Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.5 KB, 107 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ -

6

XÃ HỘI

1.1. Khu công nghiệp và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội
1.2. Những nhân tố chủ yếu chi phối tác động của khu công nghiệp
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh về xử lý tác động tiêu cực trong
phát triển khu công nghiệp

6
25
33

Chương 2: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH
HẢI DƯƠNG

2.1. Sự ra đời và phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dương
2.2. Đánh giá những tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương


43
43
56

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA KHU
CÔNG NGHIỆP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
TỈNH HẢI DƯƠNG

3.1. Phương hướng phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dương
3.2. Giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tiêu cực
của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh Hải Dương

74
74

82
97
98

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH, HĐH


:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

CTCP

:

Công ty cổ phần

KCN

:

Khu công nghiệp

KCNC

:

Khu công nghệ cao

KCX


:

Khu chế xuất

KH-CN

:

Khoa học - Công nghệ

KT-XH

:

Kinh tế - Xã hội



:

Nghị định

NQ

:

Nghị quyết

TU


:

Tỉnh ủy

UBND

:

Ủy ban nhân dân

5


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Các KCN tỉnh Đồng Nai

35

Bảng 2.1: Một số khoáng sản chủ yếu của tỉnh Hải Dương

46

Bảng 2.2: Các khu công nghiệp phát triển giai đoạn 2010 - 2020

48

Bảng 2.3: Tổng hợp một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp trong KCN


60

Bảng 2.4: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của KCN

64

Bảng 2.5: Hiện trạng môi trường không khí tại 4 điểm của tỉnh Hải Dương

68

Bảng 3.1: Dự báo tốc độ tăng trưởng GDP và cơ cấu khu vực kinh tế

76

Bảng 3.2: Dự báo giá trị sản xuất công nghiệp

77

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển khu công nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút
vốn đầu tư thúc đẩy công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu,
đồng thời tạo điều kiện bảo vệ môi trường sinh thái bảo đảm phát triển bền
vững. Ở nước ta, năm 1991, Đảng và Nhà nước có chủ trương triển khai thí
điểm việc thực hiện giải pháp quan trọng này. Từ đó đến nay, cả nước đã có
gần 200 khu công nghiệp với các quy mô, loại hình được phân bổ hầu khắp

các tỉnh, thành phố. Sự phát triển các khu công nghiệp đã góp phần to lớn vào
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Các khu công
nghiệp trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài, đón nhận các tiến
bộ khoa học kỹ thuật và tạo ra những nhân tố quan trọng thúc đẩy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hải Dương là tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997, thuộc một trong 8 tỉnh
của vùng kinh tế trọng điểm ở đồng bằng Bắc Bộ với hệ thống giao thông
thuỷ, bộ, đường sắt thuận lợi. Hải Dương trở thành địa bàn cung cấp hàng hoá
quan trọng đồng thời tham gia trung chuyển hàng hoá giữa hệ thống cảng biển
với các tỉnh và thành phố lớn ở phía Bắc. Trong tương lai, Hải Dương là trọng
điểm thu hút, phát triển công nghiệp, du lịch, thương mại và trở thành một
trong các đô thị lớn trong vùng. Trong xu thế phát triển chung của cả nước,
tỉnh Hải Dương đã có 10 khu công nghiệp với diện tich 2.087 ha. Sự phát
triển khu công nghiệp ở Hải Dương trong thời gian qua đã góp phần quan
trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, giải quyết việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động, thu hút vốn và công nghệ hiện đại,
kinh nghiệm quản lý tiến bộ của nhiều nước trên thế giới. Đồng thời, sự phát
triển khu công nghiệp đã tạo điều kiện cho sự ra đời các khu đô thị, nâng cao
chất lượng đời sống dân cư. Tuy nhiên, trong gần 20 năm qua, sự phát triển
1


các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dương đã bộc lộ những bất cập trong giải
quyết vấn đề môi trường sinh thái, việc làm, thu nhập của người dân mất đất,
sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng... Những bất cập đó đang là lực cản
cho việc phát huy vai trò của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội trên địa bàn, gây ra những bức xúc trong xã hội.
Nhằm góp phần vào giải quyết những bức xúc này, đề tài “Tác động
của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải
Dương” đã được lựa chọn làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính

trị, đề tài này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn không
chỉ đối với tỉnh Hải Dương mà còn đối với nhiều tỉnh, vùng trong cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu
Kể từ khi Đảng, Nhà nước ta có chủ trương xây dựng và phát triển các
khu công nghiệp đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này,
tiêu biểu là:
- Nguyễn Mạnh Đức, Lê Quang Anh (2000), “Hướng dẫn đầu tư vào
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam”, Nxb
Thống kê.
- Bộ kế hoạch và đầu tư (2004), “Kinh nghiệm thế giới về phát triển
khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc khu kinh tế”
- Trương Thị Minh Sâm (2005), “Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò
và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu
chế xuất”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
- Vũ Huy Hoàng (2007), “Tổng quan về hoạt động của các khu công
nghiệp”, kỷ yếu khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh
- GS,TS Trần Văn Chử (2006), “Tài nguyên thiên nhiên môi trường và
phát triển bền vững ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2


- TS Nguyễn Thị Hường (2009), “Chính sách thương mại và công
nghiệp nhằm phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam”, Báo cáo tổng hợp
kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
Một số đề tài dưới dạng luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu
vấn đề này như:
- Nguyễn Xuân Hinh (2005), “Quy hoạch xây dựng và phát triển khu

công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại
trường Đại học Kinh tế quốc dân
- Trần Văn Phùng (2009), “Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội các khu
công nghiệp miền Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh
- Lê Hồng Yến (2008), “Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý Nhà nước
đối với các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay (qua thực tiễn khu công nghiệp
các tỉnh phía Bắc)”, Luận án tiến sĩ tại trường Đại học Thương Mại.

