Tải bản đầy đủ (.docx) (136 trang)

Sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh vĩnh phúc đối với kinh tế nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010 ths lịch sử 60 22 56

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 136 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1. ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRONG NHỮNG NĂM 1997 - 2000 ..................... 13

1.1. Địa giới hành chính và điều kiện tự nhiên - xã hội ......................... 13
1.2. Tình hình kinh tế nông nghiệp Vĩnh Phúc trước khi tái lập
tỉnh ...........................................................................................................

19

1.3. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo phát triển kinh tế nông
nghiệp (1997 - 2000)................................................................................. 26
1.3.1. Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn ...............................................................................................

26

1.3.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc (1997 - 2000)......................................................................... 32
1.3.3. Tổ chức chỉ đạo và kết quả thực hiện ............................................ 36
Tiểu kết chương 1 .................................................................................... 43
Chương 2. ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRONG NHỮNG NĂM 2001 - 2010..................... 44

2.1. Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với kinh tế nông
nghiệp trong 5 năm 2001 - 2005 .............................................................. 44
2.1.1. Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
(2001 - 2005) ........................................................................................... 44
2.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc (2001 - 2005)......................................................................... 49


2.1.3. Tổ chức chỉ đạo và kết quả thực hiện ............................................ 52
2.2. Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với kinh tế nông
nghiệp trong 5 năm 2006 - 2010 ................................................................ 61

5


2.2.1. Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn (2006 - 2010)................................................................................................................... 61
2.2.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc (2006 - 2010)..................................................................................................... 67
2.2.3. Tổ chức chỉ đạo và kết quả thực hiện.............................................................. 71
2.2.4. Tổ chức chỉ đạo và kết quả thực hiện.............................................................. 74
Tiểu kết chương 2...................................................................................................................... 79
Chương 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ
YẾU......................................................................................................................................................... 81

3.1. Nhận xét chung.................................................................................................................. 81
3.2. Một số kinh nghiệm........................................................................................................ 93
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................... 106
PHỤ LỤC.......................................................................................................................................... 115

6


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc son trong tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc, đồng thời tạo ra tiền đề quan trọng có ý nghĩa

quyết định đến mọi thắng lợi sau này.
Năm 1975, ngay sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, Đảng quyết định xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi cả nước. Để đưa một đất nước với xuất phát điểm thấp, kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp lại bị chiến tranh tàn phá trở thành một nước có nền kinh
tế phát triển, với khoa học - công nghệ hiện đại, đòi hỏi Đảng phải vận dụng
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tháng 04/2001, trong Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng xác định: “Đẩy mạnh công nghiệp
hóa - hiện đại hóa, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa”[25,
tr.26] .
Trong khi nhấn mạnh vai trò quyết định của công nghiệp đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Đảng luôn luôn coi trọng nông nghiệp,
đặt nông nghiệp vào vị trí hàng đầu, coi nông nghiệp là cơ sở để phát triển
công. Điều đó phù hợp với tình hình đất nước và quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên” (có nghĩa là trước cần phải
ăn), nước ta muốn “dĩ nông vi bản” (có nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân
muốn ăn no thì phải giồng giọt. Nước muốn giầu mạnh thì phải phát triển
nông nghiệp ...”[39, tr.144].
Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh được tái lập và đi vào hoạt động từ
ngày 01/01/1997 theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII. Sau
khi được tái lập, kinh tế Vĩnh Phúc chủ yếu vẫn là kinh tế nông nghiệp. Trong
những năm qua, để phấn đấu trở thành một trong những tỉnh giầu có, phồn
7


thịnh như mong muốn của Bác Hồ khi về thăm tỉnh, Đảng bộ và toàn thể nhân
dân Vĩnh Phúc đã và đang cố gắng xây dựng, phát triển kinh tế trong đó có

kinh tế nông nghiệp và đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, thực tế cũng đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc phải tiếp tục có những chủ trương sát hợp hơn nhằm phát triển
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc đối với kinh tế nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010” làm đề
tài cho luận văn Thạc sĩ - chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam với
mong muốn góp phần tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm, cung cấp thêm
cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế của Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Phúc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng trong việc phát triển kinh tế nông
nghiệp đặc biệt là thời kỳ đổi mới là đề tài rộng lớn, thu hút sự quan tâm của
đông đảo các nhà khoa học, kinh tế học, nhà chính trị học, nhà sử học, ....Có
thể tổng hợp các công trình nghiên cứu thành những nhóm sau:
Nhóm các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về phát
triển kinh tế nông nghiệp. Đáng chú ý là các bài viết của Thủ tướng Chính
phủ - Nguyễn Tấn Dũng khi còn là Phó Thủ tướng như: “Công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong
tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước” (Báo Nhân dân, ngày
19/03/2002); “Để nông nghiệp, nông thôn phát triển bền vững, người dân
giàu lên” (Tạp chí Cộng sản, số 20, tháng 10/2002, tr 6-11); “Công nghiệp
hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thành tựu và giải pháp” (Báo
Nhân dân, ngày 28/7/2005); Ông Phan Diễn - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư
Trung ương Đảng cũng có bài: “Tạo bước chuyển biến nông nghiệp hơn nữa
tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” (Tạp chí
Cộng sản, số 28, tháng 10/2002, tr 3-5).
8


Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn bao gồm

một loạt các công trình đã được công bố: “Lịch sử nông nghiệp Việt Nam”
của Ban biên tập Lịch sử Nông nghiệp Việt Nam (Nxb Nông nghiệp, H.1994);
“Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam” của PGS. TS
Trương Thị Tiến (Nxb Chính trị Quốc gia, H.1999); “Nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam thời kỳ đổi mới 1986 - 2002” của PGS. TS Nguyễn Sinh Cúc (Nxb
Thống kê, H.2003); ....
Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến chủ trương của Đảng và Nhà
nước đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung trong cả nước.

