo vật văn hóa (cultural
artifacts) mà ra, theo ông, CNDT không phải cái có sẵn mà là cộng đồng đƣợc
tƣởng tƣợng ra. Tác phẩm của Anderson đã dấy lên những tranh luận gay gắt về
cộng đồng tƣởng tƣợng, lòng yêu nƣớc, chủ nghĩa thực dân. Đây thực sự là cuốn
sách cần có để xác định thế nào là CNDT.
2


Học giả Hans Kohn ngay từ giữa thế kỷ XX đã có những nghiên cứu nghiêm
túc về vấn đề CNDT và đã biên soạn thành công cuốn “The idea of nationalism: a
study in its origins and background” (Quan điểm về CNDT: nghiên cứu về nguồn
gốc và nền tảng của CNDT). Trong cuốn sách của mình Kohn trình bày cội nguồn
của CNDT, những tác động của CNDT đối với các giá trị truyền thống, các cuộc
cách mạng cũng nhƣ phân tích sự lan tỏa mạnh mẽ của nó trên toàn thế giới. Cũng
đồng ý rằng CNDT là một hiện tƣợng lịch sử và đƣợc quyết định vởi các tƣ tƣởng
chính trị cũng nhƣ cấu trúc xã hội nơi mà nó ra đời, Hans Kohn kết luận CNDT sẽ
mang hình thái khác nhau ở những quốc gia, khu vực khác nhau. Qua phân tích quá
trình phát triển và nghiên cứu so sánh những dạng thức khác nhau của CNDT, Hans
Kohn muốn dự đoán hình thái cũng nhƣ tác động của CNDT trong tƣơng lai.
Viết về châu Âu, cuốn “Nền tảng văn minh phƣơng Tây” của nhóm tác giả
Mark Kishlansky, Patrick Geary và Patricia O’ Brien là công trình đáng chú ý. Bằng
ngòi bút chân xác, cuốn sách đƣa ngƣời đọc đi dọc hành trình phát triển của châu
Âu lục địa từ quá khứ đến hiện tại. Dù cuốn sách đã đƣợc dịch giả Lê Thành dịch
sang tiếng việt, nhƣng vì trình bày diễn tiến lịch sử đồ sộ của cả một lục địa nên tác
phẩm không tránh khỏi làm ngƣời đọc choáng ngợp trƣớc khối lƣợng kiến thức
khổng lồ về những điều có thể coi đã làm nên bản sắc Châu Âu và là nguồn gốc để

xây dựng Chủ nghĩa khu vực và cố kết các dân tộc khác nhau trên Châu lục này.
Ở trong nước
Thế giới đa chiều”, một tài liệu chuyên khảo về lý thuyết và kinh nghiệm nghiên
cứu khu vực học do TSKH. Lƣơng Văn Kế biên soạn và đƣợc Nxb Thế giới, Hà
Nội xuất bản năm 2007. Có thể coi cuốn sách là tài liệu bắt buộc phải đọc cho
những ai muốn nghiên cứu nghiêm túc về địa chính trị. Tài liệu chuyên khảo này
cung cấp những khái niệm cơ bản về quốc gia, dân tộc, sức mạnh tổng hợp quốc
gia, bản sắc văn hóa, tiếp xúc văn hóa trong toàn cầu hóa… cũng nhƣ cung cấp
những kinh nghiệm trong quá trình Hội nhập Châu Âu, đặc biệt là xem xét Liên
minh châu Âu đã giải quyết hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích khu vực nhƣ thế
nào từ đó đƣa ra bài học xƣơng máu cho Việt Nam và cho khu vực Đông Nam Á.
3




Việt Nam hiện nay chƣa có một công trình nghiên cứu nào thực sự đề cập

đến vấn đề Chủ nghĩa dân tộc châu Âu một cách đầy đủ. Trong các công trình và bài
nghiên cứu trên tạp chí chuyên ngành Nghiên cứu Châu Âu, tạp chí Kinh tế chính trị
thế giới, tạp chí Nghiên cứu lịch sử có những bài nghiên cứu tiêu biểu nhƣng các
học giả chủ yếu đi vào mô tả quá trình hình thành dân tộc và tiến trình hội nhập EU
của các quốc gia châu Âu nhƣ “Từ Cộng đông Than-thép Châu Âu
đến EU 27: Quá trình hợp nhất Châu Âu nhìn từ lịch sử” của PGS.TS. Trần Thị
Vinh, hay phân tích những động thái xây dựng chính sách đối ngoại của các nƣớc
EU nhƣ bài nghiên cứu “Cuộc ganh đua dành quyền chủ đạo an ninh châu Âu”
của học giả Trần Bá Khoa, hoặc đi vào nêu những lý luận nền tảng của xung đột và
hợp tác, của chủ nghĩa khu vực nhƣ bài viết “Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử” và
“Khái niệm và cơ sở của xung đột trong quan hệ quốc tế” của PGS. Hoàng Khắc
Nam bên cạnh một số bài nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề dân tộc nhƣ “ Hài hòa

lợi ích dân tộc và khu vực: Những kinh nghiệm hội nhập của châu Âu cho
Đông Á” đƣợc viết bởi TSKH Lƣơng Văn Kế, “Vấn đề dân tộc và phƣơng thức
hình dung về cộng đồng dân tộc trong những chuyển biến của thế giới” của
PGS.TS. Phạm Hồng Tung. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chƣa đi vào phân tích
tác động của CNDT lên tiến trình hội nhập châu Âu.
Việt Nam cũng đã xuất bản một số cuốn sách đƣợc các nhà tƣ tƣởng Mark –
xít viết về CNDT. Tiêu biểu trong đó có cuốn “Bàn về chủ nghĩa quốc tế và chủ
nghĩa dân tộc” đƣợc viết bởi Lƣu Thiếu Kỳ. Từ góc nhìn giai cấp, tác phẩm thể
hiện quan điểm khá gay gắt của Lƣu Thiếu Kỳ về cái mà ông gọi là “Chủ nghĩa dân
tộc tư sản”, ông cho rằng, giai cấp tƣ sản cầm quyền đã lợi dụng chủ nghĩa dân tộc,
hô hào mình là đại diện của dân tộc, hành động nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc để lừa
gạt nhân dân, lấy cái cớ để tiến hành bóc lột hoặc xâm chiếm các dân tộc nhỏ yếu
hơn. Ngƣợc lại, ông ủng hộ chủ nghĩa quốc tế vô sản, hệ tƣ tƣởng nhằm vào lợi ích
căn bản của quần chúng nhân dân trong nƣớc và các dân tộc trên thế giới, đấu tranh
vì một xã hội không có ngƣời bóc lột ngƣời.

