Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Vai trò của các tổ chức xã hội đối với xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.45 KB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

BÙI MINH PHƢƠNG

VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------

BÙI MINH PHƢƠNG

VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học


Mã số: 60 22 03 01
Chủ tịch Hội đồng

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn

PGS.TS. Trần Ngọc Liêu


HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của cá nhân
tôi. Nội dung và các trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực.
Hà Nội, ngày 06 tháng 5 năm 2018
Tác giả Luận văn

Bùi Minh Phƣơng


LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Chương trình cao học chuyên ngành
Triết học của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội, tác giả đã hoàn thành luận văn cao học với đề tài: “Vai trò của các tổ chức xã
hội đối với xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Để có được kết quả này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Ngọc
Liêu - người đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này với sự chỉbảo nhiệt
tình, sâu sát.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo thuộc
Khoa Triết học - trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc
gia Hà Nội và các thầy, cô giáo trong trường cũng như Ban Giám hiệu nhà trường
đã tạo môi trường học tập, nghiên cứu bổ ích, thiết thực cho các học viên, nhiệt tình
giúp đỡ các học viên trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Bên cạnh đó, xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, động viên của gia đình, đồng
nghiệp và bạn bè trong suốt quá trình tôi thực hiện luậnvăn này.
Hà Nội, ngày 06 tháng 5 năm 2018
Học viên

Bùi Minh Phƣơng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chƣơng 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN .......
1.1 Khái luận về tổ chức xã hội..............................................................................
1.1.1

Khái niệm về tổ chức xã hội ................................................

1.1.2

Phân loại, tính chất, chức năng ..........................................

1.2

Khái luận về vai trò của các tổ chức xã hội đối với xây d



pháp quyền ...............................................................................................................
1.2.1 Khái niệm nhà nước pháp quyền và nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền
18
1.2.2

Tổ chức xã hội với việc thể chế hoá quyền lực c

pháp luật. ...................................................................................................................
1.2.3

Tổ chức xã hội với việc thực thi quyền lực của nhân dâ

Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................
Chƣơng 2:CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI THỰC HIỆN VAI TRÒ XÂY DỰNG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................
2.1 Khái quát chung về các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện nay .......................
2.1.1

Lịch sử phát triển của tổ chức xã hội ở Việt Nam ........

2.1.2

Phân loại các tổ chức xã hội ........................................

2.1.3

Đặc điểm ......................................................................

2.2 Thực thi vai trò của các tổ chức xã hội trong việc xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay ..........................................................

2.2.1. Vai trò phản biện của tổ chức xã hội trong việc thể chế hóa quyền lực của
nhân dân thành pháp luật .........................................................................................
2.2.2 Vai trò giám sát của các tổ chức xã hội trong việc đảm bảo thực thi quyền lực
của nhân dân .............................................................................................................


2.3 Những vấn đề đặt ra và một số đề xuất, kiến nghị trong việc phát huy vai
trò của các tổ chức xã hội đối với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay................................................................................ 56
2.3.1 Những vấn đề đặt ra của các tổ chức xã hội đối với xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam............................................................................ 56
2.3.2 Một số đề xuất, kiến nghị về vai trò của các tổ chức xã hội đối với xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay..................................... 61
Tiểu kết chƣơng 2................................................................................................. 68
KẾT LUẬN............................................................................................................ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 71


Ký hiệu
NGO
NNPQ
XHCN
XHDS
TCXH


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài


Trên thế giới, hiện nay các tổ chức xã hội đang ngày càng có nhiều đóng góp
quan trọng vào nỗ lực phát triển bền vững của nhiều quốc gia, đồng thời giải quyết
các vấn đề xã hội mà nhà nước “không với tới” hoặc hoạt động kém hiệu quả trong
đời sống cộng đồng dân cư. Ở Việt Nam, trong 30 năm trở lại đây, xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa xã hội đã tạo đà
cho sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các tổ chức xã hội. Các TCXH bao gồm
những loại hình và tên gọi khác nhau như: Hội, hiệp hội,liên hiệp hội, tổng hội, câu
lạc bộ, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, trung tâm, viện, tổ chức hỗ trợ, tổ chức bảo trợ xã
hội, các tổ chức cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ... Đây là những tổ chức tự
nguyện, tự quản, dân chủ, công khai của người dân, không vì mục tiêu lợi nhuận,
độc lập tương đối với nhà nước và thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu và lợi ích nhất
định của cá nhân hoặc cộng đồng. Về quy mô, phạm vi hoạt động cũng rất phong
phú, có tổ chức phạm vi hoạt động trong cả nước, có tổ chức hoạt động trong tỉnh,
huyện hoặc xã hoặc thậm chí ởnước ngoài.
Hoạt động của các tổ chức xã hội này được đánh giá là có nhiều đóng góp tích
cực trong việc phát huy dân chủ, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp
luật và thực hiện giám sát, phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia cung ứng dịch vụ công, góp
phần giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Tuy nhiên, theo đánh giá chung, các tổ chức xã hội ở Việt Nam có cấu trúc rộng
nhưng không sâu, tính tự nguyện còn thấp. Môi trường để các tổ chức xã hội hoạt
động đã được thúc đẩy nhưng còn chưa thực sự khích lệ, chưa phát huy được sự
tham gia của cộng đồng. Ngoài ra, năng lực và tính khách quan trong phản biện xã
hội đối với chủ trương, chính sách và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước
và đội ngũ công chức hành chính chưa cao. Bên cạnh đó, một số cơ quan nhà nước,
cán bộ và công chức chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và tác dụng của các
1