Riêng địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc cũng đã có một số công trình nghiên cứu
như Luận văn cao học của Đặng Kim Oanh: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh
đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2003”.
Luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và dừng ở năm 2003. Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên
cứu về vai trò của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với sự phát triển kinh tế nông
nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

*

Mục đích

-

Tìm hiểu chủ trương và sự chỉ đạo tổ chức thực hiện của Đảng bộ

Vĩnh Phúc đối với kinh tế nông nghiệp trong hơn 10 năm sau khi tỉnh Vĩnh
Phúc được tái lập (1997 - 2010).

-

Bước đầu rút ra những thành tựu, hạn chế và một số kinh nghiệm về sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với kinh tế nông nghiệp.
* Nhiệm vụ

-

Tập hợp các tài liệu có liên quan đến sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Vĩnh
Phúc với quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp.

-

Trình bày có hệ thống các chủ trương, biện pháp, quá trình lãnh đạo thực hiện
của Đảng bộ tỉnh và những kết quả đạt được theo từng giai đoạn lịch sử.
9


-

Phân tích vai trò của Đảng bộ Vĩnh Phúc trong quá trình lãnh đạo phát triển
kinh tế nông nghiệp. Đồng thời, đúc kết một số kinh nghiệm nhằm tiếp tục
phát triển kinh tế nông nghiệp trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình
thực hiện công nghiệp hóa - hiện đai hóa quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Những chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh trong những năm 1997 - 2010.

* Phạm vi nghiên cứu

+

Về nội dung nghiên cứu:

Khái niệm kinh tế nông nghiệp hiểu theo nghĩa hẹp bao gồm ngành trồng trọt,
chăn nuôi và một số hoạt động dịch vụ khác.

+

Kinh tế nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp
và thủy sản.
Luận văn nghiên cứu Đảng bộ Vĩnh Phúc lãnh đạo phát triển kinh tế
nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng. Tuy nhiên, trong khuân khổ một bản Luận
văn Thạc sĩ Luận văn tập trung nghiên cứu sâu hơn về vai trò lãnh đạo của
Đảng bộ Vĩnh Phúc đối với hai ngành chính là: trồng trọt và chăn nuôi.
- Không gian nghiên cứu: Luận văn tiến hành nghiên cứu trên địa bàn
của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Thời gian nghiên cứu: Tập trung chủ yếu trong các năm 1997 - 2010.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh
* Các nguồn tài liệu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, nguồn tài liệu nghiên cứu
và sử dụng gồm:
- Văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế
nông nghiệp từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đến Đại hội đại biểu toàn

10



quốc lần thứ X. Đây là nguồn tài liệu giữ vai trò làm nền tảng trong quá trình
nghiên cứu về chủ trương, chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Phúc.
-

Các công trình nghiên cứu viết về vấn đề kinh tế nói chung và kinh tế nông
nghiệp nói riêng. Đây là nguồn tài liệu giúp nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn
về sự phát triển của kinh tế nông nghiệp.

-

Các văn kiện, Nghị quyết Đại hội, hội nghị đặc biệt là có liên quan đến vấn đề
phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Bên cạnh đó là các báo cáo tổng kết
hàng năm, hàng quý,... các bản thống kê số liệu về sự phát triển của kinh tế
nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh. Đây là nguồn tài liệu quan trọng, có nhiều
tài liệu gốc trực tiếp liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên những quan điểm của duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

-

Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc tái hiện một cách chân
thực và khoa học quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm 1997 - 2010.

-

Phương pháp phân tích, so sánh, thống kê để đánh giá sự phát triển của kinh tế

nông nghiệp Vĩnh Phúc qua từng giai đoạn, nhằm thể hiện rõ vai trò lãnh

đạo và quá trình đổi mới tư duy của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong công cuộc
đổi mới và nhất là lãnh đạo phát triển kinh tế ở địa phương.
6. Đóng góp của luận văn
-

Hệ thống hóa các chủ trương, giải pháp của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong
việc lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp ở địa phương từ năm 1997 đến
năm 2010.

-

Khẳng định những thành tựu cũng như nêu ra những hạn chế trong quá trình
lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm
1997 đến năm 2010.

11


-

Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu, luận văn rút ra một số bài học kinh
nghiệm để củng cố thêm cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách phát
triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm tiếp
theo.

-

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng

dạy và nghiên cứu lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong thời
kì đổi mới.
7.

Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo phát triển kinh tế nông
nghiệp trong những năm 1997 - 2000.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo phát triển kinh tế nông
nghiệp trong những năm 2006 - 2010.
Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu.

12


Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP TRONG NHỮNG NĂM 1997 - 2000
1.1. Địa giới hành chính và điều kiện tự nhiên - xã hội
Địa giới hành chính
Tháng 02/1950, theo Nghị quyết số 03/TT ngày 12/02/1950, tỉnh Vĩnh
Phúc ra đời trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh là Vĩnh Yên và Phúc Yên. Tỉnh Vĩnh
Phúc có diện tích đất đai là 1.715km 2 với 47 vạn dân, bao gồm 8 huyện, 2 thị
xã, 137 xã.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và thể theo nguyện vọng
của nhân dân hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, ngày 26/01/1968, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 504/NQ-QH về việc hợp nhất tỉnh
Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ lấy tên là tỉnh Vĩnh Phú. Sau gần 29 năm sát nhập,

kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết (ngày 06/11/1996)
về việc tái lập tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ. Ngày 01/01/1997, tỉnh Vĩnh
Phúc chính thức được tái lập và đi vào hoạt động.
Tính đến ngày 31/12/2008, Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên là 1.231,76
km2 gồm 9 đơn vị hành chính là: Thành phố Vĩnh Yên (tỉnh lỵ), thị xã Phúc
Yên và các huyện: Lập Thạch, Tam Dương, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Tam Đảo,
Bình Xuyên, Sông Lô. Toàn tỉnh có 137 xã, phường, thị trấn.
Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý kinh tế
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, phía Bắc giáp
các tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Tây giáp Phú Thọ, phía Đông và
phía Nam giáp thủ đô Hà Nội.
Vĩnh Phúc nằm trên quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai,
là cầu nối giữa vùng trung du miền núi phía Bắc với thủ đô Hà Nội; liền kề
cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua đường quốc lộ 5 thông với cảng Hải
13