4


3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: Mục đích chính của luận văn là phân tích những tác động đa
chiều bao gồm cả tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển của Liên minh châu Âu
từ năm 2004 đến nay, trên cơ sở đó rút ra những những bài học kinh nghiệm cho
quá trình hội nhập của ASEAN nói chung và của Việt Nam nói riêng.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Làm rõ khái niệm chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa khu vực và mối quan hệ
giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa khu vực, đánh giá vai trò của nhân tố

quốc gia-dân tộc trong hội nhập và giải quyết các vấn đề nội khối EU ở Châu
Âu từ năm 2004.
2. Phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của yếu tố dân tộc đối với
quá trình hội nhập của EU từ 2004 khi liên minh tiến hành lần mở rộng lớn
nhất.
3. Đánh giá mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa khu vực, rút ra
một số bài học kinh nghiệm giải quyết hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích khu
vực trong quá trình hội nhập và liên kết khu vực khu vực Đông Nam Á nói
chung và Việt Nam nói riêng
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng: Tác động của yếu tố chủ nghĩa dân tộc đối với quá trình phát
triển và hội nhập của EU.
Phạm vi: Bài nghiên cứu chú trọng khoảng thời gian từ năm 2004 đến nay, thời
điểm ở Châu Âu diễn ra lần mở rộng lớn nhất của tổ chức khu vực Liên minh Châu Âu
về phía Đông. Đây đƣợc coi là một bƣớc tiến táo bạo để không những làm mạnh mẽ
sức mạnh chính trị và kinh tế của EU trên trƣờng quốc tế mà còn thể hiện

ý chí quyết tâm thực hiện mục tiêu thống nhất Châu Âu và xây dựng bản sắc châu
Âu vì một cộng đồng chung phát triển bền vững. Tuy nhiên, thực tế sự chênh lệch
trình độ phát triển giữa hai miền Đông và Tây của Châu Âu cũng nhƣ sự biến động
tiêu cực của nền kinh tế thế giới sau cuộc Khủng hoảng tài chính thế giới 2008 và
khủng hoảng nợ công, Châu Âu chìm vào vấn nạn suy thoái kinh tế, tỷ lệ thất
nghiệp gia tăng và nguy cơ tan rã liên minh khu vực cận kề khi CNDT trỗi dậy rõ
ràng nhất kể từ thời điểm liên minh khu vực này thành lập.
5



5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Để giải quyết đƣợc nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu đã đặt ra, ngƣời viết
vận dụng những phƣơng pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, đặc biệt là phƣơng pháp
liên ngành của khu vực học, lý thuyết về hội nhập khu vực và quốc tế, hỏi ý kiến
chuyên gia; ngoài ra còn dựa trên những kiến thức của ngành dân tộc học và chính
trị học.
6.

Cấu trúc nội dung luận văn

Nội dung Luận văn đƣợc chia làm 3 chƣơng chính với bố cục và nội dung
nhƣ sau:
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC Ở CHÂU ÂU
cung cấp kiến thức tổng quát về các khái niệm, các yếu tố tác động và mặt tích cực,
tiêu cực của CNDT đƣợc xem xét qua các thời kỳ lịch sử; tạo nền tảng cho các phân
tích trong trƣờng hợp hội nhập khu vực của EU.
CHƢƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TỘC ĐỐI VỚI LIÊN
MINH CHÂU ÂU TỪ NĂM 2004 có nội dung trình bày bối cảnh và những vấn đề
thực tế EU đã và đang đối mặt từ 2004 đến nay, trả lời cho câu hỏi những biến động
đó ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến CNDT của các nƣớc trong khu vực, phản ứng của
các quốc gia và những ảnh hƣởng tích cực và tiêu cực mà CNDT đã mang đến cho
tiến trình hội nhập của toàn khối.
CHƢƠNG 3: TRIỂN VỌNG CỦA MỐI QUAN HỆ NÀY VÀ BÀI HỌC CHO
ĐÔNG NAM Á có tham vọng chỉ ra kịch bản tƣơng lai CNDT của Châu Âu, phân
tích những điểm tƣơng đồng giữa hai tổ chức khu vực từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm cho quá trình hội nhập của khu vực Đông Nam Á.
7.


Ý nghĩa khoa học và những đóng góp của Luận Văn

Ý nghĩa khoa học của luận văn:
-

Về lý luận: qua những tổng hợp và phân tích về Chủ nghĩa dân tộc,

mỗi tƣơng quan giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa khu vực, tác giả hi
vọng sẽ cung cấp cái nhìn khách quan về bản chất của Chủ Nghĩa dân tộc
và tác động của nó đến sự tồn vong và phát triển của một quốc gia.

6


-

Về thực tiễn: khu vực Liên minh Châu Âu EU hiện tại vẫn là hình

mẫu phát triển cho rất nhiều tổ chức khu vực trên thế giới nhờ những
thành tựu kinh tế xã hội và các giá trị hài hòa mà nó đã đạt. Nghiên cứu
phản ứng của EU trƣớc những biến động thế giới mà đặc biệt là trong
giải quyết mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa khu vực sẽ
đem đến bài học hữu ích cho Việt Nam nó riêng và khu vực Đông Nam
Á nói chung.