- Hà Thị Thúy (2010), “ Các khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế
- xã hội ở Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Đinh Hoàng Dũng (2009), “Phát triển khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh
theo hướng bền vững”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên tập trung vào những vấn đề chung trên
phạm vi tổng thể cả nước hoặc trên địa bàn một vùng, một tỉnh khác, trong đó
chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ quản lý kinh tế, kinh tế phát triển và có một
số đề tài nghiên cứu kinh tế chính trị nhưng lại trên địa bàn tỉnh khác. Đến
nay, ở Hải Dương chưa có công trình khoa học nào dưới góc độ kinh tế chính
trị nghiên cứu về tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương. Đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu không trùng với
các công trình khoa học đã công bố.
3


3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản, luận văn đánh giá tác
động của khu công nghiệp (bao gồm các khu công nghiệp, khu chế xuất và

cụm công nghiệp) để đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt
tích cực và ngăn ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Hải Dương
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hoá cơ sở lý luận, thực tiễn về tác động của các khu công
nghiệp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn một tỉnh.
+ Đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt mặt tích cực
và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình
phát triển các khu công nghiệp này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu tác động của các khu công nghiệp (gồm
khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp) đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương .
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: địa bàn tỉnh Hải Dương
+ Về thời gian: từ khi triển khai xây dựng và phát triển các khu công
nghiệp ở tỉnh Hải Dương (từ 1997 đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đổi mới của Đảng Cộng

4


sản Việt Nam và những lý thuyết về công nghiệp hoá và đầu tư trong nền kinh
tế thị trường.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học

trong đó coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê từ tư
liệu thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Khái quát cơ sở lý luận về tác động của các khu công nghiệp đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 1997 đến nay.

- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc
phục ngăn ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển khu công nghiệp ở
Hải Dương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về tác động của các khu công
nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Chương 2: Thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dương
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát huy tác động tích cực
và hạn chế tác động tiêu cực của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Hải Dương

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI 1.1. Khu công nghiệp và tác động của nó đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội
1.1.1. Khu công nghiệp

Vào những năm cuối thế kỷ XIX, KCN đã được hình thành ở một số
nước tư bản phát triển. Năm 1896, xuất hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park
thành phố Manchester nước Anh. Sau đó, KCN lần lượt được thành lập ở các
nước khác như Mỹ năm 1899, Italia năm 1904, và kể từ những năm 50 của thế
kỷ XX thì KCN thực sự bùng nổ, trở thành phổ biến ở các nước. Trong quá
trình phát triển đó, KCN đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực nên nó được coi là
một công cụ để phát triển kinh tế.
Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù
thuật ngữ KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao hàm
nhiều hình thức tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau.
Theo nghĩa thông thường, KCN là khu vực có tính chất độc lập tập
trung nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Các KCN ra đời là kết quả
của việc xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp riêng rẽ. Xen lẫn với các
doanh nghiệp công nghiệp là khu dân cư hoặc các cơ quan hành chính sự
nghiệp các doanh nghiệp thuộc ngành khác… nghĩa là KCN chuyên sản xuất
hàng dành cho xuất khẩu. Ở đó, chính quyền đã áp dụng nhiều chính sách ưu
đãi như miễn thuế và tự do mua bán. Tuy nhiên, đến nay ở các nước khác
nhau có những quan niệm khác nhau về KCN. Có quan niệm cho rằng, KCN
là một vùng đất được phân chia và phát triển hệ thống theo một kế hoạch tổng
thể nhằm cung cấp địa điểm cho các ngành công nghiệp tương hợp với hạ
tầng cơ sở, các tiện ích công cộng, các dịch vụ phục vụ và hỗ trợ [14, tr.15].

6


Ở Thái Lan và Philippin, KCN được quan niệm như một thành phố công
nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tương đối độc lập. Ngoài việc cung cấp
kết cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải,
KCN cũng bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện,
các khu vui chơi, giải trí, khu nhà ở cho công nhân… Các KCN


ở Thái Lan và Inđônêxia thường có 3 bộ phận chủ yếu: Khu sản xuất hàng
tiêu thụ nội địa, khu sản xuất hàng xuất khẩu và khu thương mại dịch vụ.
Có quan niệm lại cho rằng, KCN là một khu vực phụ, không nhất thiết
phải có sự ngăn cách biệt lập bởi trên thực tế có nhiều tập đoàn và tổ hợp
công nghiệp với một chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau trên
một khu vực rộng lớn. Việc bố trí mặt hàng các khu sản xuất trên quy mô lớn
như quy mô đặc thù. [27, tr.30-31, 33].
Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO) trong tài liệu KCX ở các nước đang phát triển công bố năm 1990,
thì KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc
gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất
khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về
đầu tư mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ
nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản
xuất để xuất khẩu miễn thuế [43, tr.18].
Tuy những quan niệm trên có một số khác nhau về nội hàm KCN,
KCX, song về cơ bản đều thống nhất ở những đặc trưng sau:
Thứ nhất, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và
mục tiêu xác định giữa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có môi
trường kinh doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế tự do, các
chính sách ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội
địa. Chúng là nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thương mại,
đầu tư trên cơ sở chính sách ưu đãi về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục
hải quan, thủ tục hành chính, chính sách tài chính tiền tệ, môi trường đầu tư…
7