tổ chức xã hội đối với phát triển xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam; có biểu hiện xem nhẹ vai trò, tác dụng của các tổ chức này, chậm ban hành,
sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật khi các tổ chức xã hội kiến nghị, yêu cầu.
Định hướng đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi việc xây
dựng và phát triển các tổ chức xã hội Việt Nam cần phải vượt qua những rào cản về
nhận thức, có sự phân biệt rạch ròi giữa các tổ chức xã hội với các tổ chức đoàn thể
cách mạng truyền thống, loại bỏ tư duy coi các tổ chức xã hội dân sự là “cánh tay
nối dài” của chính quyền, tiếp tục khắc phục tàn dư của tâm lý bao cấp, hành chính
hoá còn khá nặng nề đối với các tổ chức xã hội hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN đòi hỏi phải thể chế hoá quyền lực của nhân dân thành pháp luật và
đảm bảo thực thi pháp luật ấy. Pháp luật phải là trọng tài giữa nhà nước và các tổ
chức xã hội, pháp luật phải tạo dựng khuôn khổ pháp lý ổn định cho các hoạt động
tự quản của các tổ chức xã hội, đồng thời pháp luật cũng phải là công cụ quan trọng
để biểu đạt thái độ, định hướng của nhà nước đối với nhu cầu của xã hội đối với các
tổ chức xã hội.
Nghiên cứu về các tổ chức xã hội là một trong những đề tài có tính cấp bách đặc
biệt là trong bối cảnh phát triển của Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ những lý do
trên, tác giả chọn vấn đề: “Vai trò của các tổ chức xã hội đối với xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”, làm luận văn thạc sĩ của
mình.
2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo quốc gia,
bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí... về các tổ chức xã hội, nhà nước pháp
quyền và vai trò của nó đối với nhà nước pháp quyền, trong đó có NNPQ XHCN
nói riêng theo nhiều hướng, phương pháp tiếp cận khác nhau, quan điểm khác nhau.
Qua sự tìm tòi, nghiên cứu và tiếp cận với những tư liệu liên quan đến đề tài, tác giả

tổng quan tư liệu chủ yếu trên ba nhóm chủ đề lớn như sau:

2


2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về tổ chức xã hội
Kết quả nghiên cứu của các Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX.04
(2001– 2005) do GS.VS Nguyễn Duy Quý chủ nhiệm và KX.10.06 (2004 – 2006)
do PGS.TS Trần Đình Hoan chủ nhiệm đã bước đầu xác định khái niệm xã hội dân
sự và cho rằng xã hội dân sự không phải là một thực thể do ý định chủ quan sáng
tạo ra, mà là sản phẩm của quá trình lịch sử - tự nhiên, chịu sự chi phối, tác động
của những nhân tố khách quan và chủ quan nhất định và nhằm mục đích đáp ứng
những nhu cầu của sự phát triển xã hội. Theo đó, xã hội dân sự ở nước ta là kết quả
tất yếu của quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, là điều kiện đảm bảo cần thiết để
củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam [48].
Cuốn sách Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc [37]do tác giả Vũ Duy Phú
(2008) chủ biên đã nêu lên những vấn đề khá rõ ràng về XHDS khi đi từ lịch sử vấn
đề và khái niệm, đến vai trò và những dấu hiệu, biểu hiện của XHDS trong bối cảnh
mới. Các tác giả đã nhấn mạnh sự tác động của toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức, tự
do dân chủ trong phát triển XHDS, những cơ hội và thách thức đối với XHDS, từ đó
cho rằng, phát triển XHDS thông thái tương xứng với nhà nước pháp quyền hiện đại
là nhiệm vụ quan trọng của Việt Nam trong thế kỷ XXI. Cuốn sách này đã cung cấp
những thông tin khá cụ thể về XHDS Việt Nam như cấu trúc, môi trường, giá trị tác
động, những hạn chế và điểm mạnh của xã hội này.
Công trình Vai trò của các Hội trong đổi mới và phát triển đất nước do TS
Thang Văn Phúc [38] chủ biên đã trình bày những nhận thức chung về hội và đặc
điểm của hội ở Việt Nam; luận chứng vai trò của hội thông qua việc phân tích hoạt
động và những thành tựu chủ yếu của một số hội và hiệp hội ở nướcta hiện nay.
Tác giả Đỗ Trung Hiếu với bài Một số vấn đề về xã hội công dân (2002) [16] đã
điểm qua lịch sử ra đời và phát triển của thuật ngữ XHCD, quan niệm của Mác về

XHCD, những dấu hiệu của XHCD và đi đến kết luận: bản chất của XHCD là một
cộng đồng dân chủ được hình thành trên cơ sở các quan hệ thị trường và hình thành
trong khuôn khổ quốc gia dân tộc. Tác giả cũng đề xuất một số phương hướng nhằm
thúc đẩy XHCD ở Việt Nam.
3