Phòng và trục đường 18 thông với cảng nước sâu Cái Lân, có vị trí quan trọng
đối với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong những năm qua
đã tạo cho Vĩnh Phúc trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển
công nghiệp các tỉnh phía Bắc. Đồng thời, sự phát triển các tuyến hành lang
giao thông quốc tế đã đưa Vĩnh Phúc xích gần hơn với các trung tâm kinh tế,
công nghiệp và những thành phố lớn của các quốc gia thuộc hành lang kinh tế
Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng, Quốc lộ 2 - Việt Trì - Hà Giang - Trung
Quốc, hành lang đường 18 và trong tương lai là đường vành đai 4 thành phố
Hà Nội. Vị trí địa lý đã mang lại cho Vĩnh Phúc những thuận lợi nhất định
trong phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay Vĩnh Phúc nằm trong 3 vùng quy hoạch: Vùng Kinh tế trọng

điểm Bắc Bộ, Vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Thủ Đô, trong tương lai
Vĩnh Phúc sẽ trở thành một trung tâm kinh tế lớn của vùng Thủ đô.
Hệ thống hạ tầng giao thông đối ngoại đã và đang được đầu tư hiện đại
là những tuyến chính gắn kết quan hệ toàn diện của Vĩnh Phúc với các tỉnh
khác trong cả nước và quốc tế.
Tài nguyên thiên nhiên
* Địa hình, địa mạo, địa chất
-

Địa hình, địa mạo: Vĩnh Phúc dựa vào dãy núi Tam Đảo ở phía Bắc, còn ở
phía Tây, Nam được bao bọc bởi sông Lô và sông Hồng nên Vĩnh Phúc có địa
hình đa dạng, thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam, có ba vùng sinh
thái đặc trưng rõ rệt: Địa hình miền núi, địa hình vùng đồi và địa hình vùng
đồng bằng.

-

Địa chất: Mặc dù với diện tích lãnh thổ không lớn nhưng cấu trúc địa tầng
của Vĩnh Phúc khá phức tạp, có nhiều nguồn gốc khác nhau. Tính phong phú
của các giới địa tầng quyết định rất lớn chất lượng đất và sự có mặt của các
loại khoáng sản khác nhau.
14


* Khí hậu
Khí hậu của tỉnh Vĩnh Phúc chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng V
đến tháng X và mùa khô từ tháng XI đến tháng IV năm sau. Nhiệt độ trung
bình chênh lệch giữa tháng nóng nhất (33,1oC - tháng VII) với tháng lạnh nhất
(19,6oC - tháng I) là 13,5oC. Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.270
giờ (Tam Đảo) đến 1.700 giờ (Vĩnh Phúc). Lượng mưa khá lớn, trung bình từ

1.500 - 1.700 mm/năm.
Nhìn chung, điều kiện khí hậu của Vĩnh Phúc khá thuận lợi về mọi mặt
cho phát triển nông, lâm nghiệp, đây là cơ sở cho sự đa dạng hoá cơ cấu sản
phẩm nông nghiệp, phát huy lợi thế so sánh của các yếu tố sinh thái của tỉnh.
* Tài nguyên nước
-

Tài nguyên nước mặt

Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều con sông chảy qua, song chế độ thuỷ
văn phụ thuộc vào 2 con sông chính là sông Hồng và sông Lô. Hệ thống sông nhỏ
như sông Phan, sông Phó Đáy, sông Cà Lồ có mức thuỷ văn rất nhỏ nhưng lại có ý
nghĩa quan trọng về mặt thuỷ lợi, cấp nước sản xuất cho địa bàn tỉnh.

Trên địa bàn tỉnh còn có hệ thống các hồ chứa với dung tích hàng triệu m

3

(Đại Lải, Thanh Lanh, Làng Hà, Đầm Vạc, Xạ Hương,…) tạo nên nguồn dự trữ
nước mặt phong phú đảm bảo phục vụ tốt cho hoạt động kinh tế và dân sinh.
-

Tài nguyên nước ngầm: Trên địa bàn tỉnh nguồn này có trữ lượng không lớn,
đạt khoảng 1 triệu m3/ngày đêm.
* Tài nguyên đất
Đất đai của Vĩnh Phúc khá đa dạng về chủng loại mặc dù hàm lượng
các chất dinh dưỡng trong đất ở mức nghèo đến trung bình, nhưng đất có
thành phần cơ giới nhẹ là chủ yếu nên thuận lợi cho canh tác nhiều loại cây
trồng khác nhau như: cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, cây rau
hoa, cây dược liệu, cây ăn quả, cây lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.