Thứ hai, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời trong sự
phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó thường là những khu vực có vị trí địa

lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào xung quanh, giới hạn với các vùng lãnh
thổ còn lại của nước sở tại và được Chính phủ nước đó cho phép hoặc rút
phép xây dựng và phát triển.
Thứ ba, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách
hướng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển các loại
hình sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu. Đây là mô hình thu nhỏ về chính
sách KT - XH mở cửa của một nước.
Ở Việt Nam, khái niệm về KCN được ghi trong Nghị định 192/CP ngày
15/12/1994 của Chính phủ về quy chế KCN. Các KCN được định nghĩa là
khu vực công nghiệp tập trung, được thành lập do quyết định của Chính phủ
với các ranh giới được xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và
không có dân cư.
Có thể thấy rằng KCN là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, có ranh giới pháp
lý riêng, có Ban quản lý riêng do Chính phủ thành lập. Về kết cấu hạ tầng,
KCN được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đạt các tiêu
chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các doanh nghiệp công
nghiệp. Về cơ cấu ngành, trong KCN có cả các ngành truyền thống mà trong
nước có lợi thế so sánh và cả các ngành công nghiệp mới như điện tử, công
nghệ thông tin, công nghệ lắp ráp…So với KCX, KCN thường có phạm vi
hoạt động rộng lớn hơn. Nó không chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà còn mở ra cho tất cả các ngành công
nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước.
Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được hoạt động tại
KCN, khác với KCX chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Các ưu
đãi từ phía Chính phủ cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong KCN
8


chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ

được hưởng chế độ ưu đãi như trong KCX và cũng sẽ được hưởng ưu đãi như
trong KCN. KCX là khu vực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài để xuất
khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là quan
hệ ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị
trường nước ngoài. KCX là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hoá từ KCX ra
nước ngoài và từ nước ngoài vào KCX không phải chịu thuế xuất nhập khẩu
và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh
nghiệp KCN với thị trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ doanh nghiệp
chế xuất trong KCN được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp trong KCX). KCN
không phải là khu thương mại tự do mà là khu sản xuất tập trung.
Đối với nước sở tại, thì KCX có nhiều mặt lợi hơn so với KCN. Điều
này có thể lý giải bởi các lý do sau đây:
- Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội
địa nên nhìn chung là không cạnh tranh với sản xuất trong nước.
- Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại,
nguồn ngoại tệ của xã hội lại tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của KCX.
- Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ
trương xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu.
Tuy nhiên những gì được coi là có lợi cho nước sở tại thì ngược lại là
bất lợi cho nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ
chức sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá cả hợp lý, phù hợp với
điều kiện cạnh tranh của thị trường quốc tế. Do các bất lợi trên mà nhà đầu tư
nước ngoài thường quan tâm đến hình thức KCN, nhằm tận dụng lợi thế về thị
trường nội địa. Điều này nghĩa là việc xây dựng thành công các KCX thường
gặp khó khăn hơn là KCN. Việc các nhà đầu tư nước ngoài coi trọng mô hình
KCN là có căn nguyên riêng của nó, nhưng cần phải thấy được một vấn đề là
nếu một quốc gia có quá nhiều KCN hoạt động sẽ có hàng nghìn doanh
9



nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nước ngoài đầu tư. Điều này sẽ tạo
ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trường nội địa.
Để khuyến khích đầu tư vào KCX, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống
chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn,
ưu đãi nhiều hơn cho KCX, làm cho nó có sức hấp dẫn cao hơn đối với các
nhà đầu tư so với KCN. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng của các KCN và KCX
là không ít khó khăn, nhưng việc kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn
này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một KCN hay KCX phụ thuộc
nhiều vào chất lượng của các dự án đã thu hút được.
Như vậy, KCN và KCX có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự
khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối
với nền kinh tế. KCN thường được nhận một sự ưu tiên nhất định từ phia
chính quyền địa phương và Chính phủ với vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế
vùng (địa phương), KCN bao gồm những doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp nước ngoài. KCX cũng được xác định là KCN nhưng tập trung những
doanh nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu tiên
đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế
khép kín sang nền kinh tế mở.
Theo Nghị định 36/CP của Chính phủ về khái niệm KCN thì “KCN là
khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý
xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ quyết định thành lập”.
Đây là một khái niệm động gắn liền với điều kiện cụ thể nơi nó hình thành.
Tuy vậy, có thể coi khái niệm mà chúng ta sử dụng là khái niệm hẹp và chỉ
quan tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng
để cho thuê, còn việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội không nằm
trong phạm vi quy định. Quan niệm này dẫn đến một thực tế là khi xây dựng
KCN, người ta không quan tâm đến tính đồng bộ của nó theo nghĩa rộng nên
10



