Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Tư tưởng biện chứng trong triết học hy lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.55 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐINH THANH XUÂN

TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 5 01 01

Người hướng dẫn: PGS.TS. ĐẶNG HỮU TOÀN

HÀ NỘI - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐINH THANH XUÂN

TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 5 01 01

Người hướng dẫn: PGS.TS. ĐẶNG HỮU TOÀN

HÀ NỘI - 2004



1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG
TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1. Các điều kiện và tiền đề cho sự hình thành nền triết học và phép Biện
chứng Hy Lạp cổ đại

1.1.1. Các nền văn minh có giai cấp đầu tiên ở miền Đông Đ
Thần thoại, khoa học và tiền triết học

1.1.2. Tính đặc thù của chế độ kinh tế - xã hội và đời sống t
hóa ở Hy Lạp cổ đại

1.1.3. Sự phân rã của thần thoại Hy Lạp cổ đại. Sự xuất hiệ
với tư cách một hình thái đặc thù của ý thức xã hội
Chương 2
MỘT SỐ TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI

2.1. Tư tưởng về tính thống nhất vật chất của vũ trụ, về sự vận động, biến đổ
vĩnh viễn của thế giới.
2.1.1. Tư tưởng về sự thống nhất thế giới ở cái đơn nhất.
2.1.2. Tư tưởng về sự thống nhất thế giới ở cái đặc thù.

2.1.3. Tư tưởng về sự thống nhất của thế giới ở cái phổ biến

2.2.1. Tư tưởng về sự hài hòa của các mặt đối lập.
2.2.2. Tư tưởng về sự đấu tranh của các mặt đối lập.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới ở nƣớc ta hiện nay, việc chú trọng hơn nữa
đến công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử triết học luôn có một ý nghĩa
rất quan trọng đối với sự đổi mới tƣ duy lý luận nói chung và sự phát triển
các khoa học triết học nói riêng. Ở nƣớc ta, trong suốt một thời gian dài,
do nhiều nguyên nhân khác nhau, công việc này dƣờng nhƣ chƣa đƣợc
quan tâm đúng mức. Có thể nói, chúng ta chủ yếu mới chỉ biết đến triết
học mácxít, mới chỉ nghiên cứu đƣợc phần nào lịch sử tƣ tƣởng dân tộc
và còn ít nghiên cứu về triết học ngoài mácxít, ít quan tâm tới lịch sử triết
học, đặc biệt là triết học thời cổ đại- cội nguồn của triết học hiện đại, nhƣ
Ph.Ăngghen đã viết: “Từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học
Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới
quan sau này”[24, tr. 491](*). Tình hình đó hiện nay đã đƣợc cải thiện phần
nào, nhƣng so với nhu cầu phát triển của tƣ duy lý luận thì điều này vẫn
chƣa đáng là bao.
Ph.Ăngghen đã từng nói: “Một dân tộc đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học thì không thể không có tƣ duy lý luận”, nhƣng tƣ duy lý luận ấy
“cần phải đƣợc phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới
nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời

trƣớc”[24, tr. 487-489], vì “triết học là sự tổng kết tƣ duy” (Hêghen). Mặt
khác, vì lịch sử phát triển của tƣ duy đƣợc tổng kết trong lịch sử triết học,
nên chính lịch sử triết học là cơ sở để hình thành phép biện chứng.
Phép biện chứng là một khoa học triết học và nếu xét trên nhiều
phƣơng diện, nó là hiện tƣợng có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn nhƣ bản
thân triết học. Lịch sử phép biện chứng hình thành, phát triển từ khi triết
học ra đời, mà đỉnh cao là phép biện chứng mácxít. Phép biện chứng
(

Từ đây: - Số đầu là số thứ tự tài liệu tham khảo.
- Số sau là số trang của tài liệu tham khảo.