15


Bảng 1.1: Các loại đất tỉnh Vĩnh Phúc
STT

Tên đất



Diện tích

Tỷ lệ

hiệu

(ha)

(%)

32.638

26,5

I

Nhóm đất phù sa

1


Cồn cát, bãi cát ven sông

Cc

127

0,1

2

Đất phù sa được bồi của hệ thống sông Hồng

Phb

6.167

5

3

Đất phù sa được bồi của hệ thống sông khác

Pb

3.920

3,2

4


Đất phù sa không được bồi của hệ thống sông Hồng

Ph

10.043

8,2

5

Đất phù sa glây

Pg

12.381

10,1

II

Nhóm đất lầy và than bùn

900

0,7

6

Đất lầy


900

0,7

III

Nhóm đất xám bạc màu

21.927

17,8

7

Đất xám bạc màu trên phù sa cổ

21.927

17,8

IV

Nhóm đất đỏ vàng

45.637,43

37,1

8


Đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất

Fs

11.707

9,5

9

Đất vàng đỏ trên đá macma axit

Fa

26.780,43

21,7

10

Đất nâu vàng trên phù sa cổ

Fp

2.300

1,9

11


Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nuớc

Fl

4.850

3,9

V

Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi

2.240

1,8

12

Đất mùn vàng đỏ trên macma axit

2.240

1,8

VI

Nhóm đất thung lũng

3.186


2,6

13

Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ

3.186

2,6

VII

Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá

410

0,3

14

Đất xói mòn trơ sỏi đá

410

0,3

10.6938,4

86,8


16238

13,2

123.176,4

100,0

J

B

Ha

D

E

Diện tích đất
Diện tích sông, hồ
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN

(Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn )

16


* Tài nguyên sinh vật

-

Tập đoàn cây trồng nông nghiệp: Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có một tập
đoàn cây trồng khá phong phú có nguồn gốc từ nhiệt đới đến á nhiệt đới
và ôn đới.

-

Tài nguyên rừng: Vĩnh Phúc có khoảng 32,8 nghìn ha đất lâm nghiệp, Rừng Vĩnh
Phúc ngoài việc bảo tồn nguồn gen động thực vật còn có vai trò điều hoà nguồn
nước, khí hậu và phục vụ cho phát triển các dịch vụ tham quan du lịch.

* Tài nguyên thuỷ sản
Ngành thuỷ sản có hàng trăm loại cá (trong đó có hơn một chục loại cá
nuôi) thuộc 62 giống, 17 họ, 6 bộ.
Điều kiện xã hội
Về dân số
Quy mô dân số: Dân số trung bình tỉnh Vĩnh Phúc theo tổng điều tra
dân số và nhà ở tháng 4/2009 có khoảng 1.000,8 ngàn người. Trong đó: dân
số nam khoảng 495,5 ngàn người (chiếm 49,5%), dân số nữ khoảng 505,3
ngàn người (chiếm 50,5). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên tương đối ổn định trong
khoảng 11,3 - 11,7%.
Tỷ lệ đô thị hoá diễn ra tương đối nhanh, tỷ trọng dân số đô thị đã tăng
thêm 8,3%, từ 16,7% năm 2005 lên 22,4% năm 2009 và năm 2010 tỷ lệ này
vào khoảng 25%. Tỷ lệ trên cho thấy tỷ lệ đô thị hóa ở Vĩnh Phúc vẫn còn
thấp so với mức bình quân cả nước (khoảng 28,1% năm 2008).
Bảng 1.2: Cơ cấu dân số của tỉnh giai đoạn 2005 - 2010 (ĐVT: %)
TT

Chỉ tiêu


2005

2006

2007

2008

2009

2010

Tổng số

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

1

Dân số đô thị


16,7

18

19,5

21

22,4

25

2

Dân số nông thôn

83,3

82

80,5

80,9

77,6

75

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc)


17


Đặc điểm dân số: Quy mô dân số ở mức trung bình, dân số của tỉnh tương
đối trẻ. Theo số liệu báo cáo năm 2009, quy mô dân số ở mức 1 triệu người; lực
lượng lao động trong độ tuổi chiếm tỷ lệ khá cao, chiếm tới 70% dân số.

Trình độ học vấn của người dân Vĩnh Phúc tương đối cao. Tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp tiểu học và THCS đạt trên 99%, THPT đạt trên 95% trong năm
học 2008 - 2009, tỷ lệ học sinh thi đỗ đại học, cao đẳng năm 2008 đạt 0,67
học sinh/100 dân, đây là tỷ lệ đạt cao trong cả nước. Tỷ lệ lưu ban bỏ học các
cấp dưới 1%.
Giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục thường xuyên ngày càng được chú
trọng và quan tâm đầu tư. Các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh hàng
năm được đầu tư bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và đội ngũ
giáo viên; chất lượng giảng dạy được nâng lên.
Đặc điểm về dân tộc, tôn giáo: Toàn tỉnh có trên 11 dân tộc sinh sống,
trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số với 95,72% dân số, còn lại là các dân tộc
thiểu số như: Sán Dìu, Cao Lan, Nùng, Dao, Tày, Mường, Ngái, Lào, Hoa,
Thái... chiếm 4,28% dân số.
Lao động: Theo số liệu dân số ở trên, lực lượng lao động trong độ tuổi
chiếm một tỷ lệ khá cao trên 70% vào năm 2009. Về chất lượng lao động, tỷ
lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đạt năm 2010 tỷ lệ này đạt 51,2%.
Cùng với tốc độ gia tăng dân số, trong những năm tới lực lượng lao
động sẽ tăng đáng kể do dân số bước vào tuổi lao động ngày càng nhiều. Mỗi
năm tỉnh có trên 1 vạn người bước vào độ tuổi lao động. Đây là nguồn nhân
lực dồi dào cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Điều kiện tự nhiên - xã hội nêu trên đã tác động đến sự phát triển
của kinh tế nông nghiệp Vĩnh Phúc:

