Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Tinh thần nhập thế trong tư tưởng phật giáo của trần nhân tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.8 KB, 111 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại, bên cạnh những thành tựu vĩ đại mà nhân loại đạt được trong
nền văn minh vật chất thì những giá trị văn hoá tinh thần, tôn giáo không hề
bị xem nhẹ, mà ngược lại càng được coi trọng hơn. Trong điều kiện lịch sử
mới, các tôn giáo không ngừng thay đổi bản thân mình để phù hợp với sự
thay đổi của xã hội. Chính sự phát triển và giao lưu giữa các tôn giáo đã góp
thêm phần thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá trong các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, giữa các quốc gia. Vì vậy việc nghiên cứu tinh thần nhập thế của
tôn giáo không thể bỏ qua.
Nhân loại hiện nay đang bước vào giai đoạn hậu công nghiệp, hay nền
văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri thức. Bên cạnh đời sống kinh tế rất phát triển
với một khối lượng của cải vật chất đồ sộ do tiến bộ khoa học kỹ thuật mang
lại, thì đời sống tinh thần của con người trong xã hội hiện đại đang phải đối
mặt với những khổ nạn mới như: sự phân hóa giàu nghèo, cạnh tranh và
xung đột, ô nhiễm môi trường, và sự tha hóa về mặt đạo đức lối sống… Đối
mặt với những khổ nạn ấy, Phật giáo với giá trị nhân bản trong việc giải thoát
cho con người dường như đã đáp ứng được nhu cầu tâm linh, khoảng trống
và nỗi thất vọng trong lòng con người. Bằng khả năng điều chỉnh sự cân
bằng trong nội tâm, Phật giáo có thể giúp con người sống hài hòa trong thế
giới này.
Phật giáo là một tôn giáo lớn, và ngày nay chúng ta không khỏi ngạc
nhiên khi thấy nhân loại, đặc biệt là các nước phương Tây đang có trào lưu
hướng về châu Á, hướng về đạo Phật. Điều này có thể lý giải một phần từ
những giá trị nhân văn của đạo đức Phật giáo. Hơn nữa, Phật giáo đã thực sự
1


nhập thế trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, ngay cả các hoạt động kinh tế
kinh doanh. Phật giáo không dạy con người ta xa rời cuộc sống để làm thần,


làm thánh hoặc xuất gia làm hòa thượng trong chùa chiền, nơi rừng sâu, mà
Phật giáo hướng tới cải tạo xã hội, cải tạo thế giới bằng đạo đức, làm cho
loài người tiến bộ và nhân văn hơn.


Việt Nam, Phật giáo được du nhập vào từ rất sớm và đã nhanh chóng

hòa quyện với tín ngưỡng bản địa của người Việt, trở thành một tôn giáo dân
tộc. Trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, Phật giáo luôn đồng
hành cùng dân tộc. Các thiền sư Việt Nam, đặc biệt dưới các triều đại Đinh,
Tiền Lê, Lý, Trần đã nhập thế tích cực khi đem tài năng và trí tuệ của mình
phục vụ đất nước, dân tộc; nhưng không hề cầu màng danh lợi, quyền uy mà
luôn giữ thái độ xuất thế. Phật giáo do vậy còn tạo nên những yếu tố quan
trọng của bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trải suốt hơn 2000 năm qua,
tuy có lúc được thể hiện rõ, có lúc chưa được làm sáng tỏ nhưng điều quan
trọng là vẫn liên tục phát triển và trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
hoạt động của Phật giáo Việt Nam. Tinh thần nhập thế ấy càng được thể hiện
rõ dưới thời kỳ nhà Trần, đặc biệt trong tư tưởng “Cư trần lạc đạo” của Trần
Nhân Tông.
Phật Hoàng Trần Nhân Tông là điển hình nhập thế trong lịch sử tư
tưởng Phật giáo Việt Nam - Người đã ứng dụng rất linh hoạt tinh thần Phật
giáo trong đường lối trị quốc, an dân, bình thiên hạ. Ông là nhà lãnh đạo tài
ba sớm thấy được vai trò nhập thế của Phật giáo nên đã nhường ngai vàng
cho con, lên Núi Yên Tử thành lập Thiền phái Trúc Lâm để thống nhất một
Phật giáo Đại Việt với tư cách quốc giáo.
Với phương châm: “đạo pháp- Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”, ngày nay
Phật giáo vẫn đồng hành cùng dân tộc trong tiến trình xây dựng xã hội chủ
2



nghĩa và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác -Lênin và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, chúng
ta cần tiếp tục khai thác vai trò nhập thế đã từng thành công của Phật giáo
vào mục đích chung của dân tộc hôm nay. Trong bối cảnh đất nước, xã hội và
con người Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu tinh thần nhập thế của Phật
giáo, với điển hình là tư tưởng Phật giáo nhập thế của Trần Nhân Tông sẽ
góp phần giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về một giá trị văn hoá dân tộc
để có thái độ đối xử và kế thừa đúng đắn, góp phần xây dựng thành công xã
hội mới.
Với những lý do trên, cùng với sự yêu thích và say mê nghiên cứu Phật
giáo Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: “Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật
giáo của Trần Nhân Tông” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phật giáo là một tôn giáo - triết học lớn, thu hút sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều học giả trong và ngoài nước. Có một khối lượng khá đồ sộ các
công trình nghiên cứu tổng quan về Phật giáo hay các khía cạnh khác nhau
của Phật giáo. Riêng nghiên cứu vấn đề nhập thế của Phật giáo nói chung và
tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông nói riêng
cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt, mà chủ yếu là
rất nhiều các bài viết đề cập tới vấn đề này từ các góc độ khác nhau song
chưa thành một mạch hệ thống.
*Về khái niệm nhập thế và tinh thần nhập thế của Phật giáo cũng đã
có nhiều bài viết nghiên cứu, tiêu biểu là Đỗ Quang Hưng với “Phật giáo
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa” (tạp chí Khoa học xã hội
số 9/2006, tr. 58-66). Trong bài viết này, tác giả đã rất đề cao vai trò của Phật
giáo trong xã hội hiện đại và những thay đổi của Phật giáo nói chung