ảnh hưởng lớn đến hiệu quả KT - XH của KCN. Cho nên việc quy hoạch phát
triển sản xuất nhất thiết phải đi kèm quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng xã
hội. Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện hàng trăm các KCN vừa và nhỏ do Trung
ương thành lập và các cụm CN ở các địa phương của chính quyền địa phương
(cấp tỉnh, thành phố). Mặc dù có một số đặc điểm đặc thù như quy mô thường
nhỏ hơn, ảnh hưởng hẹp hơn nhưng về bản chất không có sự khác biệt so với
các KCN của Trung ương. Trong đề tài, khái niệm KCN được hiểu bao gồm
cả KCN do Trung ương thành lập, quản lý và cả các cụm CN do chính quyền
địa phương thành lập.
Nói tóm lại, sự ra đời của các KCN nhằm mục đích cung cấp các điều
kiện về kết cấu hạ tầng tốt nhất cho việc xây dựng và vận hành của các cơ sở
sản xuất công nghiệp đặc biệt là hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư
vào nước sở tại sẽ có được đầy đủ điều kiện mặt bằng, đường sá, hệ thống
cung cấp điện nước, hệ thống xử lý nước thải…để sản xuất kinh doanh mang
lại lợi ích cho cả hai phía.
1.1.2. Tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã
hội hiện nay
KCN ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại
hội Đảng lần thứ VI khởi xướng. Hoạt động của các KCN trong thời gian qua
đã đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
của đất nước. Đối với những nước thuần nông như Việt Nam thì việc phát
triển KCN trước hết tạo tiền đề cho đô thị hóa nông thôn, tạo bước chuyển
dịch cơ cấu kinh tế mới theo hướng phát triển công nghiệp, giải quyết việc
làm cho lao động khu vực nông thôn. KCN cũng chính là cầu nối giữa nước ta
với thế giới bên ngoài, đóng vai trò tiên phong trong việc chuyển từ nền kinh
tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa.
Tuy nhiên sự phát triển của KCN trong thời gian qua cũng đang phá vỡ
kết cấu xã hội nông thôn truyền thống, bộc lộ những bất cập trong giải quyết
11



vấn đề môi trường sinh thái, việc làm và thu nhập của người dân mất đất, sự
quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng...
1.1.2.1. Những tác động tích cực của các khu công nghiệp đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc
CNH, HĐH nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CNXH. CNH, HĐH được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH. Quá trình CNH, HĐH được thực hiện trên cơ sở giải
phóng sức sản xuất trong nước, phát huy cao độ các nguồn lực trong nước
đồng thời tìm cách thu hút nguồn lực bên ngoài. Việc phát triển các KCN,
KCX, KCN cao có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo ra những điều kiện, thể chế,
môi trường thuận lợi cho quá trình thu hút, sử dụng nguồn lực từ bên ngoài
như vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến, phương thức quản lý hiện đại, trên cơ sở
đó đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH.
Việc phát triển KCN có những tác động tích cực sau:
Một là, KCN là một địa điểm quan trọng để thu hút vốn đầu tư, đặc
biệt là đầu tư nước ngoài, tập trung các doanh nghiệp công nghiệp vào một
khu vực địa lý.
Do có kết cấu hạ tầng hiện đại hơn và cơ chế quản lý thông thoáng hơn so
với bên ngoài nên KCN trở thành một địa điểm để tập trung các doanh nghiệp
sản xuất, chế biến công nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong nước.
Qua đó, tạo cơ hội đưa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa
học và công nghệ: xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị trí
chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững. Trong điều kiện kết cấu hạ tầng của nền kinh tế còn thấp
kém, đầu tư chưa hoàn thiện thì việc xây dựng, phát triển KCN là phương thức
phù hợp nhằm tập trung đầu tư cho một số khu vực có ưu thế hơn, giảm một
cách đáng kể chi phí về vốn và khó khăn cho nhà đầu tư.

12


KCN với những ưu đãi đặc biệt về thủ tục hành chính, cơ chế quản lý,
tài chính, thuế quan... so với sản xuất ở bên ngoài, nên nó trở thành môi
trường đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút được nguồn vốn đầu
tư cả trong và ngoài nước. Kết cấu hạ tầng trong KCN sẵn có và những chính
sách ưu đãi cùng với cơ chế quản lý đặc biệt, thủ tục đầu tư ngày càng đơn
giản, thuận tiện hơn so với bên ngoài KCN sẽ giúp nhà đầu tư nhanh chóng
triển khai dự án, tránh bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp tìm mọi cách tối thiểu hóa chi phí để đạt được giá
thành rẻ nhất. KCN là địa bàn mà doanh nghiệp có thể thực hiện được điều
đó. KCN được xây dựng tập trung theo chiều dọc, là nơi có nhiều đất trống,
gần cảng, giao thông thuận lợi cho xe tải trọng lượng lớn ra vào, có mạng lưới
điện để cho nhà đầu tư có thể xây dựng và vận hành các nhà máy. KCN còn
được trang bị kết cấu hạ tầng đầy đủ nên khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư sản
xuất sẽ giảm được rất nhiều chi phí như chi phí mua đất xây dựng nhà máy
với giá cao, chi phí xây dựng hệ thống đường dây tải điện, đường giao thông
vận tải vào nhà máy, thiết lập hệ thống thông tin liên lạc...Việc bố trí các nhà
máy theo chiều dọc (sản phẩm của nhà máy này là nguyên liệu của nhà máy
khác) và tập trung vào một khu vực nên các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết
đầu vào và đầu ra với chi phí thấp nhất. Do đó, các doanh nghiệp KCN có
điều kiện thuận lợi hơn để đạt mục tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp bên ngoài
KCN nên KCN thường hấp dẫn nhà đầu tư.
Thực tế ở nước ta cho thấy, KCN có vai trò tích cực vào việc thu hút
vốn đầu tư đặc biệt là vốn FDI. Số dự án đầu tư cả trong và ngoài nước vào
các KCN chiếm một tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tư vào các KCN
góp phần quan trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, đóng góp
trực tiếp vàp việc tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Mặt
khác còn tác động, kích thích tăng đầu tư mới ở các doanh nghiệp ngoài KCN.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, riêng năm 2009, các KCN trên cả nước đã thu
13