Tác giả Bùi Quang Dũng với bài viết Xã hội dân sự: Khái niệm và các vấn đề
(2006) [11] đã điểm lại các quan điểm về XHDS và nhấn mạnh các định nghĩa phổ
biến về XHDS hiện nay đều nhấn mạnh tới tinh thần tự nguyện của công dân trong
việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và giá trị của mình. Theo đó, XHDS được tạo
lập bởi các đoàn thể nhằm kết nối giữa những nhóm quyền lợi hiện đại và những tổ
chức truyền thông, giữa các tổ chức chính thức và phi chính thức. Từ đó, tác giả cho
rằng, ở Việt Nam, ngoài các tổ chức xã hội truyền thống, nhiều tổ chức xã hội mới
đã và đang ra đời, đang tích cực tham gia và đóng góp vào nhiều hoạt động xã hội,
góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong điều kiện mới.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng xã hội
dân sự (2008) do Phạm Văn Đức [9] làm chủ nhiệm đã nghiên cứu lịch sử tư tưởng
XHDS trong lịch sử với những cách tiếp cận phong phú và toàn diện, trong đó có
quan niệm của chủ nghĩa tự do và tự do mới. Từ đó, các tác giả khẳng định tính tất
yếu của việc xây dựng XHDS ở Việt Nam và vai trò, tác động của nó đến những
thiết chế của xã hội và thị trường trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Công trình Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn (2009) do tác giả Dương Xuân Ngọc [33] chủ biên đã khái lược lịch sử tư tưởng
XHDS trong lịch sử đồng thời chỉ ra ở Việt Nam từ sau khi đất nước thống nhất việc
nhìn nhận đánh giá về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng cởi mở và
đi vào thực chất hơn. Tác giả cho rằng, ở nước ta chỉ có thể xây dựng được NNPQ
khi có đời sống XHDS thực sự. Khi đánh giá về quan niệm các tổ chức XHDS trong
lịch sử, các tác giả cho rằng cần kết hợp với kinh nghiệm các nước đi trước, sẽ định
hình hệ thống những giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện TCXH Việt Nam.

GS. Tương Lai với bài viết Xã hội dân sự và mấy vấn đề của các tổ chức xã hội
dân sự đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp luật, số 4/2007 [20], sau khi điểm những
lại những khái niệm về XHDS tác giả đã nêu lên vai trò của XHDS được thể hiện
qua hoạt động của các tổ chức xã hội, của nhân dân khi tham gia vào quy trình lập
pháp của Quốc hội và phản biện xã hội. Tác giả làm rõ việc TCXH sẽ tham gia vào
4


quy trình lập pháp của Quốc hội chính là các tổ chức thực hiện liên kết ngang, tạo
nên cấu trúc của XHDS mà chúng ta đang cố gắng hình thành gắn liền với xây dựng
nhà nước pháp quyền. Song, dù lập luận như vậy nhưng tác giả vẫn băn khoăn rằng,
khái niệm TCXH sẽ tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội có gồm cả các tổ
chức xã hội đã tham gia vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức xã hội nằm
ngoài Mặt trận không?
Luận án XHDS với tư cách là không gian xã hội cho sự phát triển của con
người của tác giả Trần Tuấn Phong [36] cho rằng XHDS được quan niệm như là
một không gian xã hội cho sự phát triển con người. Sự hình thành và phát triển của
XHDS gắn liền với sự phát triển tính chủ thể và năng lực sáng tạo của con người
trong những điều kiện lịch sử và văn hoá cụ thể. Vì vậy, theo tác giả, XHDS, với vai
trò là một không gian xã hội, một bộ phận hữu cơ cấu thành của một toàn thể hữu
cơ sống động và phát triển, là một khái niệm mở, luôn biến động trong mối tương
quan với sự phát triển của bản chất con người.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về nhà nƣớc pháp quyền xãhội chủ nghĩa
Việt Nam
Tác giả Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn với cụm công trình Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn và Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân: Lý luận và thực
tiễn khẳng định về phương diện lý luận, NNPQ không phải là một kiểu nhà nước,
mà là giá trị phổ biến, biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Bên cạnh đó,
các tác giả cũng chỉ ra những điều kiện và yếu tố chi phối quá trình xây dựng

NNPQ XHCN Việt Nam trong đó có hệ thống các TCXH được tổ chức một cách
nền nếp và hoạt động có hiệu quả theo pháp luật và những giá trị, chuẩn mực của
dân chủ là một nhân tố không thể thiếu [48].
Cuốn sách Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam (2005) của GS.TS.
Đào Trí Úc chủ biên [63] đã nghiên cứu quan niệm về nhà nước pháp quyền trong
lịch sử tư tưởng ở cả phương Đông và phương Tây, phân tích sự thay đổi nội hàm