7


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC Ở CHÂU ÂU


1.1. Khái quát về Chủ nghĩa dân tộc
1.1.1. CNDT – khái niệm và quá trình hình thành
Thuật ngữ “dân tộc” (nation) vốn bắt nguồn từ gốc từ Latinh cổ “natio”.
Trong thời kỳ cổ đại, thuật ngữ “natio” dùng để chỉ dân cư của một nhà nước hay
một thành bang cố kết với nhau thông qua việc có chung một nguồn gốc hoặc một
chủng tộc, quần cư trên một khu vực hoặc một vùng lãnh thổ xác định [47, tr.835].
Về cơ bản, dân tộc ra đời và hình thành cùng với sự phát triển về trí tuệ, tầm vóc, tƣ
duy của con ngƣời từ những hình thái xã hội đầu tiên đến khi ra đời các quốc gia
dân tộc. Từ những Thị tộc sơ khai hình thành dựa trên cơ sở quyền sở hữu công
cộng về tƣ liệu sản xuất nhƣ đất đai, đồng cỏ, sông ngòi với tiếng nói, phong tục
tập quán và nghi lễ tôn giáo chung đến Bộ Lạc có quan hệ và tập quán kinh tế
tƣơng đồng, có chung tập tục và nghi lễ tôn giáo, thì cũng dần hình thành “ý thức tự
giác Bộ lạc”. Song song với sự phát triển đó chính là quá trình tộc ngƣời, hay nói
cách khác là sự phát triển của “ý thức tộc ngƣời”. Cũng phải khẳng định rằng, quá
trình tộc ngƣời không chỉ phát triển một chiều theo hƣớng củng cố cộng đồng tộc
ngƣời mà nó còn bao gồm quá trình li khai, thoái hóa, đồng hóa khiến ý thức tộc
ngƣời suy giảm. Ý thức tộc ngƣời, hay sự cố kết trong cộng đồng tộc ngƣời đƣợc
kích thích và gia tăng bởi sự khác biệt giữa các yếu tố văn hóa.
Thực tế, khái niệm “dân tộc” là gì đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu, học giả
đƣa ra các định nghĩa riêng. Khoa học chính trị phƣơng Tây đã chỉ ra một số tiêu
chí cụ thể của một để xác định một dân tộc: “Dân tộc là thuật ngữ dùng để chỉ
những nhóm người rộng lớn được cố kết thành cộng đồng nhờ vào ý thức cuả họ về
đặc trưng văn hoá và/ hoặc chính trị riêng. Ý thức đó có thể được hình thành trên
cở sở của những cái chung về nguồn gốc, ngôn ngữ, tôn giáo, văn hoá và lịch sử,
cũng như dựa trên những điểm chung về hình dung về thế giới, các quan niệm
chung về luật pháp, nhà nước và xã hội” [47, tr.840]. Cũng đồng nhất quan điểm về
ý thức và tinh thần dân tộc, nhƣng Benedict Anderson khi nhìn từ tinh thần nhân
học và xã hội học còn cho rằng, dân tộc không hẳn là một cái gì đó


8


xác định đƣợc dễ dàng thông qua những yếu tố có thể định lƣợng đƣợc, theo ông
dân tộc ra đời trên cơ sở hình thành quốc gia/dân tộc, vốn là “một cộng đồng chính
trị được tưởng tượng mà thành – và nó được tưởng tượng ra như thể điều gì, về bản
chất, vừa có tính giới hạn (trong một phạm vi), vừa có tính chủ quyền một cách cố
hữu” [59]. Những đặc trƣng cơ bản đánh giá sự hiện diện của một quốc gia dân tộc
bất kỳ có thể đƣợc xem xét dƣới những tiêu chí sau:
 Một là, một dân tộc luôn là sản phẩm của giai đoạn lịch sử phát triển cao
của loài ngƣời. Nó là một hiện tƣợng xã hội phát triển đến một trình độ nhất
định và đƣợc cả cộng đồng thừa nhận.
 Thứ hai, một dân tộc đòi hỏi các thành viên của nó có chung những đặc
trƣng đồng nhất về ngôn ngữ, khu vực cƣ trú, cách thức hoạt động kinh tế và
tố chất tâm lý đƣợc thể hiện qua đặc trƣng văn hóa dân tộc.
 Ba là, sự ổn định của dân tộc đƣợc thể hiện qua khả năng phản kháng lại
những tác động hoặc hành động nhằm buộc dân tộc đó chia rẽ hoặc áp đặt
những giá trị văn hóa của dân tộc khác nhƣ thói quen, tập tục, ngôn
ngữ lên một dân tộc [25, tr.304-305].
Có thể thấy rõ, dân tộc và quốc gia là hai khái niệm thƣờng đƣợc nhắc song
hành, cũng không ít ngƣời có sự nhầm lẫn. Thực chất, quốc gia và dân tộc là khái
niệm không tƣơng đồng; nhắc đến dân tộc là nhắc đến một cộng đồng với những
điểm đồng nhất về văn hóa, ngôn ngữ, hệ giá trị, tôn giáo… có ý thức dân tộc riêng,
còn quốc gia lại là khái niệm về một thực thể địa lý chính trị, có một cộng đồng dân
cƣ, một lãnh thổ xác định, có nhà nƣớc quản lý luôn cố gắng duy trì sự độc lập về
đối nội và tự chủ trong đối ngoại. Nhƣng có thể khẳng định rằng, sự ra đời của dân
tộc là giƣờng cột trong hình thành quốc gia. Một dân tộc suy vong đánh mất quốc
gia của mình trong quá trình cạnh tranh sinh tồn với quốc gia khác, thì sự tan vỡ của
quốc gia – dù là bi kịch của dân tộc -không đi kèm với sự sụp đổ hoàn toàn của dân
tộc đó.

b. Khái niệm và các cách tiếp cận Chủ nghĩa dân tộc
Trong chữ tiếng Anh là “nationalism” đƣợc hiểu là “Chủ nghĩa dân tộc”
hay “tƣ tƣởng dân tộc chủ nghĩa”. Nói tới CNDT là nói đến ý thức dân tộc về sự