hút được gần 9,4 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có 271 dự án mới
với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt gần 7,5 tỷ USD và 236 lượt dự án tăng vốn
với số vốn tăng thêm đạt trên 1,6 tỷ USD.
Tính đến nay, các KCN cả nước đã thu hút được 3325 dự án có vốn đầu
tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư gần 39,3 tỷ USD.
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN
trên cả nước đạt gần 50%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy gần
74% [49].
Bên cạnh đó, việc tập trung các doanh nghiệp vào một khu vực địa lý
hình thành KCN tập trung là một vấn đề không kém phần quan trọng bởi
trong KCN tập trung, các doanh nghiệp dùng chung công trình hạ tầng nên
giảm được chi phí trên một đơn vị diện tích và một đơn vị sản phẩm, thực
hiện phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống nhất, kết hợp quy
hoạch ngành với quy hoạch lãnh thổ. Hơn nữa, việc tập trung các doanh
nghiệp trong KCN tạo điều kiện dễ dàng hơn trong xử lý chất thải công
nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các
doanh nghiệp công nghiệp có điều kiện thuận lợi hợp tác với nhau trong đổi
mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh.
Hai là, tạo việc làm và thu nhập
Sự hình thành và phát triển KCN không chỉ thu hút lao động vào các
doanh nghiệp bên trong mà còn kích thích các hoạt động dịch vụ phát triển và
thu hút vào các hoạt động này một số lớn các lao động khác. Số lao động này
được tiếp xúc với công nghệ sản xuất hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến.
Đây là điều kiện quan trọng để xây dựng đội ngũ lao động có kỷ luật, kỹ năng
và năng suất lao động cao đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất
nước. Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp, nhiều

KCN, KCX đã mở các cơ sở đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong KCN, KCX. Ở các địa phương có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ
14


rệt, điều đó có tác động tích cực đến xóa đói, giảm nghèo, góp phần làm giảm
các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra.
Ba là, KCN là địa bàn để tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại và
phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển.
Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc tiếp thu công nghệ
hiện đại và các phương pháp quản lý tiên tiến của các nhà đầu tư được thực
hiện tốt thông qua các KCN. Mặc dù trong những giai đoạn đầu hoạt động của
các KCN, đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành như dệt may,
giày da, lắp ráp điện tử, nhưng càng về sau thì việc đầu tư vào các lĩnh vực
công nghệ hiện đại như đúc chính xác, sản xuất cơ khí, cáp điện, linh kiện
điện tử… ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn cả về sản phẩm và kim ngạch
xuất khẩu. Quá trình chuyển giao diễn ra dưới nhiều hình thức: đào tạo công
nhân nước chủ nhà để sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ… Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp KCN còn thu hút một lượng lớn người lao động Việt Nam
vào các vị trí quản lý doanh nghiệp quan trọng, đội ngũ lao động này được
tiếp xúc với phương thức quản lý tiên tiến, kỹ năng marketing, quản lý tài
chính, tổ chức nhân sự… Đội ngũ này khi chuyển đi làm việc tại các doanh
nghiệp sẽ vừa áp dụng được phương pháp quản lý tiên tiến đã tiếp thu được
vào hoạt động của doanh nghiệp mình, vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp và truyền đạt những kiến thức quản lý cho người lao động Việt
Nam khác.
Bốn là, góp phần chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, hợp lý và
hiệu quả.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung cơ bản trong quá trình
CNH, HĐH ở nước ta bởi nó tạo điều kiện cho nền kinh tế vận động phù hợp

với các quy luật khách quan, thúc đẩy phân công lao động xã hội, gắn sản
xuất với nhu cầu thị trường trong nước và xu hướng toàn cầu hoá, khu vực
hoá, mở cửa và hội nhập kinh tế, giúp khai thác tối đa mọi nguồn lực, tiềm
15


năng của đất nước, của ngành, của doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Đảng ta xác định xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý theo ngành,
lĩnh vực và lãnh thổ trong đó giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao
động của tất cả các ngành, lĩnh vực nhất là các ngành và lĩnh vực có sức cạnh
tranh cao.
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công
nghiệp. Một mặt, KCN góp phần nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong
tổng số GDP của các ngành kinh tế tạo ra trên cả nước. Mặt khác, KCN thu
hút những dự án có hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao. Mặc dù số lượng các
dự án này trong KCN còn ít nhưng cũng góp phần phát triển ngành nghề mới,
đa dạng hoá ngành nghề công nghiệp. Các dự án đầu tư vào KCN tập trung
chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, giầy da, công nghệ chế
biến thực phẩm. Đây là các dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu
cao. Các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm là những ngành truyền
thống có từ lâu đời ở nước ta nhưng các dự án trong KCN đã góp phần nâng
cấp các ngành này về dây truyền công nghệ và chất lượng sản phẩm.
Năm là, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý ô nhiễm môi trường, bảo
vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững.
Bảo vệ môi trường sinh thái là một nhiệm vụ cơ bản của phát triển bền
vững. Các nước đang phát triển thực hiện CNH, HĐH thường phải chú ý đến
sự phát triển cân bằng cả về kinh tế, xã hội, môi trường. Vấn đề môi trường là
một yếu tố quan trọng mà bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải giải quyết.
Với mục tiêu chỉnh trang các đô thị theo hướng hiện đại, văn minh và bảo vệ
môi trường, việc di dời nhà máy, các xí nghiệp sản xuất công nghiệp trong các