5


của khái niệm nhà nước pháp quyền trong lịch sử để từ đó xác lập nên nội dung chủ
yếu của khái niệm nhà nước pháp quyền.
Công trình Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay của tác giả Lê Minh Thông
(2011) đã triển khai tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức bộ máy nhà nước của dân, do
dân, vì dân; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền; nêu lên được quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc tổ chức bộ máy nhà nước trước đổi mới
và sau đổi mới; công trình còn làm rõ được quá trình đổi mới mô hình bộ máy nhà
nước thông qua các bộ luật của các thời kỳ lịch sử; thực trạng bộ máy nhà nước
XHCN từ năm 1992 đến nay; từ đó nêu ra được phương hướng đổi mới mô hình tổ
chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay [57].
Bài viết Khái niệm nhà nước pháp quyền từ góc nhìn triết học của tác giả Trần
Ngọc Liêu, Tạp chí Triết học, số 11, năm 2009 đã chỉ ra “Nhà nước pháp quyền tư
bản chủ nghĩa” là hình thức chưa thể hiện hết nội dung của nhà nước pháp quyền,
còn “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là nhà nước đã thể hiện hết nội dung
của nhà nước pháp quyền, là nhà nước pháp quyền theo ý nghĩa đầy đủ nhất. Trên
cơ sở đó, tác giả xác định một số nội dung chủ yếu cần được thực hiện nhằm xây
dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủnghĩa Việt Nam [23].
Luận án Tiến sĩ Triết học Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của tác giả Trần Ngọc

Liêu (2010) đã hệ thống hóa các quan niệm của Mác, Ăngghen, Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước. Trên cơ sở đó nhận thức bản chất nhà nước pháp quyền,
đồng thời nêu lên các phương hướng tiếp tục xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam
theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin [26].
Cuốn sách Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về nhà nước với xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) của tác giả Trần Ngọc Liêu
đã trình bày khái quát và làm rõ giá trị lý luận của những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin về nhà nước đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam. Từ đó, luận giải bản chất của nhà nước pháp quyền, xác định những vấn
6


đề đang đặt ra và hướng giải quyết nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay [22].
Công trình Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của TS. Trần Hậu Thành (2005) cũng phân
tích quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng nhà nước pháp quyền trong tiến
trình lịch sử nhân loại, một số quan điểm và thực tiễn tổ chức nhà nước pháp quyền
hiện nay trên thế giới, cũng như việc xây dựng nhà nước XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân [55].
2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về vai trò của các TCXH đốivới xây dựng
NNPQ
Công trình Quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự Việt Nam – lịch sử và hiện
tại của GS.TS. Lê Văn Quang, TS. Văn Đức Thanh (2003) đã đề cập đến mối quan
hệ biện chứng giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với xã hội dân sự ở Việt
Nam và sự cần thiết phải phát triển xã hội dân sự ở nước ta như là một trong những
cơ sở quan trọng của Nhà nước pháp quyền [42].
Đề tài khoa học cấp nhà nước Vai trò của các tổ chức xã hội đối với phát triển
và quản lý xã hội ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – cơ sở lý luận và thực tiễn do TS

Thang Văn Phúc và PGS.TS Nguyễn Minh Phương (2010) đồng chủ biên trả lời cho
câu hỏi cần những chính sách, cơ chế, pháp luật nào để đảm bảo cho các tổ chức xã
hội này hoạt động đúng với tính chất là các tổ chức nhân dân, góp phần xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam [40].
Tác giả Lê Văn Quang trong bài Quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và
đời sống xã hội dân sự (2004) nhấn mạnh tới vai trò “điều tiết” hay “giữ vững kỷ
cương pháp luật” của nhà nước đối với xã hội. Tác giả khẳng định quan hệ giữa nhà
nước với các TCXH dân sự là quan hệ giữa hệ thống thiết chế điều tiết với khách
thể của sự điều tiết ấy; đồng thời, đó còn là quan hệ giữa bản thân thiết chế với cơ
sở xã hội của thiết chế ấy. Quan hệ giữa NNPQ XHCN với đời sống XHDS, một
mặt, được thực hiện trực tiếp thông qua quan hệ giữa các cơ quan chính quyền nhà
7


nước với các công dân; mặt khác, là quan hệ giữa nhà nước với các định chế xã hội
và xét đến cùng, quan hệ giữa NNPQ XHCN và đời sống XHDS thực chất là quan
hệ giữ vững kỷ cương pháp luật với phát huy cao nhất quyền dân chủ của quần
chúng nhân dân [43].
Luận án Mối quan hệ giữa TCXH và NNPQ ở Việt Nam hiện nay (2016) của tác
giả Nguyễn Văn Quyết đã nhận diện những nội dung trong mốiquan hệ của TCXH
và NNPQ ở Việt Nam hiện nay và khẳng định TCXH có vai trò to lớn đối với
NNPQ XHCN. Mối quan hệ giữa TCXH và NNPQ XHCN được nghiên cứu dưới
các góc độ: Sự phát triển các TCXH là một trong những cơ sở hình thành nên
NNPQ XHCN; các TCXH độc lập tương đối với Nhà nước, cùng Nhà nước phối
hợp giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện việc giám sát, phản biện xã hội đối
với Nhà nước [49].
Những công trình trên đây đã nghiên cứu về tổ chức xã hội, nhà nước pháp
quyền và mối quan hệ của chúng trên những lĩnh vực cụ thể và đem lại nhiều thành
tựu quan trọng. Tuy nhiên, về vai trò của các tổ chức xã hội đối với xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay vẫn chưa có công trìnhnào đi sâu

nghiên cứu. Những công trình, bài viết trên là nguồn tư liệu quý giá làm cơ sở cho
tác giả nghiên cứu đề tài này.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.