9


khác biệt giữa các nhóm dân tộc, sắc tộc khác nhau hay tƣ tƣởng dân tộc chi phối
đến các hành động vì quyền lợi của dân tộc. Theo ý của George Orwell thì CNDT
hoặc “tinh thần dân tộc” là “thói quen đồng nhất mình với một dân tộc hoặc một
đơn vị duy nhất nào đó khác, đặt nó cao hơn thiện ác và không công nhận một nghĩa
vụ nào khác ngoài việc thúc đẩy các quyền lợi của nó” [63, tr.1]. Cũng có một số
cách hiểu cho rằng thuật ngữ này là chỉ “Chủ nghĩa quốc gia dân tộc” – tức là tƣ
tƣởng không loại trừ, tính tới toàn bộ những dân tộc trong một quốc gia và gộp
chung thành quốc gia dân tộc. Quốc gia với những đặc trƣng xác định về không
gian, văn hóa, lịch sử đã làm nảy sinh ý thức bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền, lợi ích
kinh tế, chính trị đồng thời gây dựng sự cố kết và những mối liên hệ chặt chẽ giữa
các dân tộc trong phạm vi quốc gia đó và với sự lãnh đạo của dân tộc chiếm đa số
nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích của quốc gia đã hình thành các quốc gia dân tộc
(nation-state).
CNDT là một hiện tƣợng lịch sử tƣơng đối mới và quá trình phát triển của
CNDT gắn bó mật thiết với sự hình thành nhà nƣớc tập trung. Ngay từ thời xa xƣa,
ý niệm về sự khác biệt giữa các nền văn hóa đã đƣợc tầng lớp trên của xã hội cổ đã
nhận ra và chia sẻ tình đoàn kết trong cộng đồng mình, đồng thời phân tách với các
cộng đồng xung quanh. CNDT đã dần phát triển nhƣ một hiện tƣợng tự nhiên khó
lòng thay đổi. Emile Durkheim, nhà xã hội học ngƣời Pháp trong cuốn “Các hình
thức cơ bản của đời sống tôn giáo” (The Elementary Forms of Religious Life) đã
nhận định về sức hấp dẫn và tƣơng lai ngày càng phát triển và mở rộng của CNDT
rằng: “tôn giáo sẽ đƣợc thay thế bởi ý thức hệ dân tộc vì không những nó có các
yếu tính hợp nhất thu hút của tôn giáo mà lại còn là một hệ thống tín ngƣỡng đi trực

tiếp vào tâm hồn ngƣời dân, không cần qua trung gian một tôn giáo nào” [64].
Nhƣng tại sao dù đã nảy sinh trong quá khứ thì chỉ đến khi ra đời các quốc gia dân
tộc, CNDT mới thực sự có diện mạo nhƣ ngày hôm nay?


châu Âu, Theo John T.Rouke thì “CNDT sơ khởi” manh nha vào gần cuối

Kỷ nguyên bóng tối (Dark Ages) với sự sụp đổ của đế chế do vua Charlermagne
lãnh đạo vào đầu thế kỷ IX. Tuy nhiên, mãi đến đầu thế kỷ XVIII, CNDT hiện đại
mới thực sự ra đời. CNDT hiện đại khác biệt với CNDT sơ khởi ở mức độ liên kết

10


và tƣơng tác giữa nhân dân và nhà nƣớc. Quan điểm này lý giải rằng, hầu hết ngƣời
dân không mặn mà lắm với thể chế nhà nƣớc đang lãnh đạo và quản lý họ trừ khi chính
các cá nhân thuộc dân tộc của họ nắm quyền kiểm soát nhà nƣớc. Và nhƣ vậy, tính
hiện đại của CNDT đƣợc thể hiện ở “tƣ tƣởng dân tộc chủ nghĩa”, nói khác đi, đó là
niềm tin của những ngƣời cùng chia sẻ một nền văn hóa đƣợc kiểm soát, quản lý với
chính những ngƣời có chung nền văn hóa với các đặc điểm đồng nhất về ngôn ngữ, hệ
giá trị với họ [55, tr.135]. Và bản chất của quốc gia trên phƣơng diện quan hệ quốc tế
chính là công cụ hữu hiệu và quyền lực nhất nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc và bảo vệ hòa
bình, hữu nghị giữa các dân tộc [25, tr.202-205].

Quan niệm và thái độ của phƣơng Đông – Phƣơng Tây đối với CNDT cũng
có nhiều điểm khác biệt do yếu tố lịch sử chi phối. Trong quá khứ, phƣơng Đông là
nơi khởi sinh CNDT của các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa thực dân bành trƣớng lần
đầu đem đến cho những dân tộc ở châu Á (xa hơn là châu Mỹ la tinh và châu Phi)
cơ hội tiếp cận với CNDT hiện đại. CNDT với các dân tộc áp bức là yếu tố tích cực,
bởi lẽ các dân tộc phƣơng Đông nhận thức đƣợc quyền tự quyết của dân tộc mình

và sự phi lý, vô nhân đạo của chế độ ngƣời bóc lột ngƣời. Từ đó, CNDT hòa trộn
với chủ nghĩa yêu nƣớc (đƣợc định lƣợng bằng biên giới, chủ quyền, độc lập về
đối nội, tự chủ trong đối ngoại) trở thành nguồn động viên tinh thần to lớn để các
dân tộc phƣơng Đông đấu tranh bền bỉ giành độc lập, tự do.
Ngƣợc lại, ở bên kia bán cầu CNDT lan tỏa cùng với sự bành trƣớng của các
nƣớc thực dân phƣơng Tây và thƣờng đƣợc hiểu là lợi ích dân tộc hẹp hòi. Các
dân tộc da trắng, trong lịch sử, đã nô dịch các dân tộc khác ở trình độ phát triển thấp
hơn qua hàng thế kỷ để phục vụ cho quá trình tích lũy tƣ bản và công nghiệp hóa ở
quốc gia dân tộc mình. Sự kỳ thị và phân biệt chủng tộc với quan điểm cho rằng,
những đặc điểm chủng tộc riêng biệt của chủng tộc da trắng - chủng tộc văn minh có quyền bóc lột và thống trị những chủng tộc cấp thấp hơn đã hình thành cái nhìn e
ngại và không mấy cởi mở đối với CNDT phƣơng Tây. Và bởi vậy, CNDT đƣợc
coi là trở ngại lớn cho quá trình hội nhập và hợp tác.
CNDT trong cách nhìn của chủ nghĩa cộng sản lại mang nội hàm là “CNDT tƣ
sản”. Với định kiến rằng, CNDT hiện đại ra đời và phát triển cùng với giai cấp tƣ