đô thị ra vùng ngoại thành là cần thiết. Nhưng nếu để các doanh nghiệp phân
tán hoặc việc xử lý chât thải với chi phí ít tốn kém hơn, đồng bộ hơn, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý môi trường của cơ quan chức năng. KCN
tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô thị với tác động bất lợi của
16


sản xuất công nghiệp (như khói bụi, tiếng ồn, bức xạ…). Với sự tập trung của
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định, ban quản
lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các doanh nghiệp.
Đồng thời, về phiá mình, các doanh nghiệp công nghiệp cũng có điều kiện
phòng chống ô nhiễm môi trường với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải
của nhau, do có sự liên kết xử lý ô nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nước.
Hơn nữa, KCN được sử dụng các biện pháp triệt để trong việc xử lý
môi trường ngay từ khâu quy hoạch. Trong KCN, các doanh nghiệp buộc phải
có hệ thống xử lý chất thải cục bộ đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra hệ thống
chung. Từng KCN phải có nhà máy xử lý nước thải tập trung và được đầu tư
xây dựng song song với việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Như vậy,
việc bảo vệ môi trường trong toàn khu vực KCN được thực hiện tốt hơn so
với tại các cơ sở công nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau. Đồng
thời, KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường
từ nội thành, từ các vùng dân cư, phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển bền
vững. Với tác động này, việc xây dựng các KCN tập trung được coi là một
giải pháp quan trọng của sự phát triển KT - XH.
Trong vài năm tới ở nước ta sẽ có khoảng 65% KCN đang hoạt động có
hệ thống nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, nó đòi hỏi các cơ
quan quản lý Nhà nước phải có quyết tâm cao kết hợp với các biện pháp cụ
thể. Thời gian qua đã có nhiều dự án xử lý nước thải tập trung trong KCN đi
vào vận hành, tổng số cơ sở xử lý nước thải tập trung trên 60 nàh máy, đạt gần
½ mục tiêu kế hoạch đến năm 2011. Ngoài ra tại KCN đang xây dựng, có 20

nhà máy xử lý nước thải tập trung được xây dựng và dự kiến hoàn thành trong
năm nay. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã dự thảo quy chế Bảo vệ môi trường KCN. Hy vọng sau khi ban
hành Quy chế này, chúng ta sẽ có cơ sở pháp lý trong triển khai công tác bảo
vệ môi trường KCN.
17


Sáu là, góp phần tăng cung ứng hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
Một trong những mục tiêu quan trọng đặt ra khi xây dựng các KCN là
góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Thực tế cho
thấy, nhiều KCN ở các nước đặc biệt là ở khu vực châu Á đã thành công trong
mục tiêu này. Theo thống kê của Hiệp hội KCX thế giới, một diện tích khoảng
100 ha cần đầu tư 50 triệu USD cho kết cấu hạ tầng, trong vòng 10 năm sẽ tạo
việc làm cho 10.000 lao động, từ đó tạo ra hàng xuất khẩu trị giá 100 triệu
USD/năm [48].
Thực tế cho thấy việc phát triển các KCN đã thành công ở nhiều nước
như Đài Loan, Thái Lan xây dựng KCN từ những năm đầu của thập kỷ 60 và
đã thu được những thành tựu to lớn. Các KCN của Đài Loan đã có 238 doanh
nghiệp xuất khẩu hoạt động với tổng vốn đầu tư hơn 860 triệu USD, trong đó
hơn 70% là đầu tư nước ngoài. Tổng giá trị xuất khẩu tích luỹ đã hơn 35 tỷ
USD, tạo việc làm cho 90.000 lao động. Còn Thái Lan, năm 1960 thu nhập
GDP bình quân là 94 USD/người. Qua 3 thập kỷ công nghiệp hoá, công
nghiệp đã lên ngôi chiếm 34% GDP và nông nghiệp chỉ còn 10%, 70% giá trị
xuất khẩu do các ngành công nghiệp đảm nhận, thu nhập GDP bình quân đầu
người cao. Công nghiệp chế tạo từ thập kỷ 60 đến nay là khu vực đóng góp
phàn quan trọng nhất đối với tiến bộ của cả nước [42, tr.35].
Theo Ngân hàng thế giới (WB), 1 ha đất canh tác nông nghiệp, bình
quân 1 năm chỉ thu được 2000 USD. Nhưng nếu dùng để sản xuất công

nghiệp có thể đạt 200.000 đến 400.000 USD, tăng gấp 100 đến 200 lần [49].
1.1.2.2. Những tác động tiêu cực của các khu công nghiệp
Việc xây dựng và phát triển các KCN, KCX của nước ta trong thời gian
qua bên cạnh những thành tựu đạt được cũng đã bộc lộ những hạn chế, đặt ra
những vấn đề bức xúc cần phải nghiên cứu giải quyết.
18