Mục đích nghiên cứu

Từ việc làm rõ một số vấn đề lý luận về tổ chức xã hội, vai trò của các TCXH
đối với xây dựng NNPQ nói chung, đánh giá tình hình hoạt động và vai trò của các
TCXH đối với xây dựng NNPQ ở Việt Nam để đề xuất các giải pháp và kiến nghị
nhằm phát huy hơn nữa vai trò của các TCXH trong xây dựng NNPQ Việt Nam hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Làm rõ các khái niệm tổ chức xã hội, nhà nước pháp quyền



Luận giải về nội dung xây dựng NNPQ và vai trò của các TCXH đối

với xây dựng NNPQ.
8





Đánh giá việc thực hiện vai trò của các tổ chức xã hội đối với xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.


Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy vai trò của các

tổ chức xã hội đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam hiện nay.
4.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về TCXH, NNPQ
và vai trò của các TCXH đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam.
4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu còn sử
dụng các phương pháp khác như: Phân tích – tổng hợp, logic – lịch sử, hệ thống –
cấu trúc – chức năng, phân tích tài liệu, thống kê.
5. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên
cứu 5.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các khái niệm tổ chức xã hội, nhà nước
pháp quyền, nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền và vai trò của các tổ chức xã
hội đối với xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Khái niệm tổ chức xã hội được hiểu theo 2 nghĩa, rộng và hẹp. Chúng tôi tiếp
cận các tổ chức xã hội từ góc độ nghĩa hẹp, được hiểu như các tổ chức xã hội dân sự
thuần tuý. Vai trò của các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện nay cũng rất rộng, được
thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, ngoại giao... nhưng trong khuôn khổ luận

văn thạc sĩ, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về vai trò của các tổ chức xã hội đối với
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. Mặt khác, các tổ chức
xã hội ở Việt Nam có quá trình hình thành và phát triển lâu dài, tuy nhiên đề tài chỉ
9


tập trung vào khảo sát và nghiên cứu vai trò của các tổ chức xã hội đối với xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn từ Đổi mới (1986) đến nay.
6.

Đóng góp của luận văn

6.1 Đóng góp về mặt lý luận
Đề tài góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận căn bản về tổ chức xã hội,
nhà nước pháp quyền, vai trò của các tổ chức xã hội đối với xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó cung cấp những luận chứng,
luận cứ quan trọng tạo tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo về vấnđề này.
6.2 Đóng góp về mặt thực tiễn
Từ việc phân tích vai trò của các tổ chức xã hội đối với xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần
nhận thức sâu sắc vai trò của các tổ chức xã hội trong việc thể chế hóa quyền lực
của nhân dân thành pháp luật cũng như thực thi quyền lực của nhân dân trong việc
xây dưng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Những đề xuất, kiến nghị của
luận văn có thể cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng, đổi mới và hoàn thiện
những thể chế, cơ chế pháp lý để nâng cao hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội
trong quá trình đổi mới, hội nhập, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời,
luận văn cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn cho các cơ quan nhà nước trong công tác
quản lý gắn với các tổ chức xã hội ở Việt Nam. Ngoài ra, luận văn có thể làm tài
liệu tham khảo, phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu về triết học, chính trị
học, xã hội học về tổ chức xã hội, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam hiện nay. vai trò của tổ chức xã hội đối với xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiệnnay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu 2 chương và 7 tiết.

10


Chƣơng 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1.1 Khái luận về tổ chức xã hội
1.1.1

Khái niệm về tổ chức xã hội

Trong lịch sử, các hình thức liên kết giữa con người với con người đã xuất hiện
từ xa xưa, trước khi xuất hiện nhà nước. Để chống chọi với thiên tai, thú dữ, bởi sự
đe dọa lẫn nhau của các thế lực và bởi yêu cầu của xã hội hóa sản xuất, con người tự
tìm đến nhau, liên kết với nhau. Một người hành động riêng lẻ thì họ tự quyết định
lấy hành động của mình theo suy nghĩ của cá nhân, nhưng khi nhiều người tập hợp
vào một tổ chức thì cần phải thương lượng và thỏa thuận thống nhất với nhau để
hình thành những khế ước xã hội, từ đó hình thành nên những tổ chức xã hội sơ
khai.
Việc liên kết lại với nhau là một đặc tính xã hội xuất phát từ nhu cầu tồn tại của
con người. Vì vậy, cơ sở để hình thành các TCXH chính là xuất phát từ nhu cầu tự
nhiên của mỗi cá nhân con người. Mỗi cá nhân đều có nhu cầu xung quanh từng vấn
đề xã hội, tôn giáo, chính trị, văn hóa từ đó các loại hình tổ chức xã hội khác nhau
ra đời. Bởi lẽ, con người có quyền thể hiện những điều mà mình nghĩ, có quyền liên
kết tự do với nhau trước hết là để thể hiện và thực hiện lợi ích của mình, tự mình hỗ

trợ, giải quyết những công việc mà không cần thông qua nhà nước. Đồng thời thông
qua đó, bằng các TCXH được thành lập và là tiếng nói của những người dân được
tập hợp lại với nhau để tạo thành một sức mạnh, cùng nhà nước thực hiện những
mục tiêu của hệ thống chính trị, để kiểm soát sự lạm quyền, để bảo vệ mình, để
chống lại những tiêu cực trong xã hội như tham nhũng, nhũng nhiễu, quan liêu, hách
dịch, cửa quyền từ phía bộ máy công quyền.Như vậy, TCXH ra đời do yêu cầu
khách quan của sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
Do bối cảnh lịch sử và các mối quan hệ nhà nước – xã hội khác nhau, có những
cách tiếp cận và quan điểm lý luận khác nhau về các tổ chức xã hội. Theo TS.
Irenne Norluand, có ba cách tiếp cận đối với các tổ chức xã hội là: Thuyết tân tự do
11