Thuận lợi:
-

Vĩnh Phúc nằm trên quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai, liền
kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài, là điểm đầu của Quốc lộ 18 đi cảng
Cái Lân, là cầu nối của các tỉnh phía Bắc với Hà Nội nên thuận lợi cho phát
triển kinh tế xã hội nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng.
18


-

Vĩnh Phúc nằm trong 3 vùng quy hoạch: Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Thủ Đô. Thủ tướng Chính phủ
vừa ban hành Quyết định số 20/QĐ-TTg phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch
chung xây dựng đô thị Vĩnh Phúc đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.
Trong tương lai Vĩnh Phúc sẽ đầu tư để trở thành một trung tâm kinh tế lớn
của vùng Thủ đô.
-

Điều kiện địa hình, đất đai bao gồm cả vùng đồng bằng, trung du và

đồi núi thuận lợi cho phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi đã tạo nên sự
phong phú, đa dạng trong sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản.
- Tài nguyên nước mặt dồi dào bao gồm các sông lớn và hồ chứa tạo dự
trữ đáng kể phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
Hạn chế:
-

Sản xuất nông nghiệp do mang nặng tính thời vụ, phụ thuộc nhiều vào thiên

nhiên, tính rủi ro cao, hiệu quả kinh tế thấp nên khó thu hút các nhà đầu
tư vào nông nghiệp hơn các ngành sản xuất khác.

-

Diện tích đất canh tác manh mún, bình quân đất sản xuất nông nghiệp 0,25 0,3ha/hộ là trở ngại lớn cho việc áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất, đặc biệt là
khu vực trung du, đồi núi.
1.2. Tình hình kinh tế nông nghiệp Vĩnh Phúc trước khi tái lập tỉnh
Do khó khăn trong việc tách số liệu của những huyện thuộc tỉnh Vĩnh
Phúc sau năm 1997 nên Luận văn sử dụng các số liệu chung của tỉnh Vĩnh Phú.

Với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến chống xâm lược
trường kì đầy gian khổ nhưng cũng rất hào hùng của lịch sử dân tộc kết thúc
thắng lợi. Một kỉ nguyên mới được xác lập: kỉ nguyên đất nước độc lập, thống
nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một trong những điều kiện chủ quan rất
thuận lợi cho công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển đất nước
theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải đối phó với rất nhiều khó khăn thử
thách: đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nguồn viện trợ bị cắt dần, nền
19


kinh tế đất nước vẫn dựa chủ yếu vào nông nghiệp, kinh tế trì trệ, khủng
hoảng, cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp đã triệt tiêu động lực phát
triển của các thành phần kinh tế.
Trong bối cảnh chung, nền kinh tế ở Vĩnh Phú thời kỳ này chủ yếu là kinh
tế nông nghiệp. Công nghiệp không phát triển. Nông nghiệp là nguồn thu chủ
yếu. Dịch vụ phát triển không đáng kể. Bức tranh chung về kinh tế là sự nghèo
nàn và lạc hậu. Nền kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc. Tuy cơ
chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động đã mang lại những hiệu qủa

nhất định trong nông nghiệp, nhưng do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn
ảnh hưởng nặng nề, làm cho đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Để khắc phục tình trạng khó khăn, từng bước đưa đất nước vượt qua
khủng hoảng tiến tới phát triển và phát triển mạnh mẽ, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI đã được triệu tập ở Hà Nội vào tháng 12/1986. Với tinh thần
nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã đưa ra
chủ trương đổi mới toàn diện và đồng bộ từ kinh tế, chính trị đến tư tưởng, văn
hóa trọng tâm là đổi mới kinh tế. Vì vậy, Đại hội có ý nghĩa hết sức to lớn, là
mốc đánh dấu bước phát triển của đất nước. Từ đây, đất nước từng bước khắc
phục khó khăn, vượt qua khủng hoảng vươn lên phát triển về mọi mặt.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đại hội VI, Đại hội Đảng bộ lần thứ
VI của tỉnh Vĩnh Phú (1986) đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu
của kế hoạch 5 năm (1986 - 1990) của tỉnh. Đại hội đã nêu rõ: Phải đẩy nhanh
phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, trong đó tập trung
vào 3 chương trình kinh tế đó là: sản xuất lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu.
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú sau đó đã đưa ra nhiều Nghị quyết như: Nghị
quyết số 04/NQ-TU, Nghị quyết số 10/NQ-TU để triển khai các Nghị quyết
của Đảng, đặc biệt là triển khai thực hiện Nghị quyết 10 của Ban Bí thư. Đảng
bộ đã chỉ đạo giao khoán ruộng đất ổn định lâu dài cho các hộ xã viên, gắn lao
động với đất đai, khẳng định và tạo điều kiện cho kinh tế hộ tự chủ trong

20


sản xuất kinh doanh. Vì những lí do đó, từ năm 1988 mặc dù gặp nhiều khó
khăn khách quan như thời tiết thất thường, thiên tai, thiếu vật tư phục vụ cho
nông nghiệp, nhưng nông nghiệp Vĩnh Phú vẫn đạt được những kết quả đáng
kể. Đó là thành quả tổng hợp giữa sự lãnh đạo của Đảng bộ với sự cần cù, cố

gắng vươn lên của nhân dân trong tỉnh. Người nông dân đã mạnh dạn ứng
dụng khoa học - kĩ thuật, đưa các loại giống cây trồng mới vào sản xuất nên
năng suất và sản lượng ngày càng tăng. Đồng thời, dịch vụ cho nông nghiệp
như giống cây trồng vật nuôi, bảo vệ thực vật, thú y, thủy lợi được chú ý quan
tâm, cơ cấu mùa vụ có những bước chuyển biến và hợp lí, vụ đông dần trở
thành vụ chính. Trong kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), sản lượng lương thực,
thực phẩm của tỉnh đạt trên 400 ngàn tấn, năng suất của các cây công nghiệp
như lạc, đỗ tương, đay,... tăng liên tục hàng năm.
Với kết quả đạt được, sản xuất nông nghiệp đã cung cấp đủ lương thực
-