Một là,do theo đuổi phong trào xây dựng KCN mà các nhà quản lý và
đầu tư thiếu tính toán việc thu hút các doanh nghiệp sản xuất nhằm “lấp đầy”
KCN nên dẫn đến tình trạng lãng phí các nguồn lực.
Sự phát triển ồ ạt của các KCN, quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu tầm
nhìn chiến lược đã gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng kinh tế làm
cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không theo kịp. Mặt khác, việc phân
bổ các KCN giữa các vùng còn bất hợp lý, thành lập quá nhiều KCN, KCX
trong cùng một vùng trong khi khả năng thu hút đầu tư còn hạn chế không
phát huy được hiệu quả vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho KCN. Điều
này dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt, tự phát, chạy đua theo phong trào.
Việc thành lập, thu hút đầu tư vào KCN không phù hợp với quy hoạch tổng
thể phát triển KT - XH của vùng, quy hoạch phát triển KCN cả nước. Hơn
nữa, do cách thức quản lý các KCN không tốt, không tập trung làm cho các
doanh nghiệp trong KCN làm ăn kém hiệu quả. Mặt khác, việc xây dựng các
KCN tràn lan dẫn đến tình trạng thiếu lao động có tay nghề. Đây là vấn đề hết
sức nan giải mà nhiều địa phương đã vấp phải làm cho các KCN hoạt động
không có hiệu quả cao. Như vậy, do theo đuổi phong trào xây dựng KCN,
mong muốn lấp đầy KCN dẫn đến tình trạng lãng phí các nguồn lực, làm xáo
trộn tình hình phát triển KT - XH.
Sự phát triển tràn lan các KCN ở các tỉnh hiện nay dẫn đến cạnh tranh
quyết liệt giữa các địa phương trong việc thu hút đầu tư làm xuất hiện không
ít tình trạng “vượt rào”, “phá luật” gây ra những lộn xộn không đáng có làm

thiệt hại cho lợi ích chung của xã hội và giảm lòng tin của các nhà đầu tư về
sự nhất quán trong chính sách ưu đãi của Việt Nam.
Trong những năm gần đây, để khuyến khích các doanh nghiệp trong và
ngoài nước đầu tư vào các KCN, các cấp, các ngành đã không ngừng nghiên
cứu, hoàn thiện chính sách ưu đãi, thủ tục đầu tư thuận tiện. Tuy vậy, việc xây
dựng ồ ạt các KCN dẫn đến một thực tế các địa phương đang ra sức quyết liệt
19


ganh đua, cạnh tranh nhau để thu hút các nguồn vốn đầu tư về KCN ở địa
phương mình. Nhiều địa phương đã ban hành những chính sách ưu đãi riêng
để “xé rào”, “phá luật” vượt quá quy định của pháp luật để thu hút đầu tư,
chấp nhận dùng ngân sách địa phương để bù lỗ. Điều này làm ảnh hưởng đến
ngân sách nhà nước, hơn nữa còn dẫn đến tình trạng chèn lấn, “ngáng chân
nhau” trong việc thu hút đầu tư, làm giảm hiệu quả của các KCN, không tận
dụng được lợi thế của các địa phương, các doanh nghiệp, gây thiệt hại cho lợi
ích xã hội, làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư về sự thống nhất, nhất quán
trong chính sách ưu đãi của Việt Nam. Cho nên, với những cam kết quá mức
của địa phương để giành giật vốn đầu tư có thể dẫn đến những khó khăn trong
việc thực thi chính sách kêu gọi đầu tư phù hợp của Đảng và Nhà nước trong
việc thu hút các dự án đầu tư giữa các địa phương, vùng, miền.
Thực tế còn cho thấy, việc xây dựng các KCN đã sử dụng một diện tích
đất đai khá lớn, thu hồi quá nhiều đất nông nghiệp trong đó hơn 80% thuộc
đất “bờ xôi”, “ruộng mật” với hệ thống thuỷ lợi thuận tiện cho 2 vụ lúa mỗi
năm kéo theo 500.000 tấn lúa mất đi, ảnh hưởng lớn đến người lao động.
Trong khi đó, để trở thành ruộng trồng lúa phải mất hàng nghìn năm mà đất
đã làm công nghiệp thì khó có thể trồng lại lúa. Điều đó dẫn đến lãng phí
nguồn lực đất đai, đe dọa an ninh lương thực quốc gia. Sự lãng phí ấy còn do
tình trạng “quy hoạch treo, dự án treo”. Do nóng vội trong đầu tư phát triển
KCN và dự báo về đầu tư không sát thực tế hoặc thiếu giải pháp hữu hiệu để

thu hút vốn đầu tư nên nhiều địa phương thu hồi đất của dân, san lấp mặt bằng
nhưng lại để đất trống trong nhiều năm do chưa có nhà đầu tư phù hợp. Một
số nơi vội giao đất cho nhà đầu tư không đủ năng lực nên dự án không tiến
triển. Tỷ lệ lấp đầy trong các KCN là một trong những tiêu chí đánh giá sự
phát triển bền vững về kinh tế, sự phát triển bền vững nội tại KCN nhưng lại
không đạt tiêu chuẩn đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các công ty phát triển
hạ tầng.
20