cho rằng các tổ chức xã hội tồn tại một cách độc lập, thuộc “khu vực thứ ba”, “khu
vực tự nguyện”, ở đó các công dân tự tổ chức thành nhóm và giải quyết các vấn đề
phát sinh thông qua đối thoại “dân sự” và biện pháp phi bạo lực. Vai trò của các tổ
chức này là kiểm soát và làm cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường.
Theo mô hình Xã hội tốt lành (Good Society), các tổ chức XHDS là một bộ phận
cấu thành xã hội, không hoàn toàn tách biệt với nhà nước, thị trường và gia đình mà
nằm ở khu vực giao nhau của ba bộ phận này; ranh giới của nó cũng không rạch ròi,
luôn có sự tương tác giữa nhà nước, thị trường và các tổ chức XHDS nhằm đem lại
sự đồng thuận tốt lành cho mọi người. Mô hình Hậu hiện đại (Postmodern) xem các
tổ chức xã hội thuộc khu vực thứ ba và đề cao vai trò chia sẻ, thông cảm và liên kết,
hợp tác giữa các bêntham gia đối thoại, thảo luận.
Từ góc độ phạm vi, theo Linz và Stepan, các tổ chức XHDS thuộc lĩnh vực
trung gian nằm giữa khu vực tư nhân và nhà nước, hay còn gọi là khu vực thứba.
Từ góc độ chức năng, Anirudh Krishna xác định các tổ chức XHDS thực hiện
các chức năng ở ba cấp độ khác nhau là: 1) thể hiện những lợi ích và nhu cầu của
công dân; 2) bảo vệ quyền của công dân; 3) cung cấp hàng hóa và dịch vụ trực tiếp
không dựa vào các cơ quan nhà nước.

Từ góc độ mạng lưới, Andrew WellsDang đưa ra khái niệm mạng lưới XHDS
để nhấn mạnh rằng, nó là sự liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức XHDS – các nhóm
phi chính thức và các cá nhân hoạt động xã hội với nhau, mà không chỉ là sự cấu
thành của các tổ chức phi chính phủ đơn lẻ [67].
Theo Liên minh Thế giới vì sự tham gia của Công dân (CIVICUS), XHDS là
diễn đàn nằm ngoài gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi người bắt tay nhau
để thúc đẩy quyền lợi chung. Theo đó, muốn cải thiện tính hiệu quả của Nhà nước
cần phải dựa vào sức mạnh tương đối của thị trường và các tổ chức XHDS, các tổ
chức XHDS có thể vừa là cộng sự vừa là đối thủ cạnh tranh trong việc cung ứng các
dịch vụ công cộng; các tổ chức này có thể gây áp lực có ích đối với chính quyền để
cải thiện việc cung cấp và chất lượng các dịch vụcông cộng.

12


Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, khái niệm “Tổ chức xã hội” được hiểu là là
“hình thức tập hợp rộng rãi nhân dân theo nghề nghiệp, lứa tuổi, sở thích, giới tính...
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân dân như học tập, rèn luyện,
nâng cao trình độ các mặt, giúp đỡ, động viên nhau trong cuộc sống, tham gia sinh
hoạt văn hóa, thể thao, du lịch, xã hội, từ thiện, v.v.”. Nhànước có trách nhiệm quản
lý, giúp đỡ tạo điều kiện cho các TCXH ra đời và hoạt động đúng pháp luật, đáp
ứng yêu cầu và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
Theo quan niệm của xã hội học thì TCXH có thể được hiểu là một thành tố của
cơ cấu xã hội, hoặc là một dạng hoạt động, hay là mức độ trật tự nội tại, sự hài hòa
giữa các thành phần của một chỉnh thể. Với ý nghĩa là một thành tố của cơ cấu xã
hội, TCXH là một hệ thống các quan hệ, tập hợp liên kết cá nhân nào đó để đạt
được mục đích nhất định.
Như vậy, “tổ chức xã hội” là khái niệm được dùng với nhiều nghĩa khác nhau
trong các ngành khoa học khác nhau và trong cuộc sống hàng ngày. Mặc dù có
những khác biệt nhất định, nhưng có thể thấy tổ chức xã hội là khái niệm được dùng

để chỉ một tập hợp các cá nhân, nhóm người trong xã hội với những mối quan hệ
được xác lập dựa trên sự thống nhất về cách thức hành động nhằm đạt được một
mục tiêu chung. Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm: “Tổ chức xã
hội là tổ chức tự nguyện của người dân cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới
tính... có chung mục đích đoàn kết hội viên, hoạt động phi chính trị, phi lợi nhuận
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên, cộng đồng, hỗ trợ nhau hoạt
động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mục
đích hoạt động của các tổ chức xã hội không trái lợi ích của dân tộc, Tổ quốc, với
pháp luật và đạo đức xã hội”.
Như vậy, “tổ chức xã hội”được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc đặc điểm
như sau:
• Tự nguyện
• Không vì mục đích lợi nhuận (phân chia lợi nhuận)
• Tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.