3



cho phù hợp với thời đại mới, từ đó chỉ ra nhiệm vụ của Phật giáo trong giai
đoạn hiện nay. Tác giả cũng nhấn mạnh, Phật giáo hiện nay là Phật giáo nhập
thế. Khái niệm “nhập thế” được tác giả phân tích, chứng minh là không đồng
nhất với khái niệm “thế tục hóa” của Phương Tây. Xu hướng nhập thế của
Phật giáo được tác giả khảo cứu qua Phật giáo ở Nhật Bản, Trung Quốc và
Phật giáo Việt Nam. Tác giả Đới Thần Kinh (Trần Nghĩa Phương dịch) với
“Thế tục hóa và thần thánh hóa” (tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 4/2007, tr.
11-17) đã xuất phát từ phân tích khái niệm thế tục hóa của tôn giáo nói chung
khi các tôn giáo đều có xu hướng chuyển từ lấy thần thánh làm trung tâm
sang lấy con người và xã hội loài người làm trung tâm, từ đó đi đến khẳng
định xu hướng của Phật giáo ở Châu Á là Phật giáo nhập thế. Tác giả dường
như đã đồng nhất khái niệm “nhập thế” với khái niệm “thế tục hóa” và kết
luận “dưới sự chỉ đạo của tinh thần nhập thế, các tôn giáo tích cực tham gia
bảo vệ hòa bình thế giới, thúc đẩy các công cuộc phát triển xã hội, phục vụ
xã hội”.
Tác giả Nguyễn Thị Minh Ngọc với “Phật giáo dân gian: con đường
nhập thế của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 8/2008, tr.
25-32) đã phân tích rất cụ thể khái niệm nhập thế dưới góc độ chức năng,
nhiệm vụ của tăng ni, phật tử và đi đến kết luận, Phật giáo nhập thế là Phật
giáo từ bi và đắc dụng. Sau đó tác giả phân tích, làm rõ tinh thần nhập thế
của Phật giáo dân gian Việt Nam. Tác giả Trần Hồng Liên với “Chức năng
của Phật giáo đối với vấn đề Kinh tế” (tạp chí Khoa học xã hội số
9+10/2007, tr. 81-89) và “Chức năng của Phật giáo đối với vấn đề xã hội”
(tạp chí Khoa học xã hội số 5/2008, tr. 55-65) đã phân tích và làm rõ vai trò,
chức năng của Phật giáo ngày càng gia tăng trong các vấn đề kinh tế, xã hội.
Tác giả đi đến khẳng định Phật giáo trong xã hội hiện đại là Phật giáo nhập
thế, thể hiện ở hai khía cạnh quan trọng là Phật giáo từ bi và trí tuệ.
4



Tác giả Đặng Thị Lan với “Tìm hiểu về tinh thần nhập thế của Phật
giáo Việt Nam” (tạp chí Khoa học xã hội nhân văn số 1/2003) đã chỉ ra tinh
thần nhập thế của Phật giáo thể hiện rất rõ ràng ở hai khía cạnh: “dùng đạo
để hướng dẫn đời và dùng đời để thực hành đạo”. Tác giả nhấn mạnh “tại thế
gian giác” - việc giác ngộ thế gian, hiểu rõ thế gian của người tu sĩ Phật giáo.
Tác giả Nguyễn Tuấn Anh với bài viết “Vài nét về vấn đề “nhập thế” của
Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê” trong Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê trong
công cuộc dựng nước và giữ nước (Nxb Khoa học xã hội, 2010, tr. 31-39) đã
định nghĩa nhập thế với hai ý: đem đạo vào đời và đem đời vào đạo, cách
hiểu này đã phản ánh được phần nào khái niệm nhập thế, song hiểu như vậy
có phần hơi đơn giản và thô mộc quá.
Như vậy, khi nghiên cứu khái niệm “nhập thế”, một số học giả đã đặt
trong tương quan với khái niệm “thế tục hóa”, một phần do có sự tương đồng
của hai khái niệm này. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ
tiếp thu kết quả nghiên cứu khái niệm “nhập thế”, nên khái niệm “thế tục
hóa” chỉ được nhắc tới khi có nội dụng liên quan trong xu hướng chung của
sự phát triển các tôn giáo hiện đại.
Vấn đề nhập thế của Phật giáo không còn phải là một vấn đề mới mẻ,
mà đã được các học giả bàn nhiều và bóc tách dưới nhiều khía cạnh khác
nhau của nhập thế. Song, nhìn chung, các bài nghiên cứu về vấn đề này còn
nói rất chung chung và chủ yếu nhấn mạnh vai trò, tính đắc dụng của Phật
giáo trong xã hội hiện đại mà chưa chỉ ra cụ thể Phật giáo nhập thế là như thế
nào và cũng chưa thấy được tinh thần nhập thế của Phật giáo là vốn có ngay
từ trong Phật giáo nguyên thủy khi Đức Phật sáng lập tôn giáo này. Tiếp thu
thành tựu của các học giả nghiên cứu đi trước, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu
và sáng tỏ vấn đề, nhưng không chỉ dừng lại ở làm rõ khái niệm mà luận văn
còn chỉ ra logic phát triển của vấn đề - đó là mạch nguồn xuyên suốt trong
tiến trình phát triển của lịch sử Phật giáo.


5


*Vấn đề nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông là một điển hình nhập thế của Phật giáo Việt Nam nói
chung và Phật giáo đời Trần nói riêng, ông đã kế thừa dòng chảy này từ các
vị tiền bối và ứng dụng linh hoạt tư tưởng thiền Phật giáo làm rạng rỡ triều
đại mình trên tất cả mọi lĩnh vực. Nghiên cứu về Trần Nhân Tông và tư
tưởng Thiền học của ông đã có rất nhiều công trình, riêng về “tinh thần nhập
thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông” có nhiều công trình hoặc
trực tiếp hoặc có liên quan đã đề cập tới như sau:
Tác giả Lê Mạnh Thát với “toàn tập Trần Nhân Tông” (Nxb TP Hồ
Chí Minh, 2000), qua khái quát tổng hợp toàn bộ tư tưởng và hành động của
Trần Nhân Tông trong công cuộc dựng nước và giữ nước, đã đặc biệt nhấn
mạnh tài ứng dụng đạo Phật vào trị quốc, an dân. Qua đó tác giả đã làm nổi
bật được tinh thần nhập thế thiết thực ở Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Nguyễn Tài Thư với “Xu hướng nhập thế trong tư tưởng Phật giáo
Trần Nhân Tông” (tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 11/2009, tr. 13-20) đã
phân tích từ tư tưởng xuất thế vốn có của Phật giáo đến tư tưởng nhập thế
của Phật giáo Trần Nhân Tông, cụ thể qua các tác phẩm thiền học của ông.
Tác giả kết luận, ở Trần Nhân Tông yếu tố nhập thế thể hiện rõ ở sự thống
nhất hai mặt trong con người ông: con người triều thần và con người Phật tử,
vì vậy tôn sùng Phật giáo và nhập thế hoạt động luôn là một trong con người
Trần Nhân Tông.
Tác giả Nguyễn Tài Đông trong “Việt Nam hóa Phật giáo ở Trần Nhân
Tông” (Tạp chí Triết học số 12/2008, tr. 38-46) đã làm rõ tư tưởng “tức tâm
tức Phật” của Trần Nhân tông, từ đó phân tích tinh thần nhập thế trong tư
tưởng Thiền Phật giáo của ông. Tác giả nhấn mạnh vai trò nhập thế ở Trần
Nhân Tông trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông và tinh thần cởi
mở của ông trong kết hợp tam giáo (Nho-Phật-Lão), trong đó lấy Phật giáo