11


sản và sự thống trị của của hệ thống tƣ bản chủ nghĩa và là công cụ của giai cấp tƣ
sản để ngụy biện cho hành động xâm lƣợc của mình nên những ngƣời theo quan
điểm của Marx nhấn mạnh, cần phải loại bỏ CNDT tƣ sản song song với tiến hành
cách mạng vô sản để đi tới thắng lợi cuối cùng. Tuy nhiên, những ngƣời cộng sản
cũng thừa nhận vai trò của CNDT ở một số thời điểm lịch sử đặc biệt, đó là khi
CNDT tƣ sản gắn với giai cấp tiểu tƣ sản và tƣ sản trung lƣu, tầng lớp có lợi ích
hòa hợp với lợi ích của nhân dân bị áp bức.
1.1.2. Những mặt tích cực và tiêu cực của CNDT
Tấm gƣơng lịch sử phản ánh, trong căn nguyên hình thành về mặt lịch sử và
triết học của CNDT thì đây là một nhân tố tích cực, đặc biệt trong đóng góp cho quá
trình dân chủ hóa chính trị cũng nhƣ hội nhập. Mặt khác, CNDT cũng có những
mặt tiêu cực khi bị cực đoan hóa và có thể dẫn đến sự chia rẽ và hủy hoại thế giới

[55, tr.138]. Lý luận chính trị học và thực tiễn lịch sử đã chứng minh đây là mặt
thống nhất và phân chia trong nền chính trị thế giới, là thuộc tính hai mặt của một
vấn đề xã hội.
a.

Mặt tích cực của chủ nghĩa dân tộc

Những mặt tích cực của CNDT đã đƣợc Tiến sĩ John T. Rourke tổng kết với
năm tác động cơ bản [55, tr.138-139]. Trƣớc hết CNDT thúc đẩy ý thức dân chủ
thông qua ý niệm quốc gia là tài sản của chính công dân sống trong quốc gia đó.
Nhà nƣớc là tập hợp những đại diện của quần chúng, thực quyền của nhà nƣớc là
do nhân dân trao tặng, sau đó, nhân dân sẽ quyết định chính sách mà chính phủ theo
đuổi và những ngƣời đứng đầu chính phủ thực hiện các quyền đối nội và đối ngoại
chỉ nhƣ đại diện của nhân dân mà thôi. Quan điểm chủ quyền thuộc về nhân dân ra
đời đã chi phối đến thể chế chính trị của các quốc gia hiện đại; mục tiêu theo đuổi
lợi ích dân tộc của cả cộng đồng chi phối đến thể chế và quá trình hoạch định chính
sách của nhà nƣớc. Làm sao để đáp ứng một cách tƣơng đối lợi ích của phần lớn
công dân trong quốc gia đó là điều mà các chính phủ quan tâm.
CNDT và “ý thức dân tộc” thúc đẩy bởi sự khác biệt về văn hóa giữa thế giới
bên ngoài với bên trong dân tộc. Sự khác biệt ấy khiến dân tộc này không thực sự
thừa nhận sự thống trị của dân tộc khác lên dân tộc mình mặc dù trong cùng nằm

12


trong một liên bang, một đế chế hay một liên minh và đây chính là yếu tố cổ vũ
quyền tự quyết của dân tộc (self determation). Niềm tin rằng mọi dân tộc trên toàn
thế giới đều bình đẳng và có quyền tự quyết chính là động lực thúc đẩy các dân tộc
nhỏ yếu đấu tranh trở thành các quốc gia độc lập và tự chủ.
CNDT cũng đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp chống lại Chủ nghĩa đế

quốc. Đây có thể coi là một hệ quả của sự gia tăng niềm tin vào sự bình đẳng và
quyền tự quyết của các dân tộc. CNDT giúp đẩy mạnh đấu tranh và tăng sức đề
kháng trƣớc sự chiếm đóng, đồng hóa hoặc xâm lƣợc từ bên ngoài. Chính ý thức về
chủ quyền, biên giới quốc gia, lãnh thổ, niềm kiêu hãnh dân tộc không cho phép
một dân tộc dễ dàng khuất phục hoặc bị đồng hóa trƣớc một dân tộc ngoại bang kể
cả dƣới những áp lực của bạo lực vũ trang.
Thừa nhận và ủng hộ sự phát triển kinh tế quốc dân vì mục tiêu lợi ích của
quốc gia dân tộc đó là mặt tích cực không thể phủ nhận của CNDT. Nhƣ chúng ta
thấy rõ, kinh tế phát triển nhờ thúc đẩy thƣơng mại và trao đổi hàng hóa dựa trên
chênh lệch và khác biệt về lợi thế cạnh tranh quốc gia, thƣơng mại kết nối và làm
khăng khít trong tƣơng quan về mặt kinh tế và đối ngoại giữa các quốc gia với
nhau. Khi thế giới càng phát triển, những thành tựu về khoa học kỹ thuật và tƣ duy
đẩy cuộc sống diễn ra với một nhịp độ nhanh hơn, cạnh tranh kinh tế cũng ngày
càng gay gắt hơn, CNDT nhấn mạnh vào lợi ích dân tộc yêu cầu mỗi nhà nƣớc vạch
ra những đƣờng lối hợp lý vì mục tiêu phát triển, thì hợp tác và thúc đẩy thƣơng
mại gần nhƣ là lựa chọn tất yếu. Phải chăng những chủ thể chính trị lớn mạnh quốc gia dân tộc phát triển ở trình độ cao - đã đƣa ra các chính sách khuyến khích
thƣơng mại phát triển không phải vì những mục tiêu quốc tế cao cả nào mà trƣớc
nhất vì lợi ích của chính các quốc gia đó.
Thêm vào đó, khi đánh giá tác động của CNDT trên bình diện quan hệ quốc
tế, có thể thấy rõ, CNDT khuyến khích sự đa dạng. Sự ra đời của một loạt các tổ
chức khu vực và quốc tế trong thế kỷ XX đã khiến một số ngƣời lo ngại về sự xói
mòn văn hóa, hoặc sự chèn ép của các quốc gia lớn dẫn đến sự tiêu biến, hao hụt
văn hóa ở các quốc gia nhỏ yếu hơn. Nhƣng thực tế lại không diễn ra nhƣ vậy, bởi
lẽ trong một thế giới tồn tại nhiều giá trị chung thì những điểm độc đáo, đặc sắc