13


• Không nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước

Chúng tôi lấy đây là khái niệm công cụ để tiếp tục nghiên cứu các chương tiếp
theo của luận văn.
1.1.2 Phân loại, tính chất, chức năng
1.1.2.1 Phân loại
Các tổ chức xã hội đã hình thành từ lâu và phát triển rất phong phú đa dạng, với
nhiều loại hình và tên gọi rất khác nhau như: Liên hiệp, hiệp hội, hội, liên đoàn, câu
lạc bộ, quỹ, viện, trung tâm, hội đồng, uỷ ban, nhóm tình nguyện, v.v..., thực hiện
các chức năng, vai trò xã hội, hoặc mục đích nghề nghiệp, bảovệ môi trường, từ
thiện, nhân đạo...
Có rất nhiều cách phân loại các loại hình của tổ chức xã hội, tuy nhiên, tác giả

chọn cách phân loại theo tài liệu của Ngân hàng phát triển Châu Á ADB năm 2011.
Theo đó, các tổ chức xã hội được chia thành 9 loại như sau:
Tổ chức phi chính phủ (NGO) là các tổ chức chuyên môn, trung gian và phi lợi
nhuận cung cấp hoặc hỗ trợ việc cung cấp các dịch vụ liên quan đến phát triển kinh
tế xã hội, nhân quyền, phúc lợi công cộng hoặc cứu trợ khẩn cấp.
Hiệp hội nghề nghiệp là những tổ chức đại diện cho quyền lợi của các thành
viên là những người hoạt động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định hoặc làm
những nghề đặc biệt nào đó. Các hiệp hội nghề nghiệp có thể tạo ra những chuẩn
mực liên quan đến ngành nghề của các thành viên.
Viện nghiên cứu là những tổ chức chủ yếu thực hiện các hoạt động nghiên cứu
và phân tích liên quan đến các vấn đề chính sách công và truyền bá những kết quả
nghiên cứu và khuyến nghị của mình với hy vọng có thể gây ảnh hưởng lên các nhà
hoạch định quyết sách và những người xác lập chủ trương.
Các quỹ là các tổ chức từ thiện thành lập bởi các cá nhân hay đơn vị nào đó với
tư cách một thực thể pháp lý (một tập đoàn hoặc một quỹ uỷ thác) ủng hộ những sự
nghiệp phù hợp với mục tiêu của quỹ. Quỹ có thể được tổ chức như những thực thể
hoạt động từ thiện nhận tài trợ để hỗ trợ các hoạt động cụ thể, thường là các hoạt
động mang lại lợi ích văn hoá hoặc xã hội.
14


Công đoàn là các hiệp hội được tổ chức một cách chính thức của người lao
động, những người đoàn kết lại để thúc đẩy thực hiện các quan điểm của mình về
tiền lương, giờ làm và điều kiện làm việc. Công đoàn thường được tổ chức trên cơ
sở một ngành nghề hoặc trong một ngành công nghiệp.
Tổ chức cộng đồng (CBO) thường được tổ chức để giải quyết ngay những mối
quan tâm của các thành viện. Đặc tính cơ bản của các CBO là chúng có thể huy
động các cộng đồng thông qua việc thể hiện các nhu cầu, tổ chức và thực hiện
những quá trình có sự tham gia, tiếp cận của các dịch vụ phát triển từ bên ngoài, và
chia sẻ lợi ích giữa các thành viên. Các tổ chức này có chức năng đa dạng bao gồm

những hoạt động liên qua đến các vấn đề kinh tế, xã hội, tôn giáo và thậm chí là giải
trí. Các ví dụ về CBO gồm các hiệp hội cư dân trong một địa bàn, hiệp hội người
thuê nhà, các tổ chức phát triển cộng đồng, các nhóm người sử dụng nước và hiệp
hội tín dụng.
Tổ chức nhân dân (PO) là các tổ chức gồm những tình nguyện bình dân nhằm
thúc đẩy sự phồn thịnh về kinh tế và xã hội của các thành viên. Trong khi tại một số
nước, thuật ngữ thường được dùng hoán đổi với CBO, PO thường là những tổ chức
giải quyết các mối quan tâm liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, như là hội ngư phủ,
hơn là một khu vực địa lý cụ thể. Những ví dụ khác về PO bao gồm các hội được
thành lập bởi nông dân, lao động địa phương hoặc các nhómngười bản địa.
Phong trào xã hội là những nhóm phi chính thức quy mô lớn gồm nhiều cá
nhân hoặc tổ chức nhằm thay đổi xã hội thông qua những hành động tập thể có tổ
chức và lâu dài. Phong trào xã hội không phải là những thể chế thường trực, mà là
những nhóm người được tập hợp, theo đuổi mục tiêu của mình và tựgiải thể.
Các tổ chức có cơ sở tín ngưỡng là những nhóm có cơ sở tôn giáo, được thành
lập quanh một khu vực thờ cúng hoặc giáo đoàn, một cơ sở tôn giáo, hoặc một cơ sở
được hoặc không được đăng ký có đặc trưng hoặc tôn chỉ tôn giáo.
Bên cạnh những loại CSO mô tả trên đây, cũng có những liên minh hoặc mạng
lưới các CSO tập hợp lại trên cơ sở địa lý, thành viên, nhóm mục tiêu, hoặc lĩnh vực
hoạt động.
15