6


làm cốt tủy trong chính sách trị quốc. Tác giả cũng đặc biệt nhấn mạnh vai
trò nhập thế thiết thực của Trần Nhân Tông sau khi xuất gia như giáo dục đạo
đức và thực hành đạo đức Phật giáo trong dân gian. Ông khẳng định, thiền
học ở Trần Nhân Tông không thoát ly cuộc sống mà lúc nào cũng thấm đẫm
hơi thở cuộc sống, vì hạnh phúc nhân sinh.
Tác giả Nguyễn Hùng Hậu với “Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt
Nam thời Lý - Trần” trong Phật giáo và văn hóa dân tộc (Phân viện Nghiên
cứu tôn giáo Hà Nội, 1990, tr. 39-45). Tinh thần nhập thế ở Trần Nhân Tông
đã được nhìn nhận trong xu hướng chung của tinh thần nhập thế thời kỳ Lý Trần. Ở đây tác giả cho chúng ta thấy rõ, nhập thế là sự lựa chọn tích cực của
Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Lý - Trần nói riêng, trong đó
Trần Nhân Tông chỉ là một điển hình nổi trội.
Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác về Phật giáo Việt
Nam nói chung và tư tưởng Thiền Phật giáo của Trần Nhân Tông, như:
Thích Mật Thể với “Việt Nam Phật giáo sử lược” (Nxb Vạn Hạnh Sài Gòn
1967); Nguyễn Duy Hinh với “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” (Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1999) và “Triết học Phật giáo Việt Nam” (Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội, 2006); Nguyễn Hùng Hậu với “tìm hiểu tư tưởng triết
học thiền của Trần Nhân Tông” (Tạp chí Triết học số 3/1995), “Lược khảo
tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, 1997), và “Đại
cương triết học Phật giáo Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002),
Nguyễn Lang với “Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn học, Hà Nội,
2008); Đặng Ánh Tuyết với “Góp phần tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo
đời Trần” (Luận văn thạc sĩ Triết học, khoa Triết, ĐHKHXH và NV, ĐHQG
Hà Nội), Đỗ Trung Lai “Trần Nhân Tông, nhân vật kiệt xuất nhất trong sơ
đồ Phật giáo Việt Nam” (tạp chí Nghiên cứu Phật học số 1/2008)… và rất
nhiều công trình nghiên cứu, bài viết khác.
7



Như vậy, mặc dù vấn đề nhập thế và tinh thần nhập thế trong tư tưởng
Phật giáo của Trần Nhân Tông đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề
cập đến trực tiếp hoặc gián tiếp, song cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nghiên cứu thực sự sâu sắc. Luận văn kế thừa và tiếp thu kết quả của
các học giả trước đó, đi nghiên cứu, phân tích làm rõ khái niệm “nhập thế”
và vấn đề nhập thế trong tư tưởng Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Việt Nam.
Điển hình là “tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân
Tông”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của luận văn là tìm hiểu logic phát triển của tinh thần nhập thế
trong lịch sử Phật giáo từ Ấn Độ, rồi trong lịch sử Việt Nam tới thời Lý Trần;
từ đó làm rõ tư tưởng nhập thế điển hình của Phật giáo Trần Nhân Tông.
Để hoàn thành mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
-

Phân tích quan niệm và tinh thần nhập thế của Phật giáo Ấn Độ

-

Phân tích tư tưởng nhập thế của Phật giáo Trần Nhân Tông

-

Góp phần làm rõ logic phát triển của tinh thần nhập thế của Phật giáo

4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tinh thần nhập thế trong Phật giáo Ấn
Độ, giới hạn ở tư tưởng Đức Phật và vua Asoka. Trong lịch sử Phật giáo Việt

Nam thì tập trung nghiên cứu tinh thần nhập thế của Phật giáo Trần Nhân
Tông.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là những nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề tôn giáo và các tài liệu sử học về Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Việt

8


Nam cũng như các đề tài đi trước có liên quan tới vấn đề nhập thế nói chung
và nhập thế của Phật giáo nói riêng.
-

Luận văn tiếp thu các phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng

hợp kết hợp với phương pháp lôgíc - lịch sử, sử học, chính trị-xã hội, văn
hóa, tôn giáo học, triết học để nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần đưa ra cái nhìn hệ thống về tinh thần nhập thế của
Phật giáo nói chung và Phật giáo Trần Nhân Tông nói riêng, phát hiện ra
logic phát triển của vấn đề.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và
giảng dạy lịch sử triết học, tôn giáo học, văn hóa học. Luận văn có thể làm
cơ sở cho sự hoàn thiện hơn chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước ta
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.

9



Chương 1:
TINH THẦN NHẬP THẾ CỦA PHẬT GIÁO
1.1. Nhập thế - một xu hướng chung của tôn giáo
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập hiện nay, nhiều vấn đề về kinh tế,
văn hoá, tôn giáo, dân tộc… đang được đặt ra, trong đó tôn giáo đang là một
trong những vấn đề nhạy cảm. Trong diễn trình phát triển, không có tôn giáo
nào cố định, bất biến trong giới hạn địa lý, văn hoá, dân tộc… ban đầu của
nó, đồng thời trong quá trình truyền bá, các tôn giáo luôn tạo ra các ranh giới
(chuẩn mực tôn giáo) mới, và do vậy còn vượt các ranh giới mà chính nó
hoặc tôn giáo khác xác lập. Đó không chỉ là quan hệ giữa các tôn giáo mà
còn là quan hệ giữa tôn giáo với xã hội thế tục, và hai vấn đề nổi lên trong xu
hướng mở rộng giới hạn qua quan hệ đa chiều, đa phương của các tôn giáo
hiện nay chính là vấn đề nhập thế và thế tục hóa.
Khái niệm “thế tục hoá” có nguồn gốc từ tiếng La tinh “seaculum” (the
transfer of power to the secular). Khởi đầu từ này được dùng trong bối cảnh
văn hoá Kitô giáo, để chỉ việc chuyển giao một số quyền lực chính trị, tôn
giáo và lãnh địa vốn thuộc Giáo hội thần thánh cho xã hội thế tục; như việc
tách nhà trường, tòa án ra khỏi nhà thờ... Dần dần, khái niệm thế tục hóa
được dùng để mô tả sự tự chủ hóa của các hoạt động, các hình thức tư tưởng
so với nền văn hóa truyền thống mà các giá trị Kitô giáo làm cơ sở. Đó cũng
chính là “quá trình công năng của một bộ phận tôn giáo bị công năng xã hội
có tính chất phi tôn giáo thay thế” [37, tr. 11].
Theo Tác giả Đỗ Quang Hưng, “quá trình thế tục hóa liên quan đến sự
giải phóng hữu hiệu mối quan hệ giữa con người với thế giới mà không bị
các truyền thống tôn giáo kiềm chế. Kéo theo đó là việc thiết lập mối quan
hệ về luật pháp trong đó nhà nước hoàn toàn trung lập về mặt tôn giáo đồng
10