13


luôn đƣợc tôn trọng và đề cao. CNDT với ý thức về bản sắc riêng, về sự khác biệt
và các yếu tố truyền thống yêu cầu dân tộc này tôn trọng sự đa dạng văn hóa của các

nền văn hóa, các giá trị của dân tộc khác nhằm duy trì chính điểm khác biệt của dân
tộc mình.
b. Mặt tiêu cực của CNDT
Chắc chắn, các học giả theo thuyết hiện thực có thể chỉ ra rất nhiều những tác
động tiêu cực mà CNDT có thể mang lại cho quan hệ quốc tế dựa trên bức tranh lịch
sử thế giới. Đáng đƣợc chú ý trƣớc tiên là tư tưởng bài ngoại. Bởi lẽ, một cách rõ
ràng là, hầu hết những khía cạnh tiêu cực của CNDT đều xuất phát từ cái nhìn
“nhóm chúng ta” (we-group) với “nhóm họ” (they-group) đã dẫn đến những quan
điểm trái chiều, không thừa nhận những giá trị của các dân tộc, các nhóm ngƣời
khác. Việc bế quan tỏa cảng, coi các giá trị ngoại lai là thuốc độc đối với giá trị
truyền thống đã dẫn đến sự nghi ngờ và lòng e sợ hay không ƣa thích những dân tộc
khác. CNDT cũng thƣờng sinh ra ý nghĩ về tính ưu việt của dân tộc và lòng yêu
nƣớc cực đoan, sự thực ấy đã khiến Voltaire than vãn rằng: “Thật buồn khi trở
thành một ngƣời yêu nƣớc nồng nàn thƣờng đồng nghĩa với việc trở thành kẻ thù
của phần còn lại của nhân loại” [55, tr.142].
Chƣa kể, bản chất quốc gia có tính giai cấp, nói cách khác, quốc gia không
những là nguyên nhân, kết quả của quá trình đấu tranh giai cấp mà còn là một công
cụ của giai cấp [25, tr.202]. Sẽ chẳng có gì lạ nếu giai cấp lãnh đạo vì mục đích tối
đa hóa lợi ích giai cấp mình (hoặc do nhận thức sai lầm rằng, việc tiến hành chiến
tranh mang lại nhiều lợi nhuận hơn là giữ hòa khí hoặc tiến hành hợp tác) mà tiến
hành bành trướng, xâm chiếm nước ngoài. Có thể coi chủ nghĩa đế quốc là đứa con
bạo ngƣợc của CNDT khi nó quay trở lại phủ nhận tính bình đẳng và quyền tự
quyết của các dân tộc nhỏ yếu hơn. Từ khi Chủ nghĩa thực dân mà sau này là chủ
nghĩa đế quốc ra đời thì sự bất bình đẳng ấy ngày càng gia tăng. Tuỳ theo mức độ
nhân đạo và văn minh của bộ phận thống trị, những dân tộc bị coi là hạ đẳng, man
rợ hoặc là bị tiêu diệt, hoặc bị đƣa xuống làm nô lệ, hoặc bị đặt ra ngoài vòng pháp
luật, hoặc bị kìm hãm trong tình trạng lệ thuộc.

14



Áp bức trong nội bộ quốc gia cũng là kết quả tiêu cực của CNDT cực đoan.
2

Hiện nay, rất khó để tìm đƣợc quốc gia nào là sở hữu của một dân tộc duy nhất bởi
tính chất đa sắc tộc của quốc gia do lịch sử hình thành và phát triển của loài ngƣời
chi phối. Thƣờng sẽ có một dân tộc chiếm đa số và nắm quyền lãnh đạo trong quốc
gia, vậy điều gì xảy ra nếu dân tộc đó cảm thấy sự thống nhất về chủng tộc là điều
kiện tiên quyết cho một quốc gia phát triển? Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai,
chế độ Đức Quốc xã cố tình thiết kế lại bản đồ chủng tộc của toàn châu Âu bằng
bạo lực. Hành vi triệt để nhất của nó là mƣu toan quét sạch ngƣời Do Thái khỏi
châu Âu bằng cách giết toàn bộ dân tộc này. Chính quyền Quốc xã cũng sử dụng
các nhóm thiểu số dân tộc Đức tại Tiệp Khắc, Ba Lan và nhiều nơi khác để áp đặt
quyền thống trị. Nhiều chế độ đồng minh với Đức bị ảnh hƣởng bởi quan điểm sai
lầm đó và cũng mở chiến dịch riêng của mình nhằm tiêu diệt “kẻ thù dân tộc bên
3