Hai là, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng cho các KCN không phù
hợp, không được người dân ủng hộ đã gây ra tình trạng trì trệ trong phát triển
KCN. Một vấn đề đáng quan tâm nữa là việc xây dựng các KCN cần phải có
mặt bằng xây dựng. Muốn có mặt bằng xây dựng cần phải đền bù, giải phóng
mặt bằng. Trong thời gian qua, việc đền bù rất phức tạp, còn nhiều hạn chế và
tốn kém. Nhiều KCN mất từ 2 đến 3 năm mới đền bù, giải tỏa xong, dẫn đến
việc đẩy chi phí xây dựng tăng lên làm cho giá thuê đất tăng cao. Mặt khác,
những biến động về giá đất ở các khu vực xung quanh KCN theo hướng tăng
lên có thể gây cản trở cho việc giải phóng mặt bằng, một số KCN không thực
hiện tốt chính sách đối với các hộ dân phải di dời đã gây khó khăn lớn cho họ.
Ngoài ra, đất đền bù cho người dân thấp nhưng đến khi có KCN thì giá đất lại
tăng lên một cách chóng mặt, có nhiều người đã lợi dụng tình trạng này để thu
lợi lớn trong khi người mất đất lại rất thiệt thòi gây nên sự bất bình. Theo báo
cáo của Chính phủ, vào thời điểm cuối năm 2009, có trên 80% số vụ khiếu
kiện của nông dân liên quan đến đất đai, trong đó có tới 70% là khiếu nại về
giá đất tính bồi thường; 20% là khiếu nại yêu cầu bồi thường thêm theo giá
đất mới; 6% là khiếu nại yêu cầu bồi thường đối với đất đã thu hồi nhưng
chưa được bồi thường; 3% là khiếu nại về chưa thực hiện tái định cư và 1% là
khiếu nại về sự thiếu công bằng trong áp dụng chính sách giữa các trường hợp
giống nhau [50].

Với cách làm như hiện nay, tại các nơi có KCN, hệ thống chính trị ở
nhiều cơ sở rệu rã và bị một số cán bộ lợi dụng chức quyền ăn chặn phần đền
bù của dân. Dân không còn tin vào chính quyền cơ sở nên dẫn đến tình trạng
khiếu nại vượt cấp. Thêm vào đó, những hiện tượng cán bộ “ăn đất”, những
kẻ lợi dụng để bao chiếm đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp ngày càng
nhiều. Hiện đang nổi cộm mâu thuẫn giữa những nông dân bị thu hồi đất với
một bộ phận không nhỏ cán bộ chính quyền cơ sở lợi dụng những kẽ hở của
chính sách để trục lợi. Từ mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, người dân mất đất
21


nhận rõ về sự bất công, dẫn đến sụt giảm niềm tin vào Nhà nước, vào các
doanh nghiệp công nghiệp. Cuối cùng họ có thể chỉ còn có cách duy nhất là
“phản ứng tập thể” một cách vô tổ chức, tự phát, cản trở quá trình CNH,
HĐH, bất hợp tác với các doanh nghiệp và chính quyền cơ sở.
Ba là, việc xây dựng ồ ạt các KCN còn làm gia tăng tình trạng thất nghiệp,
ảnh hưởng xấu đến thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi, gây
nguy cơ mất ổn định xã hội. Người nông dân bị thu hồi đất lại chưa được chuẩn
bị để tham gia vào lĩnh vực lao động mới là lao động công nghiệp. Các hoạt động
thu hồi đất hiện nay đang vô tình đẩy nhiều nông dân đối mặt với kinh tế thị
trường trong thế yếu và không thể tự vệ. Nhiều hộ nông dân phải xoay sở kiếm
sống bằng cách khác, mà phổ biến là những lao động chính tìm cách kiếm việc
tại đô thị. Họ bị mất đất, mất nghề và buộc phải bán sức lao động để sống trong
cơ chế thị trường còn nhiều tính tự phát. Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy, mỗi năm có khoảng 80.000 - 100.000 ha đất
nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Nếu tính trung bình một lao động
ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ có khoảng 400 - 500m2 đất canh tác như hiện nay
thì mỗi năm mất đi khoảng 1,5 đến 2 triệu chỗ làm. Trung bình mỗi hộ nông dân
bị thu hồi đất co 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có việc làm trong khi đó 1
ha đất nông nghiệp hằng năm tạo ra việc làm cho 13 lao động nông nghiệp.
Người mất việc làm chủ yếu là nông dân với trình độ văn hoá, chuyên môn thấp,

chưa qua đào tạo nghề phi nông nghiệp nên cơ hội tìm việc làm ngoài nông
nghiệp rất khó. Đất thu hồi xây dựng KCN chủ yếu là đất nông nghiệp. Việc thu
hồi đất nông nghiệp và đất ở trong những năm qua đã tác động đến khoảng
95000 lao động . Với một lượng lớn lao động như vậy, việc giải quyết việc làm
gặp vô vàn khó khăn. hầu hết các tỉnh đều thừa nhận, lượng lao động bị thu hồi
đất nông nghiệp vào làm tại các KCN là rất nhỏ.

Mặt khác, phần lớn lao động tại khu vực nông thôn hiện nay đều rơi
vào độ tuổi khá cao (trên 35 tuổi). Do vậy, tâm lý trồng lúa đã ăn sâu, bén rễ
22


×