thời dẫn đến sự hình thành một xã hội dân sự mà ở đó công dân được hưởng
các quyền về luật pháp cá nhân cũng như được giải phóng một cách tương
đối trong việc thực hành đời sống tôn giáo so với các học thuyết, giáo luật
của tôn giáo đã được giáo hội chế định” [33, tr. 62]. Có thể nói cách khác,
đây là quá trình giải thiêng, giải thần thánh hóa của các tổ chức, thể chế xã
hội và chúng tách dần và độc lập khỏi tôn giáo.
Khái niệm “nhập thế” (penetration into life) không hẳn đồng nhất với
khái niệm “thế tục hóa” [32, tr. 65]. Khái niệm nhập thế được dùng với nghĩa
chỉ sự tham gia ngày càng chủ động, tích cực thâm nhập vào cuộc sống thế
tục của các tôn giáo, nhất là trong bối cảnh xã hội hiện nay khi nhu cầu về
tôn giáo ngày càng đa dạng hóa. Các tôn giáo không chỉ đơn thuần đảm trách
nhiệm về phần tâm linh, mà đã thực sự đóng vai trò tinh thần, văn hóa quan
trọng của xã hội trong nhiều phương diện của đời sống. Nói cách khác, nhập
thế là sự mở rộng phạm vi tham gia hoạt động của tôn giáo ra ngoài phạm vi
tôn giáo, ví dụ như: chính trị, kinh tế, ngoại giao, nghệ thuật, giáo dục…
Như vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu và hiện đại hoá hiện
nay, tôn giáo đang ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội.
Nhập thế và thế tục hóa là những khuynh hướng thể hiện một cách sinh động
quan hệ giữa tôn giáo với các thể chế xã hội ngoài tôn giáo (nhà nước, luật
pháp, kinh tế, giáo dục, nghệ thuật…). Nó trở thành xu hướng phát triển
chung của các tôn giáo ở hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt
Nam.
Hai thuật ngữ này đều phản ánh quan hệ tôn giáo với xã hội ngoài tôn
giáo, song chúng khác nhau về ngữ, nghĩa: trong khi “thế tục hóa” là chuyển
giao các quyền chính trị, giáo dục cho các tổ chức ngoài tôn giáo (các lực
lượng thế tục) chẳng hạn như tách dần nhà nước khỏi tôn giáo, Giáo hội trao
lại quyền lực chính trị cho Nhà nước, tức là Nhà nước thế tục hóa quyền lực
11



điều hành chính trị mà trước đó quyền lực cao nhất này thuộc về Giáo hội
(như ở Bà La Môn giáo (Ấn Độ) và Thiên chúa giáo (châu Âu thời Cổ đại và
Trung cổ). Hay tương tự như việc tách toà án và nhà trường ra khỏi nhà thờ


châu Âu thời Khai sáng… Thuật ngữ “nhập thế” lại chỉ sự chủ động tham

gia của các lực lượng tôn giáo vào các vấn đề thế tục như chính trị, kinh tế,
văn hoá, thậm chí cả quân sự… Đặc biệt Phật giáo là một tôn giáo xuất thế,
trong quá trình du nhập, truyền giáo và hòa nhập với các nền văn hoá, văn
minh bản địa, nó đã phải không ngừng nhập thế. Tuy nhiên khi nhập thế, các
tôn giáo cũng có khi tiếm quyền của các tổ chức xã hội, song riêng Phật giáo
Việt Nam trong lịch sử đã không tiếm quyền của lực lượng thế tục mà chỉ
góp phần làm cho đời sống thế tục nhân hậu hơn, tình người hơn. Đây là
điểm độc đáo của Phật giáo mà luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu vào
trường hợp tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tông như một điển hình đẹp của
Phật giáo Việt Nam.
Trong xu hướng hội nhập, nhất là khi đời sống tôn giáo thế giới đang
đứng trước xu thế đa nguyên tôn giáo như hiện nay, “nhập thế” và “thế tục
hoá” lại có phần bổ trợ và cộng hưởng nhau. Quá trình thế tục hóa có thể góp
phần làm cho các tôn giáo chủ động nhập thế hơn, và ngược lại, nhập thế
cũng làm cho quá trình thế tục hóa diễn ra mau chóng hơn. Cùng với sự biến
động của lịch sử, các tôn giáo liên tục thay đổi và hội nhập cùng đời sống,
chính vì vậy, hai vấn đề nhập thế và thế tục hóa nhiều khi còn được hiểu theo
nghĩa tương đồng, thậm chí có học giả coi chúng như là đồng nghĩa [37, tr.
17].
Như vậy, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của thời đại mới, các tôn giáo đã
không ngừng thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp với sự biến đổi của xã hội. Ở
Việt Nam, các tôn giáo cũng đều chủ trương hòa hợp, tích cực hội nhập vào

cuộc sống, tạo phúc cho xã hội, thể hiện tinh thần nhập thế tích cực. Chẳng
12


hạn như ở Việt Nam phương châm hoạt động của Phật giáo là “Đạo pháp Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”; của Công giáo là “Sống phúc âm giữa lòng
dân tộc, để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Tại Trung Quốc các tôn giáo
cũng có khuynh hướng tương tự Việt Nam, Phật giáo đã đề xướng tư tưởng
“trang nghiêm quốc thổ, lợi lạc hữu tình”, “hiện thực nhân gian tịnh thổ”;
Islam giáo thì nhấn mạnh: “yêu nước là một bộ phận của đức tin”; Công giáo
chủ trương: “yêu nước yêu đạo đều là giới răn của Thiên Chúa”… [37, tr.
17]. Tại Nhật Bản, trong khung cảnh toàn cầu hóa,“các tôn giáo đều đổi mới
không ngừng của tính hiện đại và góp phần to lớn tạo ra môi trường cho mỗi
con người có thể hòa hợp với những thay đổi liên tục của xã hội” [32, tr.
63]... Như vây, nhìn chung các tôn giáo ở hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều đang phát triển mạnh mẽ theo xu hướng nhập thế, chủ động thâm nhập
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình hội
nhập, đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người và góp phần làm cho xã hội
ngày càng tiến bộ, nhân văn hơn…
Phật giáo là một trong những tôn giáo lâu đời nhất ở khu vực Châu Á.
Ngày nay, Phật giáo đã từ Châu Á truyền bá sang hầu hết các châu lục. Sở dĩ
Phật giáo có sức sống và sự lan toả lớn như vậy, một phần chính là nhờ tinh
thần nhập thế tích cực của nó. Tuy vốn là một tôn giáo xuất thế, song từ nền
móng triết học đã có tính vô thần và giản thần quyền cùng tinh thần bình
đẳng tôn giáo sâu sắc, Phật giáo đã chứa đựng sẵn trong hệ thống giáo lý tinh
thần nhập thế.
Tư tưởng nhập thế của Phật giáo là một nội dung được bàn nhiều trong
các nghiên cứu về Phật giáo trong xã hội hiện đại. Các diễn đàn về tư tưởng
nhập thế của Phật giáo đã được tổ chức tại nhiều nước trên thế giới cũng như