trong biên giới” .
CNDT không lành mạnh có thể dẫn tới thái độ thờ ơ, thiếu quan tâm đến
cộng đồng khác xung quanh. Tất cả các dân tộc sống trong cùng một quốc gia hay ở
các quốc gia khác nhau thì đều cƣ trú trên cùng một hành tinh trái đất. Nghĩa là mỗi
dân tộc hay quốc gia dân tộc đều chia sẻ những nền tảng chung, đều là một mắt xích
quan trọng trong hệ thống quốc tế phức tạp và ảnh hƣởng qua lại lẫn nhau. Nhƣ
vậy, trong “mạng lƣới” hệ thống quốc tế, sự tồn vong, hƣng thịnh của quốc gia này
có thể vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của sự phát triển hay suy tàn của quốc gia
khác. Nếu CNDT đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi khu vực hoặc toàn
cầu thì sẽ dẫn đến thái độ thờ ơ, bàng quan với những gì đang diễn ra xung quanh
mà chỉ chú ý đến cộng đồng của mình mà thôi, hoặc thậm chí là dẫn đến những
hành động trà đạp lên lợi ích cơ bản của dân tộc, quốc gia khác. Cuộc khủng hoảng
di cƣ mà Châu Âu đang đối mặt hiện nay là bằng chứng không thể chối cãi mà rất

nhiều ngƣời sử dụng để chỉ trích một Châu Âu già nua đã và đang trà đạp lên những
2 “dân tộc” ở đây đƣợc dùng với nghĩa ethnic, nhóm ngƣời cùng chia sẻ ngôn ngữ, phong tục và văn hóa.

VD nhƣ Quốc gia Việt Nam có dân tộc Việt Nam nhƣng có đến 54 dân tộc anh em.
3
Chính quyền Romania, chẳng hạn, đã ra tay tàn sát hàng trăm ngàn ngƣời Do Thái, mà không hề nhận lệnh
từ Đức Quốc xã, hay nhà nƣớc Croatia không những tàn sát ngƣời Do Thái mà còn giết hại cả hàng trăm
ngàn ngƣời Serbia và ngƣời Romania [61, tr.6]. Tất nhiên, những ảnh hƣởng cực kỳ nghiêm trọng cho quan
hệ song phƣơng hoặc đa phƣơng giữa các dân tộc từng có xung đột trong quá khứ có thể kéo dài bởi mối thù
dân tộc không dễ lạt phai.

15


giá trị tự do, vì con ngƣời mà lục địa này cổ xúy trong suốt thời gian tồn tại và phát
triển của nó
Tính hai mặt của CNDT đối với quan hệ quốc tế thời gian qua đã khiến các
chính trị gia, các học giả đổ nhiều công sức phân định. Những tác động tích cực và
tiêu cực mà CNDT mang lại luôn song hành cùng nhau và điều quan trọng không
phải là phán xét hệ tƣ tƣởng ra đời do sự phát triển trí tuệ và ý thức của con ngƣời,
ở đây là CNDT, mà là nhận thức đƣợc những giá trị tích cực của nó và tiêu cực của
nó trong những thời điểm lịch sử cụ thể, có những cách thức để vƣợt qua mặt trái
của nó để xây dựng một xã hội mới, một thế giới mới vì con ngƣời.
1.1.3. CNDT trong tương quan với Chủ nghĩa khu vực; Chủ nghĩa toàn cầu.

Chủ nghĩa khu vực (CNKV - regionalism) và chủ nghĩa quốc tế (CNQT internationalism) ra đời sau CNDT và chỉ mới thực sự đƣợc nghiên cứu nghiêm túc
từ đầu thế kỷ XX đến nay. Có thể nói, những nỗi đau thƣơng, mất mát sau hai cuộc
chiến tranh thế giới đã khiến con ngƣời suy nghĩ lại và mong muốn tìm thấy những
phƣơng án giải quyết những mâu thuẫn giữa các quốc gia dân tộc bằng phƣơng
thức hòa bình. Một suy nghĩ chủ đạo cho rằng nguyên nhân sâu xa của các cuộc

chiến tranh là do tình trạng “vô chính phủ” của quan hệ quốc tế toàn cầu. Do không
tồn tại một thể chế đứng trên các quốc gia, thiết lập các nguyên tắc và quy chuẩn
yêu cầu hoặc buộc các quốc gia tuân thủ, do đó đã cho phép chiến tranh xảy ra.
Thêm vào đó, chính tình trạng này làm gia tăng sự nghi kỵ và ngờ vực lẫn nhau
giữa các quốc gia, gây trở ngại cho hợp tác [47, tr.18]. Và nếu nhƣ các dân tộc trong
cùng một nƣớc với sự dẫn dắt của chính quyền đã có thể hòa hợp vì mục đích
chung cuối cùng là xây dựng đất nƣớc, thì lý do gì lại không thể thiết lập một thể
chế chính trị toàn cầu để giải quyết hài hòa lợi ích giữa các quốc gia? Nhƣ nhận
định của học giả Hoàng Khắc Nam thì “nếu bản năng sinh tồn làm con người biết
sợ hãi trước chiến tranh và bạo lực thì lý trí giúp con người tìm ra những cách thức
phi bạo lực để giải quyết xung đột” [tr.29-21]. Chính vì vậy, sau thế chiến thứ nhất,
đã nổi lên nhiều ý tƣởng xây dựng các diễn đàn, các hiệp hội thúc đẩy hợp tác xây
dựng các thế chế bên trên nhà nƣớc của quốc gia dân tộc.