thực phẩm cho thị trường trong tỉnh, vươn tới cung ứng cho thị trường trong
miền. Giai đoạn này, về cơ bản đã chấm dứt được tình trạng thiếu lương thực
ở một số vùng đồng bằng với mức bình quân lương thực đã đạt được
400kg/người, cao hơn mức bình quân đầu người của cả nước. Riêng một số
nơi thuộc vùng núi của tỉnh do điều kiện tự nhiên - xã hội của vùng nên bình
quân lương thực chỉ đạt 200 - 300kg/người.
Về chăn nuôi, Đảng bộ chủ trương phát triển theo hướng tăng tỷ trọng
ngành chăn nuôi trong cơ cấu kinh tế nông. Sự quan tâm của tỉnh kịp thời,
đúng hướng, có hiệu quả đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển.
Chăn nuôi thời gian này tập trung chủ yếu vào chăn nuôi đại gia súc và gia
cầm. Tổng kết năm 1990, chăn nuôi trên toàn tỉnh đàn trâu: 96.662 con, đàn
bò: 130.421 con, đàn lợn: 420.555 con, cùng hàng trăm ngàn con gia cầm. So
với kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), kế hoạch 5 năm (1986 - 1990) đàn trâu, bò
tăng lên 53% [1, tr. 56].
Tổng kết sau 5 năm thực hiện theo đường lối đổi mới của Đảng với
kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng, kinh tế nông nghiệp tỉnh

21



Vĩnh Phú đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Những kết quả đó không
chỉ góp phần thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh mà còn đóng góp cho sự phát triển
chung của vùng đồng bằng sông Hồng. Kết quả đó là sự đánh giá chính xác
nhất cho sự lãnh đạo sáng suốt, đúng hướng của Đảng bộ tỉnh. Tuy nhiên, qua
5

năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, bên cạnh những mặt đã làm được,
kinh tế nông nghiệp tỉnh Vĩnh Phú vẫn còn những bất cập, hạn chế đòi
hỏi cần có biện pháp giải quyết.
Để giải quyết những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra, Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phú lần thứ VII (vòng 2) họp từ ngày 18 đến ngày 20/11/1991. Đại hội diễn ra
trong bối cảnh thế giới hết sức phức tạp. Nhưng với tinh thần đổi mới, Đại hội đã
đánh giá đúng thực trạng tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh từ sau Đại hội VI, rút
ra những kinh nghiệm quý báu từ thực hiện 5 năm tiến hành đổi mới toàn diện.

Quán triệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ trong kế hoạch 5 năm
(1991 -1995) của đất nước được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng đề ra và trên cơ sở phân tích tình hình của tỉnh sau 5 năm đổi mới, Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII (vòng 2) đã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ
trong 5 năm tiếp theo của quá trình đổi mới (1991 - 1995).
Phát huy những kết quả đạt được trong giai đoạn đầu đổi mới, dưới sự chỉ
đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân tỉnh Vĩnh Phú đã hăng say lao động và giành
được nhiều thành tựu quan trọng trong đó có kinh tế nông nghiệp. Đánh giá tổng
quát của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (tháng 5/1996) có đoạn: “Năm năm
qua nền kinh tế và xã hội của tỉnh Vĩnh Phú có bước phát triển tương đối toàn
diện trên các lĩnh vực, đạt mức tăng trưởng khá so với nhiệm kì trước... Đời sống
vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí
được nâng cao. Cơ chế kinh tế mới được khẳng định...”.


Trong 5 năm (1991 - 1996), kinh tế nông nghiệp có bước phát triển khá
và tương đối ổn định toàn diện. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản có tốc dộ
tăng bình quân hàng năm 4,2% , sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 4,38%.

22


Sản lượng lương thực bình quân tăng 6,82%, tính riêng năm 1995 đạt 33 vạn
tấn, lương thục bình quân đạt 310kg/người.
Kết quả nổi bật trong kinh tế nông nghiệp giai đoạn này là đã cơ bản
giải quyết được vấn đề lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, bắt
đầu tiến hành sản xuất hàng hóa, tình trạng đói lúc giáp hạt đã được khắc
phục. Do áp dụng có kế hoạch, có hiệu quả những tiến bộ khoa học - kĩ thuật
và những biện pháp thâm canh tăng vụ, xen canh mà hệ số sử dụng đất tăng
lên, năng suất cây trồng cũng có sự thay đổi. Năng suất lúa bình quân một vụ
từ 26,13 tạ/ha (năm 1990) lên 35,07 tạ/ha (năm 1995). Sản xuất vụ đông ở
vũng đồng bằng đã trở thành vụ chính, còn ở vùng trung du đang từng ngày
khai thác tốt hơn tiềm năng về đất đai nhất là đất đồi cho trồng cây ăn quả.
Về chăn nuôi, trong 5 năm (1991 - 1995), Vĩnh Phú tiếp tục chú ý đầu
tư cho sự phát triển nên từ đàn trâu, bò, lợn đến đàn gia cầm, nuôi thả cá đều
tăng khá. Đàn trâu tăng 12,3%, đàn bò tăng 17,8%, đàn lợn tăng 29,5% so với
thời kì trước [1, tr.62]. Bước đầu thu được kết quả tốt khi triển khai chương
trình nạc hóa đàn lợn, sind hóa đàn bò.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn có sự chuyển dịch đúng hướng,
rõ nét: tỷ trọng của ngành trồng trọt giảm, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi.
Trong ngành trồng trọt, cơ cấu cây trồng cũng có sự thay đổi: cây lương thực
giảm dần về tỷ trọng và tăng dần tỷ trọng của cây công nghiệp, cây ăn quả và
các loại cây có giá trị kinh tế cao. Theo hướng sản xuất hàng hóa này, Vĩnh
Phú đã tận dụng được tiềm năng đất rừng, đất đồi để thúc đẩy sản xuất hàng
hóa trong nông nghiệp.