Việt Nam. Tại hội thảo “Phật giáo nhập thế trong thế kỷ XXI” được tổ

chức tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 18 - 20 tháng 12 năm 2006, khái
13


niệm Phật giáo nhập thế được nhìn nhận từ góc độ chức năng, nhiệm vụ của
tăng sĩ. Theo đó, tăng, ni có hai nhiệm vụ cơ bản là học tập giáo pháp (thông
Tam tạng kinh điển) và thiền định. Hội thảo cũng đã đưa ra các dạng thức
của Phật giáo nhập thế: nhập thế xuất phát từ pháp môn thiền định về lòng từ
ái, phát khởi tâm từ bi, đi vào cuộc đời để giúp cuộc đời; đem giáo pháp của
đức Phật đi vào cuộc đời. Phật giáo nhập thế còn quan tâm đến vấn đề chính
trị, văn hóa, đạo đức lối sống…
Như vậy, Phật giáo định nghĩa nhập thế là Phật giáo từ bi, Phật giáo đáp
ứng, đối mặt với đau khổ của con người và giải thoát con người khỏi mọi
khổ đau. Điều đó thể hiện ngay trong quan niệm “Tứ vô lượng tâm” (gồm
Từ, Bi, Hỉ, Xả) của Phật giáo. Từ là tâm yêu thương luôn đem lại niềm vui
cho tất cả chúng sinh. Bi là tâm thương xót, san xẻ bớt niềm đau của muôn
loài. Hỉ là tâm vui mừng khi thấy người khác hết đau khổ. Xả là tâm không
còn chấp cả những hành vi tốt đẹp đã làm vì tha nhân.
Phật giáo nhập thế, ngoài nghĩa từ bi hỉ xả, còn có nghĩa là Phật giáo áp
dụng. Tức là áp dụng những gì đã có trong giáo lý, trong thực hành thiền
định, trong trí tuệ đã đạt giác ngộ của thiền định… vào điều kiện cụ thể của
cuộc sống hiện tại. Như vậy, hai nội dung hành động cơ bản của tinh thần
nhập thế của Phật giáo chính là: - đem tư tưởng từ bi của nhà Phật vào giúp
đời và, - bằng trí tuệ bát nhã áp dụng các tư tưởng đắc dụng của Phật giáo
vào giải quyết các vấn đề xã hội.
Phật giáo thường được coi là một tôn giáo xuất thế, lánh đời, song xem
xét kĩ thì ngay trong nền tảng triết học của toàn giáo lý thì nhập thế đã là một
yếu tố có sẵn trong giáo lý nguyên thuỷ. Đó là triết lý Vô ngã trên cơ sở học

thuyết Duyên khởi, Vô thường được luận chứng trên tinh thần bình đẳng tôn
giáo về bản chất “khổ” của cuộc đời, bác bỏ vị trí thần thánh tối thượng của
đẳng cấp Bà La Môn trong Bà La Môn giáo ở Ấn Độ lúc đó. Và tinh thần
14


nhập thế đó của Phật giáo đang tiếp tục được phát huy trong xã hội hiện đại
cùng với xu hướng chung của các tôn giáo trên thế giới hiện nay. Phật giáo
đã thực sự đổi mới và thích ứng với xã hội trong thời đại mở cửa toàn cầu
hóa. Với đặc trưng tư duy hướng nội, quay về chiều sâu nội tâm của con
người, Phật giáo vẫn đang và sẽ tiếp tục là nhu cầu không thể thiếu trong
cuộc sống của nhân loại, chúng sinh. Như J. Carrière đã nhận xét Phật giáo
“là món quà quý báu nhất của châu Á tặng cho thế giới” [Dẫn theo 32 tr. 62],
hay Albert Einstein cho rằng: “Phật giáo không cần bỏ quan điểm của mình
để theo khoa học, vì Phật giáo không những đã bao gồm cả khoa học mà còn
vượt lên trên khoa học” [Dẫn theo 32, tr. 62]. Điều đó cho thấy tầm quan
trọng và vai trò, khả năng nhập thế của Phật giáo trong xã hội hiện đại ngày
nay.
Tại Việt Nam, Phật giáo du nhập và thấm vào tâm hồn người Việt một
cách tự nhiên và trở thành một tôn giáo dân tộc, một yếu tố quan trọng của
bản sắc văn hóa dân tộc. Nhập thế của Phật giáo Việt Nam, bên cạnh xu
hướng chung, thì điểm khác biệt là luôn trong sự kết hợp tam giáo (NhoPhật-Lão). Phật giáo luôn dựa vào Nho và Lão để thể hiện thế mạnh về đạo
đức và lý tưởng từ bi bác ái trong các hoạt động nhập thế. Đặc biệt mối quan
hệ Phật giáo - Nhà nước trong các triều đại Phong kiến Việt Nam (Đinh, Tiền
Lê, Lý, Trần) luôn cho thấy các mức độ nhập thế của Phật giáo Việt Nam vào
các vấn đề chính trị (ngoại giao, quân sự), giáo dục, kinh tế… rất mềm dẻo
và năng động. Đó còn là quan hệ về vai trò, chức năng của mỗi giáo trong
Tam giáo được nhà nước phong kiến Việt Nam vận dụng, thông qua từng cá
nhân nhà vua hay nhà sư làm cố vấn cho triều đình (Phật giáo chủ về đạo
đức; Nho giáo chủ về trị quốc; Đạo giáo chủ về tâm linh). Thời Lý, Trần Phật

giáo luôn được chú trọng hơn và giữ vai trò cốt tủy trong mọi chính sách nhà
nước và xã hội. Lúc đó đạo Phật đã khẳng định được vị thế
15


quốc giáo trong mọi lĩnh vực từ đạo đức, chính trị, ngoại giao đến văn hóa,
giáo dục, nghệ thuật …
Như vây, nhập thế là xu hướng đã có của Phật giáo nói chung mà điển
hình ở Phật giáo Việt Nam là thời Trần, và cá nhân điển hình là Trần Nhân
Tông. Ông là một vị vua Phật đã ứng dụng linh hoạt lời Phật dạy trong các
hoạt động chính trị, ngoại giao, đạo đức, văn hóa, giáo dục… tạo ra một
vương triều thịnh trị trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam.
Trong quá trình hiện đại hóa, Phật giáo Việt Nam không ngừng phát huy
các giá trị nhập thế, đặc biệt “xu hướng nhập thế của Phật giáo Việt Nam từ
giữa thế kỷ XX là hướng tới một đạo Phật dấn thân vì xã hội” [32, tr. 65].
Đạo Phật ở Việt Nam cũng như trên thế giới hôm nay vẫn đang tiếp tục xu
hướng chung của các tôn giáo nhằm khẳng định vị trí của mình trong thời đại
mới, và tích cực nhập thế trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mang lại
một xã hội đạo đức, nhân văn, tiến bộ và tình người hơn.
1.2 Tinh thần nhập thế trong tư tưởng phật giáo Ấn Độ
1.2.1 Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Đức Phật
Phật giáo là tinh hoa của văn hóa Ấn Độ cổ, ra đời trên cơ sở kế thừa và
phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa Ấn Độ lúc bấy giờ, đặc biệt
là những tư tưởng triết học và đạo đức nhân văn trong Vêda và Upanisad.
Cùng thời với Phật giáo còn có 8 trường phái triết học khác (Samkhya,
Nyaya, Vaisesika, Yoga, Mimamsa, Vedanta, Lokayata, Jaina). Phật giáo với
những triết thuyết sâu sắc, với tư tưởng từ bi, bác ái, đặc biệt là bình đẳng
tôn giáo đã mang một hơi thở mới, sức sống mới tới xã hội Ấn Độ cổ đại.
Đức Phật đản sinh vào thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, thành đạo năm