Chúng tôi lấy cách phân loại này làm cơ sở nghiên cứu cho những chương tiếp
theo của luận văn.
1.1.2.2 Tính chất
Khi bàn về tính chất của các TCXH, các nhà nghiên cứu còn nhiều ý kiến khác
nhau, tuy nhiên tựu trung lại có thể chỉ ra một số tính chất của các TCXH nhưsau:
Thứ nhất, TCXH có tính cộng đồng tự nguyện. Việc người dân tham gia vào
một TCXH hoàn toàn xuất phát từ ý chí, nguyện vọng, nhu cầu của cá nhân. Vì vậy,

TCXH mang tính tự nguyện, tức là người dân có quyền tự do cá nhân trong việc
quyết định tham gia hay không tham gia vào một TCXH nào đó, mà không chịu bất
kỳ một sự ép buộc nào.
Thứ hai, các TCXH hoạt động không vì mục đích lợi nhuận (phân chia lợi
nhuận). Các thành viên, hội viên tham gia TCXH không phải nhằm mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận, mà chủ yếu hướng đến việc tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau đáp ứng
những nhu cầu xã hội của cá nhân hoặc phục vụ cộng đồng, do đó tính chất của
TCXH là không vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên các TCXH vẫn có thể tiến hành
những hoạt động mang lại lợi nhuận, nhưng khoản lợi nhuận thu được chỉ để phục
vụ các hoạt động của tổ chức, chứ không chia cho cá nhân nào trong tổchức.
Thứ ba, là tính tự chủ của TCXH. Các thành viên, hội viên không chỉ tự nguyện
tham gia TCXH mà họ còn tự quyết định phương thức tổ chức và hoạt động của tổ
chức mà mình tham gia. Do đó có thể nói tự chủlà mô thức quản lý cơ bản của
TCXH, theo đó, các thành viên, hội viên tự quyết định tôn chỉ, mục đích của tổ
chức, phương thức hoạt động, cũng như việc kết nạp hội viên, bầu ban lãnh đạo,...
Tất nhiên, vai trò của nhà nước với tư cách là tổ chức quyền lực công của một quốc
gia có chức năng duy trì trật tự công cộng là bảo đảm cho tôn chỉ, mục đích hoạt
động của tổ chức phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, không xâm
phạm đến quyền và tự do của các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội.Mọi hoạt động
của TCXH như nhân sự, chương trình hành động, tài chính đều được công khai và
minh bạch. Mọi quyết định đưa ra bàn bạc công khai, dân chủ và đi đến thống nhất
trên cơ sở đồng thuận của các thành viên.
16


Thứ tư, các TCXH không nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, mang
tính độc lập so với nhà nước. Đây là tính chất rất quan trọng, bởido tự trang trải về
tài chính nên TCXH có được vị thế độc lập đối với các cơ quan nhà nước và thị
trường, tuy nhiên đặt ra thách thức cho TCXH là phải năng động, sáng tạo trong
việc tạo nguồn kinh phí cũng như công khai, minh bạch trong việc sử dụng kinh phí

hoạt động đó như thế nào để có hiệu quả nhất theo tôn chỉ mục đích của mình.
1.1.2.3Chức năng
Trên thực tế, các TCXH ngày càng có vai trò to lớn trong quá trình phát triển
của mỗi quốc gia và tạo cơ hội cho quá trình toàn cầu hóa diễn ra cả theo chiều rộng
và chiều sâu. Có thể nêu lên một số chức năng và thông qua việc thực hiện tốt các
chức năng này mà vai trò của các TCXH ngày càng được đề cao.
Thứ nhất, các TCXH góp phần xã hội hóa con người và toàn cầu hóa các dân
tộc. Các TCXH là cầu nối mỗi cá nhân với xã hội trên cơ sở tập hợp và phát huy vai
trò của các cá nhân trong những hoạt động chung vì lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Hơn thế nữa, các TCXH đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhân dân, thực hiện sự gắn
kết các TCXH trên toàn thế giới vì mục tiêu nhân loại sẽ góp phần đẩy nhanh quá
trình toàn cầu hóa.
Thứ hai, các TCXH phối hợp với nhà nước trong việc hoạch định và thực hiện
các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong xã hội đương đại, một khi quá trình
dân chủ ngày càng được mở rộng, thì cơ hội cho mọi người dân tham gia vào các
hoạt động của nhà nước và xã hội ngày càng tăng. Hơn nữa, thông qua các tổ chức
được hình thành trên cơ sở tự nguyện, các thành viên trong mỗi tổ chức xã hội đã ý
thức đầy đủ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, do đó họ chủ động, tích cực hơn
hoạt động phối hợp với nhà nước trong hoạch định và thực hiện các chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội vì cộng đồng và dân tộc.
Thứ ba, các TCXH thực hiện sự phản biện xã hội đối với các chủ trương chính
sách và giám sát hoạt động của đội ngũ công chức nhà nước. Các TCXH được coi là
đối tác bình đẳng của nhà nước chứ không phải là “cái đuôi” của nhà nước, về thực
chất là tạo điều kiện để người dân thực sự tham gia vào việc hoạch định, thực hiện
17


×