16


Thêm vào đó, nhận thức đƣợc mối liên hệ giữa các quốc gia cũng nhƣ những
khó khăn trong giải quyết các vấn đề toàn cầu nhƣ an ninh lƣơng thực, an ninh năng
lƣợng, hòa bình khu vực, mâu thuẫn sắc tộc và tôn giáo, vấn đề khủng bố… yêu cầu sự
chung tay góp sức của tất cả các quốc gia trên thế giới. Vậy là, để bảo vệ quyền lợi của
chính mình, các quốc gia, các dân tộc buộc phải hợp tác để giải quyết những mối lo
ngại chung. Nguyên tắc các bên cùng có lợi (win-win) xác nhận rằng việc hợp tác giữa
các quốc gia dân tộc trong cùng một khu vực hoặc trên toàn thế giới là điều hoàn toàn
có lợi về lâu dài. Bởi lẽ, quan hệ kinh tế, sự giao lƣu về văn hóa, giáo dục, xã hội sẽ
đẩy mạnh sự phụ thuộc giữa các chủ thể quan hệ quốc tế đồng thời giúp duy trì một hệ
thống quốc tế cân bằng trong hòa bình, ổn định.

CNQT hay chủ nghĩa toàn cầu đã manh nha từ cuối thế kỷ XV đƣợc đánh
dấu bằng các cuộc phát kiến địa lý, mà kéo theo đó là chủ nghĩa thực dân bành

trƣớng của những dân tộc tự cho mình chức phận khai sáng các dân tộc yếu kém
hơn. S ự thay đổi cán cân quyền lực giữa các nƣớc đế quốc đã làm nảy sinh các
cuộc chiến tranh nhằm phân chia lại thị trƣờng thuộc địa. Chƣa kể, hệ thống kinh tế
tƣ bản chủ nghĩa thế giới đã hình thành những mối liên kết chặt chẽ giữa chính
quốc (các nƣớc công nghiệp phát triển) với các nƣớc thuộc địa (kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, chủ yếu là cung cấp nguyên nhiên liệu), theo đó là
những cuộc khủng hoảng kinh tế mang tính toàn cầu. Về mặt xã hội, tiến trình xâm
lƣợc, bóc lột và nô dịch của chủ nghĩa thực dân cũng dấy lên một tâm thế khao khát
độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức bản địa, và nó đã trở thành một phong trào
lan tỏa mạnh mẽ, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân toàn cầu. Và nhƣ
vậy, nó đã tạo ra làn sóng đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm
chống lại chế độ ngƣời bóc lột ngƣời vô nhân đạo. Về hệ tƣ tƣởng giai cấp còn có
thể kể đến CNQT vô sản của học thuyết Marx. Những ngƣời cộng sản tin rằng,
CNDT là nguyên nhân chính dẫn đến sự chia rẽ và tan vỡ của khối đoàn kết dân tộc
thế giới, trong khi đó, CNQT vô sản chân chính lại là đại diện của sự đoàn kết quốc
tế mà biểu hiện là sự kết hợp hài hòa giữa phong trào giải phóng của các dân tộc bị
áp bức với cách mạng giải phóng xã hội của giai cấp vô sản và nhân dân lao động.

17


Nói cách khác, CNQT đã nảy sinh và phát triển trên tất cả các phƣơng diện
chính trị, kinh tế, xã hội và nó đã trở thành một khuynh hƣớng nhận thức không thể
phủ nhận. Tổ chức toàn cầu tiêu biểu đầu tiên là “Hội Quốc liên”. Ra đời năm 1919,
ban đầu Hội Quốc liên chỉ có 20 quốc gia, nhƣng chỉ 13 năm sau, số quốc gia thành
viên đã lên tới 60. Sau đó, Hội nghị San Fransico (1945) đã thông qua bản Hiến
chƣơng Liên hiệp quốc với sự nhất trí của 50 quốc gia (nay là 193 quốc gia thành
viên) đã mở ra kỷ nguyên hợp tác trong hòa bình của nhân loại. Nhƣ vậy, chủ nghĩa
toàn cầu là khuynh hƣớng phát triển thể hiện ý chí, nguyện vọng hợp tác của toàn
thể các dân tộc trên thế giới nhằm giải quyết các vấn đề quốc tế trên các mặt kinh tế,

chính trị, xã hội.
Về Chủ nghĩa khu vực, khuynh hƣớng khu vực hóa đã từng tồn tại trong lịch
sử loài ngƣời từ xa xƣa nhƣng chƣa đƣợc nhận thức vào thời điểm đó. Trong thế
giới cổ-trung đại, khu vực hóa đƣợc biểu hiện dƣới dạng những hình thành các
cộng đồng văn hóa, văn minh (nhƣ cộng đồng văn hóa dƣới thời Hy Lạp, La Mã,
cộng đồng Thiên chúa giáo). Hiện nay, khi xu thế hội nhập, hợp tác thay cho đối đầu
và xung đột chiếm ƣu thế, có ý kiến cho rằng CNKV là CNQT
ở cấp độ khu vực, nhƣng cũng có quan điểm trái ngƣợc cho rằng CNKV là cách
các nƣớc nhỏ hợp tác với nhau để chống lại tiến trình toàn cầu hóa và sự kiểm soát
của các siêu cƣờng. Khả năng chi phối tình hình chính trị thế giới nhờ tiềm lực kinh
tế và quân sự của các cƣờng quốc đã khiến một loạt các quốc gia nhỏ yếu hơn phải
phụ thuộc vào đƣờng lối, chính sách của họ. Đứng trƣớc thực tế đó, các quốc gia
nhỏ yếu gần gũi nhau về mặt địa lý, cùng chia sẻ những lợi ích chung co cụm lại,
đoàn kết và đấu tranh vì quyền lợi chung của mình. Hơn nữa, các quốc gia hiểu
rằng, để giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị của quốc gia mình trong một thế
giới ngày càng phẳng với những mối liên hệ và phụ thuộc phức tạp thì CNDT khu
biệt không phải con đƣờng đúng đắn mà hội nhập và tăng cƣờng liên kết mới là lựa
chọn thông minh cho các quốc gia, dân tộc.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng, CNKV là vùng trung hòa giữa CNDT với
CNTC. CNKV là bƣớc chuyển giao dần dần chủ quyền quốc gia của quốc gia dân
tộc cho một thể chế siêu quốc gia. Nếu CNDT với ý niệm về quyền lợi dân tộc đã

18


×