35 tuổi, 45 năm thuyết pháp độ đời và nhập Niết bàn năm 80 tuổi. Ngay từ
khởi đầu, Phật giáo đã là một cuộc cách mạng chống lại tôn giáo thần quyền
16


của Bà La Môn giáo. Phật giáo đã mang nội dung tinh thần bình đẳng - phi
thần quyền tiến bộ khi công nhận quyền bình đẳng tôn giáo giữa con người,
không phân biệt đẳng cấp. Đó chính là nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo trong xã
hội Ấn Độ cổ, phản kháng lại chế độ đẳng cấp tôn giáo nghiệt ngã của Bà La
Môn giáo, trong đó đẳng cấp Thủ đà la (Ksudra) và phụ nữ là đẳng cấp và
giới bị khinh rẻ, bị coi gần như súc vật. Chính ở đây, tư tưởng của Đức Phật
đã mang tinh thần nhập thế sâu sắc, giải phóng con người khỏi bất công tôn
giáo.
Để đáp lại lòng mong mỏi của mọi chúng sinh, Đức Phật đã sáng lập
một tôn giáo tha thiết với mục đích cứu đời khỏi khổ đau kiếp người. Giáo lý
Phật giáo không nương vào xuất thân cao thấp để định giá con người, mà
nương vào phẩm hạnh đạo đức. Người chỉ căn cứ vào phần trí tuệ có nông sâu, đức hạnh có hậu - bạc để định giá thứ vị con người. Đức Phật không
phân biệt kẻ nghèo, giàu, sang, hèn nên trong mỗi kỳ Người thuyết pháp,
trên có các bậc Quốc vương, các nhà hào phú, dưới đến các cùng dân nghèo
khổ cũng đều được thấm nhuần tư tưởng giáo lý của Người. Do đó nên mọi
người trong xã hội đương thời, bất luận thuộc giai cấp nào cũng đều ngưỡng
mộ đức độ Từ Bi Hỷ Xả của Người.
Trong khi xã hội Ấn Độ đang bị chi phối nặng nề bởi tư tưởng phân chia
giai cấp, đẳng cấp tôn giáo khắc nghiệt của Bà La Môn giáo, thì Đức Phật lại
chủ trương tinh thần bình đẳng với mọi chúng sinh. Với lòng từ bi trí tuệ,
Đức Phật đã vượt qua hàng rào định kiến bất bình đẳng về đẳng cấp tôn giáo.
Với Người, đã là con người thì từ khi sinh ra cho đến khi già, bệnh tật rồi
chết đi đều khổ. Người cho rằng, về bản chất tự nhiên con người vốn bình
đẳng về “khổ” và khả năng tu hành để thoát khổ. Chuẩn mực “thiện” và “ác”
không phải của riêng ai, của riêng đẳng cấp nào. Tính “thiện”, “ác” vốn tồn

tại tự nó trong mỗi người. Và vì vậy, ở phương diện tôn giáo và giải thoát
17


khỏi nỗi khổ thì con người không có sự phân chia đẳng cấp, không có sự
phân biệt về tuổi tác, giới tính, và sắc tộc. Tất cả đều được bình đẳng như
nhau. Đây là tư tưởng đặc biệt tiến bộ và nhân văn của Đức Phật. Tư tưởng
này đã khuyến khích, động viên nhiều tầng lớp người Ấn Độ lúc đó không
ngừng tu tập thiện tâm để tiến đến giải thoát.
Đức Phật đã chỉ ra chân tướng của Ngã, đó chẳng qua chỉ là quá trình
sinh diệt biến hoá liên tục, không có thực thể bất biến. Như vậy nếu tưởng
Ngã là thực thể bất biến thì chỉ là sự mê vọng. Cho nên gọi là chư hành vô
ngã. Chúng sinh vì không biết (vô minh) mà cho rằng thế giới là thường trụ,
và có ngã đích thực, do vậy chấp trước thành Ngã tưởng, rồi sinh ra mọi
hoặc (mê lầm, sai trái), tạo ra mọi nghiệp, tự mình chuốc lấy khổ nghiệp. Đó
gọi là nhất thiết giai khổ. Nếu biết được “chư hành vô thường, chư pháp vô
ngã, nhất thiết giai khổ”, tức là đoạn diệt được mọi “hoặc”, “nghiệp”, “khổ”,
là đạt tới chỗ niết bàn tịch tĩnh.
Phật giáo không như phần đông các tôn giáo khác, bắt tín đồ phải tin
tưởng một cách mù quáng, mà đức tin sẽ được khẳng định khi đã tự mình
nhận thức thấu đáo giáo lý. Cho nên, trong các lời kinh, bao giờ Đức Phật
cũng nhấn mạnh nơi chữ “kiến” (thấy) hơn chữ “tín” (tin). Phật dạy: “Này
Anan! Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa chính
mình, chớ y tựa người khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh
pháp làm chỗ tựa” [9, tr. 276]. Lời dạy này, cho chúng ta ý nghĩa rất rõ ràng
về tinh thần bình đẳng và tự do có từ đạo Phật nguyên thuỷ, không những chỉ
đề cao bổn phận và trách nhiệm của từng cá nhân mà còn nói lên tinh thần tự
do tư tưởng, tôn trọng quyền tự do chọn lựa của mỗi người, vấn đề giác ngộ
và giải thoát thuộc về tự giác của mỗi cá nhân.
Phật giáo coi trọng việc chuyển “mê” thành “ngộ”. Để tự mình đoạn trừ

những phiền não trong tâm của mình, không phải ngồi chờ đợi, hoặc cầu xin
18


để được giảm tội lỗi cho mình, hay được ban cho phước lành, hạnh phúc.
Nguồn cội của nỗi khổ là từ vô minh mà sinh ra. Vô minh ở ngay trong mỗi
chúng ta, không phải là một vật có thể xin và cho, vậy mỗi người phải tự tu
tập, khai mở trí tuệ, tự đoạn trừ vô minh và đau khổ. Muốn “chuyển mê khai
ngộ”, “hiểu” không thôi chưa đủ, mà phải “hành”. Nghĩa là phải sống cái
điều mình đã hiểu và ngộ được. Phật học không phải là cái đạo để học mà
phải là cái đạo để sống. Có sống trong cái tâm bình đẳng, xa lìa cái tâm sai
biệt thì mới thực hiện được cảnh Niết bàn ở ngay trong cuộc đời trần thế.
Với tư tưởng này, tinh thần nhập thế của Đức Phật đã được thể hiện rất rõ
ràng.
Đức Phật khẳng định, mọi chúng sinh đều bình đẳng như nhau về nỗi
khổ và khả năng thoát khổ. Tôn giáo và giải thoát không chỉ dành riêng cho
đẳng cấp Bà La Môn bởi xuất thân có tính thần thánh. Con đường giải thoát
đó là bình đẳng cho tất cả mọi người, mỗi người phải tự đi, tự đến, tự tu hành
để giác ngộ được vô ngã, tức là thoát được vô minh về chính tồn tại vô
thường của bản thân mình. Phật giáo hướng tới vấn đề vô ngã, một triết lý
sống uyên thâm, vi diệu, vừa giúp con người tự chủ, thoát ly sự chi phối của
thân người và thế giới, vừa vượt qua được các khổ đau, sầu muộn do hiểu về
tính vô thường của tự ngã và thế giới gây ra, vừa là con đường đưa đến tâm
giải thoát và tuệ minh triết.
Bằng triết lý mới, Đức Phật đã tấn công vào truyền thống phân biệt
đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Người không kỳ thị, phủ nhận hay
bài xích truyền thống của Bà la Môn giáo. Ngược lại, Người đã thiết lập một
đường hướng mới ngay trên nền tảng kế thừa từ những giá trị tốt đẹp của đạo
Bà La Môn, đề cao con đường và cách thức tu dưỡng đạo đức của Bà La
Môn giáo cũng như nhiều phẩm hạnh cơ bản của một người Bà La Môn.