Theo thống kê, trong sản xuất nông nghiệp có nhiều nơi của vùng đồng
bằng đã đạt được giá trị sản xuất là 20 triệu đồng/ha canh tác/năm. Đó là một
kết quả khá cao.
Triển khai thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú đã nhanh chóng đưa ra nhiều chính
sách cụ thể có tác động đến nền kinh tế. Trong nông nghiệp, những hình thức
23


hợp tác mới đã xuất hiện. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ và ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các thành phần kinh tế đã tạo ra động lực mới làm cho sản xuất nông nghiệp
phát triển đa dạng. Nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh đã có được sự năng
động, nhạy bén trước những thay đổi của tình hình, đã gắn sản xuất với thị
trường, đặc biệt coi trọng sản xuất hàng hóa phục vụ cho xuất khẩu.
Ngoài ra, thông qua chính sách giao đất, giao rừng cho nhân dân sản
xuất và quản lý ổn định, lâu dài của Đảng bộ tỉnh làm cho người dân phấn
khởi, hăng hái hơn trong lao động sản xuất, tạo được niềm tin của người dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh. Chính sách này đã tác động đến thành
phần kinh tế hộ gia đình, tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này dần dần
được khẳng định và đang phát huy được tác dụng trong việc khai thác tiềm
năng, thế mạnh của tỉnh về vốn, đất đai, kinh nghiệm sản xuất.
Như vậy, tình đến năm 1996 tức là 10 năm thực hiện đổi mới toàn diện,
nhân dân tỉnh Vĩnh Phú đã giành được những thành tựu, bước đầu có ý nghĩa
quan trọng trên tất cả mọi lĩnh vực trong đó có đóng góp của kinh tế nông
nghiệp. Tuy nhiên kinh tế nông nghiệp, cũng đang đặt ra các vấn đề cần được
giải quyết để những năm tiếp theo có sự phát triển hơn. Đó là:
- Sản xuất vật chất chưa gắn với thị trường và còn mang nặng tính tự
phát. Một số cây trồng, vật nuôi được định hướng phát triển nhưng không dựa
trên cơ sở quy hoạch, hợp đồng tiêu thụ và hợp tác sản xuất nên khi có sản
phẩm thường gặp khó khăn trong tiêu thụ, gây tác động bất lợi đến phát triển

sản xuất và thu nhập của người nông dân.
-

Sản xuất nông nghiệp chưa khai thác triệt để tiềm lực về vốn, đất đai, chưa có
những chính sách hợp lý để thu hút nguồn vốn phát triển.
-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa đồng bộ trên tất cả các

lĩnh vực, mới chỉ tập trung vào cơ cấu giống là chính. Vì vậy, chưa tạo được
sức mạnh tổng hợp trong quá trình chuyển dịch nên mặc dù tốc độ tăng
trưởng khá nhưng tỷ trọng các ngành sản xuất vẫn dựa chủ yếu vào trồng trọt.

24


-

Dân số của tỉnh ngày càng tăng, công nghiệp phát triển dần đến quỹ

đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp lại trong tình trạng phân tán, manh mún
gây khó khăn lớn trong thực hiện cơ giới hóa, hiện đại hóa và thay đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi.
-

Về phía Đảng bộ: còn gặp lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch phát triển nền
kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa và thay đổi cơ cấu mùa vụ,
cây trồng, vật nuôi, chính sách phân bố, thu hút nguồn vốn đầu tư.

-


Về phía người dân: trình độ chưa cao, người được đào tạo chưa nhiều, vần giữ
tập quán sản xuất cũ làm cho năng suất lao động chưa cao, hiệu quả
sản xuất chưa tốt. Họ còn chậm dổi mới tư duy, chưa thật mạnh dạn áp dụng
khoa học - công nghệ vào sản xuất.
-

Nông nghiệp tuy có trình độ thâm canh khá cao nhưng năng suất, chất

lượng nông phẩm nhìn chung còn thấp, giá thành cao, chưa có sức cạnh tranh, chưa
tạo được vùng sản xuất hàng hóa, Việc bảo quản, chế biến hầu như chưa có gì.

- Hệ thống dịch vụ cho nông nghiệp chưa được quan tâm phát triển
đúng mức, chưa phù hợp với sự phát triển của nông nghiệp nên chưa phát huy
được tác dụng trong sản xuất.
- Các hợp tác xã nông nghiệp vẫn còn chậm đổi mới tư duy trong hoạt
động cả về nội dung và phương thức quản lý. Các hình thức kinh tế hợp tác
mới phát triển chậm.
-

Kinh tế hộ gia đình đã có sự khởi sắc nhưng số lượng, quy mô các

điển hình sản xuất hàng hóa trang trại ở tỉnh còn rất hạn chế, nhỏ bé.
-

Hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường chưa thực sự

được quan tâm trong đó vai trò của các doanh nghiệp, các hợp tác xã còn yếu
càng làm cho nông nghiệp hàng hóa phát triển chậm giai đoạn này.
Thực trạng kinh tế nông nghiệp như trên đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Phúc sau khi tái lập tỉnh phải có chủ trương, giải pháp sát hợp hơn để phát
triển kinh tế nông nghiệp trong bối cảnh cả nước bước vào thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
25