Theo cách đó Đức Phật đã đưa nội hàm mới vào trong khái niệm Bà La Môn
19


truyền thống, tức là ai chiến thắng được sự ràng buộc của Ngã và vượt qua
được vô minh bằng trí tuệ, đạo đức và thiền định đều được coi là Bà La Môn,
chứ không phải chỉ do xuất thân.
“Người không còn tham ái,
Có trí không nghi hoặc,
Thể nhập vào bất tử,
Ta gọi Bà La Môn”.
“Như nước trên lá sen,
Như hột cải đầu kim,
Người không nhiễm ái dục,
Ta gọi Bà La Môn”.
“Thân thiện giữa thù địch,
Ôn hoà giữa hung hăng,
Không nhiễm, giữa nhiễm trước,
Ta gọi Bà la Môn”.
“Ai quá, hiện, vị lai,
Không một sở hữu gì,
Không sở hữu, không nắm,
Ta gọi Bà La Môn”.
“Bỏ trói buộc loài người,
Vượt trói buộc cõi trời,
Giải thoát mọi buộc ràng,
Ta gọi Bà La Môn” [9, tr. 282-283]

20



Khái niệm Bà La Môn trong giáo lý Phật giáo đã mang nội dung mới.
Địa vị cao quý của Bà La Môn không còn do xuất thân, dòng tộc quy định,
mà do những phẩm hạnh cao quý đạt được nhờ tu dưỡng và thực hành. Sự
mở rộng nội hàm khái niệm Bà La Môn này thực sự là một cuộc cách mạng
tư tưởng, mở rộng con đường tôn giáo cho cả những tầng lớp trước đó không
được quyền hưởng dịch vụ tôn giáo, như đẳng cấp Sudra và phụ nữ, đều có
thể có niềm tin tôn giáo và hy vọng tu dưỡng để vươn tới giải thoát. Đức
Phật phản đối sự độc quyền tôn giáo của đẳng cấp Bà La Môn, nhất là sự
truyền thừa đẳng cấp tôn giáo theo dòng tộc. Nội hàm mới của khái niệm Bà
La Môn đã đáp ứng kịp thời nhu cầu tâm linh, văn hoá của xã hội Ấn Độ lúc
đó.
Đức Phật đã sáng lập ra một tôn giáo mới đủ cả lý và trí, đề cao trí tuệ
và trách nhiệm của cá nhân trên con đường tu tập chứ không câu nệ vào xuất
thân, dòng dõi của cá nhân đó. Sự đổi mới về tôn giáo ấy rất thích hợp với số
đông người Ấn Độ thời đó. Sự đổi mới này buộc Bà La Môn giáo phải cách
tân những quy tắc tôn giáo khắc nghiệt và giảm bớt tính thần quyền của đẳng
cấp Bà La Môn. Đến thế kỷ V - VI, Bà La Môn giáo đã tự đổi thành Hindu
giáo, theo nghĩa tôn giáo của người Hindu, tức tôn giáo của người Ấn Độ
chứ không phải của riêng đẳng cấp Bà La Môn. Sự đổi mới này thực sự là
một cuộc cách mạng tôn giáo.
Đức Phật luôn luôn dạy con người phải có tâm bình đẳng, cầu mong
cho tất cả chúng sinh được sống an vui, hạnh phúc, làm nhiều việc mang lại
phúc báu trên cuộc đời, sống cuộc sống thực sự có ý nghĩa. Phật giáo đã
chứng minh bằng nhiều cách rằng ngọn nguồn sức mạnh luôn nằm trong
chính bản thân mỗi chúng ta. Con đường tự thực nghiệm thực tại như thật là
của mỗi cá nhân trong hiện tại; không có một sự thưởng phạt, hay một sự can
thiệp nào từ bên ngoài; tất cả ở trong tầm nỗ lực và nắm bắt của con người.
21



Việc nhấn mạnh đến sự bình đẳng và tự do tôn giáo cho mọi tầng lớp khác
nhau trong xã hội đã cho thấy ngay trong Phật giáo nguyên thuỷ đã có tính
nhập thế sâu sắc.
Một đặc điểm khác có ý nghĩa to lớn là Phật giáo đón nhận cả nam
giới lẫn nữ giới. Vào thời ấy, đây là một bước tiến bộ rất lớn. Trong đời sống
tôn giáo, người phụ nữ cũng có khả năng đạt đến quả vị cao nhất. Phật đã
thừa nhận nữ giới cũng có thể thông thái và hiểu biết như nam giới. Mặt
khác, các tín đồ của Phật có thể xuất gia, có thể tu tại gia miễn là có tâm từ bi
và thực hiện pháp giới là đều có thể đạt tới giải thoát Niết bàn. Chính ngay ở
đây, ta thấy tinh thần nhập thế của Phật giáo cũng đã thể hiện rất rõ ràng.
Để giáo dục, thuyết phục con người, Đức Phật đã trình bày Tứ Diệu
Đế như là chân lý đúng đắn để tất cả mọi người có thể tinh tấn trên con
đường giải thoát. Đế thứ 1: Khẳng định cuộc đời là bể khổ. Đế thứ 2: Có
nhiều nguyên nhân của khổ. Đế thứ 3: Có thể chấm dứt được sự khổ, và Đế
thứ 4: Con đường để tự chấm dứt đau khổ. Toàn bộ Tứ diệu đế là con đường
nhận thức và tu dưỡng để tới Niết bàn, giải thoát. Trên cơ sở thuyết vô
thường, vô ngã, Phật giáo muốn xây dựng một triết lý sống vị tha, nhân bản.
Khi đã thấu suốt được triết lý vô ngã, vô thường con người sẽ vươn lên khỏi
cuộc sống vị kỷ, sẽ tự giác đoạn diệt tham, sân, si,... và sống theo tinh thần:
“từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha”, yêu thương mọi người, thông cảm sâu sắc với
những nỗi đau khổ của người khác như nỗi đau của chính mình, tìm mọi cách
giảm nhẹ nỗi đau khổ cho họ.
Trên con đường tu tập, Phật giáo yêu cầu có sự kết hợp hài hoà của cả
hai nhân tố trí tuệ và hành động: học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với
thực tiễn. Đó chính là nội dung của con đường Bát Chánh Đạo, là sự kết hợp
Tam học (Giới-Định-Tuệ). Sự hài hoà đó là con đường Trung đạo, không sa
vào hai thái cực: không theo con đường tự hành xác mà cũng không theo con
22



đường khoái lạc. Con đường đó dẫn con người ta đến chỗ tri, kiến, an tịnh và
Niết bàn. Con đường ấy không hề tách rời cuộc đời, lánh đời mà chính là
hành pháp ngay giữa cuộc đời và đạt đến Niết bàn cũng ngay giữa cuộc đời
trần thế.
Trên con đường tu tập Bát chính đạo, bước thứ nhất là: “chính kiến”:
hãy rũ bỏ mọi điều mê tín, tư tưởng mọi vật hữu linh, các nghi thức cổ sơ,
tục lệ tế vật, tế người rất dã man. Hãy từ bỏ niềm tin về sự hiện hữu của một
đấng tạo hoá tối cao, và hãy dựa vào chính khả năng trí tuệ cũng như đạo đức
của mình. Chính kiến quyết định sự đúng đắn của con đường giải thoát. Tiếp
theo là “Chính tư duy”: không có tư duy đúng đắn thì sẽ dẫn đến quyết định
sai lầm. “Chính ngữ”: là không nói dối, nói lời nóng nảy, vu khống, phỉ báng.
Sau chính ngữ thì đến “Chính nghiệp”: không sát sinh, trộm cắp, buông thả
trong dục lạc, rượu chè, nghiện ngập, mà phải từ tâm, chân thật, giúp đỡ và
tử tế với người khác. “Chính mệnh”: là không làm ăn gian dối gây đau khổ
cho người khác. “Chính tinh tiến”: là sự nỗ lực cam go để nâng cao trí tuệ và
đạo đức của mình. Người tu tập trước hết phải từ bỏ thói xấu, tập các tính tốt,
không để bị lôi kéo theo những khuynh hướng xấu xa, nâng cao những phẩm
chất tốt mà mình đã có thể có được. “Chính niệm”: là sự tỉnh giác trên cả ba
phương diện thân, khẩu, ý. Bước cuối cùng trên con đường trung đạo là
“chính định”, giữ tâm vô phân biệt (sai biệt) bằng cách chính niệm.
Như vậy, Đức Phật không tán thành những nghi thức cúng tế có tính
chất mê tín và những phép tu khổ hạnh làm suy nhược con người, đồng thời
đấu tranh xóa bỏ sự phân biệt giai cấp, đẳng cấp tôn giáo. Đức Phật lên án
các hình thức cúng tế có giết hại súc vật thời đó ở Ấn Độ. Người muốn tất cả
mọi người đều sống đạo đức, lương hảo chứ không phải một nhóm nào đó
mà thôi. Người thuyết pháp vì sự yên vui, hạnh phúc của mọi người, tât cả
23



mọi chúng sinh. Lúc đó, Phật giáo không phải là một hệ thống những nghi
thức, luật lệ, cầu tụng giáo điều và phức tạp mà chỉ là một lối sống để có sự
thanh tịnh trong suy nghĩ, nói năng và hành động.
Như vậy, ở đạo Phật con người là cứu tinh và là người chủ của chính
mình không cần nhờ đến một quyền lực nào bên ngoài. Do vậy, mặc dù lúc
đầu, Phật giáo bị xếp vào hàng không chính thống, nhưng với tinh thần
khoan dung tôn giáo, Phật giáo đã mở rộng ranh giới tín ngưỡng và đến với
nhiều đẳng cấp xã hội bị Bà La Môn giáo loại ra ngoài phạm vi tín ngưỡng
và dần trở thành đối trọng của Bà La Môn giáo ở Ấn Độ cổ. Phật giáo đã đáp
ứng kịp thời nhu cầu của con người đương thời về dịch vụ tôn giáo, vậy là tư
tưởng nhập thế đã có từ ngay lúc tôn giáo này xuất hiện
Phật giáo đã thực hiện tinh thần từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn cho những
con người đau khổ trong xã hội. Thành tựu của tinh thần này được biểu hiện
nhiều vẻ, dưới nhiều góc độ khác nhau. Đạo Phật dạy con người đức hạnh
tiết độ, cuộc sống trong sạch và lòng nhân hậu. Nhà bác học A. Einstein cũng
nhận xét: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu được với các nhu cầu của
khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo… Cây cầu Phật giáo đã kích thích con
người khám phá những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính con
người, và trong môi trường sống chung quanh. Phật giáo vượt thời gian và
mãi mãi có giá trị” [Dẫn theo 45, tr. 63].
Như vậy, nhờ hệ thống giáo lý giàu tính nhân văn, bình đẳng về đẳng
cấp tôn giáo cùng với những phương pháp tu tập thiết thực kế thừa từ các tôn
giáo lớn của Ấn Độ, Phật giáo thể hiện rõ tính chất nhập thế đắc dụng của nó
ngay từ khi mới xuất hiện. Vì vậy Phật giáo đã không chỉ dừng lại ở quê
hương Ấn Độ mà còn mở rộng sang các vùng Tiểu Á, Đông Á...và ngày nay
lan sang cả phương Tây. Ở mỗi một vùng miền, các quốc gia khác nhau với
những đặc trưng về điều kiện địa lý, về phong tục tập quán, văn hoá, Phật
24



giáo với cốt lõi từ, bi, hỷ, xả nhất vị cứu đời đã nhanh chóng hòa nhập vào
nền văn hóa của các quốc gia và trở nên đa dạng, phong phú. Song, Phật giáo
vẫn giữ được bản sắc của mình. Đó là do hệ thống giáo lý đặc sắc cùng nền
đạo đức nhân văn thiết thực nhập thế dựa trên cơ sở của sự kết hợp học đi
đôi với hành (Giới - Định - Tuệ) để giải thoát tuệ, giải thoát tâm, tạo nên mẫu
người từ bi hỷ xả, lánh ác, làm thiện, xây dựng một thế giới hòa bình, văn
minh, mọi chúng sinh đều được tự do, hạnh phúc.
1.2.2 Điển hình nhập thế của Phật giáo thời vua Asoka
Nói đến Phật giáo Ấn Độ và sự truyền bá Phật giáo ra các nước lân cận,
chúng ta không thể không nhắc tới hoàng đế Asoka. Trong lịch sử Ấn Độ
ông đã để lại nhiều dấu tích quan trọng, song sự kiện quan trọng nhất có lẽ là
sự chuyển đổi trong tâm khí của ông từ một hoàng đế bạo tàn trở thành một
vị vua hết mình cho một nền chính trị hoà bình và cai trị dân chúng bằng đạo
đức nhân văn, dùng chính lời Phật dạy để giáo hoá chúng dân. Hai phần đời
của Asoka như hai thái cực, chính sự hồi tâm do trở về với đạo Phật của ông
đã làm cho không ít người cảm thấy khó hiểu, thắc mắc và đã tạo ra nhiều
huyền sử.
Theo sử sách, Asoka là vị hoàng đế cai trị một Ấn Độ có lãnh thổ rộng
nhất từ trước tới nay. Ông sinh ra vào khoảng thế kỷ III Tr.CN, cha ông là
Bindusara, mẹ là Asokavadana thuộc dòng dõi Bà La Môn. Khi còn là hoàng
tử, ông được phân đi trấn giữ vùng Vidisa (nay là Bhilsa) và đã lập nhiều
chiến công lớn. Được tin vua cha sắp băng hà, ông liền đem quân trở về để
giữ ngôi và làm chủ luôn kinh đô. Những năm mới lên trị vì, vua Asoka nổi
tiếng rất tàn ác. Ông lập nên nhiều tù ngục với nhiều cực hình tàn khốc, giết
hại cả những anh, chị em và thê thiếp của mình để đoạt vương quyền. Nhà sư
Trần Huyền Trang của triều Đại Đường - Trung Quốc thế kỷ VII có đến Ấn
Độ, đã ghi lại được nhiều chuyện lưu truyền ở Ấn Độ, trong đó có chuyện
25



×