1.3. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo phát triển kinh tế nông
nghiệp (1997 - 2000)
1.3.1. Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin muốn xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là các nước đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lao
động công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp, phần lớn lao động nông nghiệp với
trình độ thủ công, năng suất thấp thì việc tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước là một đòi hỏi tất yếu, Tuy nhiên, trong chặng đường đầu của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với các nước có xuất phát điểm thấp,
kinh tế nông nghiệp là chủ yêu, kỹ thuật sản xuất lạc hậu thì bước khởi đầu
phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Trong những thập niên cuối thế kỉ XX, thế giới đã chứng kiến sự trỗi
dậy của xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của
các nước châu Á như Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc - những nước này đa
phần là những nước nông nghiệp lạc hậu, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn
trong nền kinh tế. Thực tế cho thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn đã có những đóng góp tích cực đối với công tác xóa đói,
giảm nghèo vì nó tạo thêm việc làm phi nông nghiệp với thu nhập cao hơn từ
nông nghiệp ngay trên địa bàn nông thôn. Hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn đi cùng với mở mang ngành dịch vụ, tăng cầu về
lao động qua đó tăng giá tiền công của nông dân, giảm dần sự phụ thuộc

thuộc của lao động nông nghiệp với đất nông nghiệp. Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn rõ ràng sẽ làm lợi cho người dân nghèo nông
thôn và nông dân không có đất. Đó là một trong những tiền đề cơ bản để ổn
định xã hội và tăng trưởng kinh tế, là sự lựa chọn khôn ngoan. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không chỉ dừng lại ở lợi ích kinh tế

26


-

xã hội nông thôn, đời sống nông dân mà còn tăng tích lũy trên diện rộng
thông qua phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn với công nghiệp chế biến và
xuất khẩu, thu ngoại tệ mạnh để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đồng thời là phương tiện ngăn chặn có hiệu quả nhất dòng di cư từ nông thôn
ra thành thị và tình trạng gia tăng dân số cơ học quá lớn và vô phương kiểm
soát ở các thành phố, thị xã.



Việt Nam, ngay từ những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: Đặc điểm to lớn nhất của nước ta trong
thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Qua các kỳ Đại hội,
Đảng ta đã khẳng định và từng bước làm rõ thêm đặc điểm đó, làm cơ sở để
xây dựng đường lối chiến lược và các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng.
Thuật ngữ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng ta sử dụng
nhiều trong các hội nghị Trung ương nhưng phải đến Hội Nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII mới nêu rõ nội hàm của nó. Quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt

động sản xuất.
Việt Nam là nước có gần 80% dân số sống ở nông thôn, trên 70% lực
lượng lao động xã hội làm việc ở nông thôn. Việc phát triển toàn diện nông
thôn có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nội dung cơ bản của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình hình thành, phát triển và hoàn
thiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá
trình đổi mới tư duy, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và học tập
chọn lọc kinh nghiệm quốc tế.
Tháng 6/1996, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII. Đại hội có vai trò rất quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta. Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung

27


ương Đảng khóa VII của Đảng, bên cạnh đánh giá những thành tựu, những
khuyết điểm, tổng kết những bài học kinh nghiệm của 10 năm tiến hành công
cuộc đổi mới, còn đưa ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của toàn
Đảng và toàn dân ta trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc mà nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện tại hóa là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” [21, tr. 15].
Báo cáo chỉ rõ nội dung cơ bản của công nghiệp hóa - hiện đại hóa
trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là: “Đặc biệt coi trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm,

ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biên nông, lâm, thủy sản; phát triển công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”[21, tr.86].
Đối với Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn,
Đảng ta nêu ra những vấn đề sau:
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập trung

-

chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa
nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã
hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường
trong, ngoài nước.
-

Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa …

Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày càng

-

cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
-

Phát triển các ngành nghê, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới
bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sã hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông
nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
28



-

Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông thôn
mới văn minh, hiện đại. [21, tr.87]
Để cụ thể hóa Nghị quyết của Đại hội VIII, Quốc hội và Chính phủ đã
ban hành nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp,
nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Trước tiên đó là sự ra đời của Luật Hợp tác xã (ngày 01/07/1997) trong đó
có nội dung quan trọng là chuyển đổi các Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp trước
đây sang làm chức năng dịch vụ theo mô hình Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới,
làm dịch vụ cho kinh tế hộ. Sau đó, Chính phủ cũng ban hành nhiều chính sách
mới về nông nghiệp, nông thôn, tiêu biểu là đầu tư cho nông nghiệp và nông
thôn theo hướng tăng 50% vốn ngân sách trong năm 1999, Chính sách vay vốn
cho mỗi hộ nông dân đến 10 triệu đồng không phải thế chấp.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII (tháng 12/1997) về “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, cần kiệm để công nghiệp hoá, phấn
đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến nǎm 2000” đã xác định:
Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa
và hợp tác hóa, dân chủ hóa. Và những việc cần phải tập trung thực hiện, đó
là: Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao
động ở nông thôn, giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản, phát triển
mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc
doanh trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở quốc doanh ở
vùng sâu, vùng xa.
Ngày 17/10/1998, Hội nghị Trung ương 6 (lần 1) khóa VIII đã họp bàn
về “Nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1999 và vấn đề phát triển nông nghiệp,
nông thôn”. Hội nghị khẳng định: “Tập trung sức cao hơn nữa cho nhiệm vụ
phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, làm cơ sở vững chắc cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội

trong mọi tình huống, ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp,
29


×