2

mácxít dựa trên truyền thống tƣ tƣởng biện chứng của nhiều thế kỷ, vạch
ra những đặc trƣng chung nhất của biện chứng khách quan, nghiên cứu
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã
hội loài ngƣời và của tƣ duy. Nó là chìa khóa để con ngƣời nhận thức và
chinh phục thế giới. Nắm vững những nguyên tắc phƣơng pháp luận của
phép biện chứng duy vật không những là một nhân tố cơ bản để hình thành
thế giới quan khoa học, mà còn là điều kiện tiên quyết cho sự sáng tạo của
các chính đảng cách mạng.
Lịch sử tƣ tƣởng và thực tiễn cách mạng cho thấy, khi nào chúng ta
nắm vững lý luận phép biện chứng, biết vận dụng các nguyên tắc phƣơng
pháp luận của nó một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, biết lấy
“cái bất biến” ứng vào “cái vạn biến” - nhƣ Chủ tịch Hồ Chí Minh nói - thì
vai trò và hiệu lực cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội càng đƣợc tăng cƣờng.
Ngƣợc lại, cách nghĩ, cách làm chủ quan duy ý chí, siêu hình sẽ dẫn đến
sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng, gây tổn thất cho cách mạng và quá

trình phát triển xã hội nói chung. Thắng lợi của cách mạng Việt nam trong
giai đoạn đấu tranh bảo vệ Tổ quốc là một minh chứng cho điều đó. Hiện
nay, nƣớc ta đang trong giai đoạn tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới,
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, việc nắm vững bản chất
phép biện chứng duy vật càng là một nhu cầu bức thiết để đổi mới tƣ duy.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đƣờng lối của Đảng là biện chứng chủ quan phản ánh
biện chứng khách quan của thực tiễn cách mạng Việt nam. Nó đang là định
hƣớng tƣ tƣởng và là công cụ tƣ duy sắc bén để đƣa cách mạng nƣớc ta
tiến lên giành thắng lợi trên con đƣờng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, để nắm vững phép biện chứng mácxít, không thể không
nghiên cứu sự hình thành và phát triển phép biện chứng trong lịch sử, đặc
biệt là phép biện chứng Hy Lạp cổ đại - một trong những thời kỳ dài nhất,


3

chói lọi nhất trong sự phát triển tƣ tƣởng biện chứng của nhân loại. Việc
nghiên cứu phép biện chứng Hy Lạp cổ đại còn cho phép tái hiện quá trình
xuất hiện và “vƣợt bỏ” hợp quy luật của phép biện chứng duy vật mácxít
nhƣ là một giai đoạn cao về chất của các hình thái của phép biện chứng.
Từ những điều trình bày trên, có thể nói, việc nghiên cứu triết học Hy Lạp
cổ đại nói chung, những tƣ tƣởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ
đại nói riêng là một công việc hết sức quan trọng và cần thiết, vừa mang ý
nghĩa lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn. Chính từ những suy nghĩ nhƣ
vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp
cổ đại” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và phép biện chứng Hy Lạp cổ đại

nói riêng luôn nhận nhận đƣợc sự quan tâm từ phía các nhà triết học, đặc
biệt là các nhà triết học mácxít. Có thể nói, tất cả các nhà triết học trƣớc
khi xây dựng học thuyết của mình, họ đều phải nghiên cứu lịch sử triết học
trƣớc đó. Ngay từ thời cổ đại, Platôn, Arixtôt đều là những nhà lịch sử triết
học. Đặc biệt, trong thời kỳ cổ đại, phải kể đến Điôgien Laécxơ - nhà triết
học Hy Lạp cổ đại sống vào nửa đầu thế kỷ thứ III trƣớc công nguyên,
ngƣời duy nhất đã để lại cho chúng ta một tác phẩm đồ sộ gồm 10 tập có
giá trị nhƣ một công trình về lịch sử triết học, trong đó trình bày tiểu sử và
học thuyết của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, từ các nhà duy vật đầu tiên
thuộc trƣờng phái Milê đến Xếchtút Empiriquýt. Gần đây, trong nhiều bộ
lịch sử triết học phƣơng Tây đồ sộ, bao giờ cũng có phần dành riêng cho
triết học Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, đối với họ, vấn đề phép biện chứng
không phải là vấn đề đƣợc quan tâm đặc biệt. Có thể kể ra đây một số tác
phẩm có trong thƣ viện của Viện triết học, chẳng hạn nhƣ: Sources of the
Western tradition - Boston: Houghton mifflin Company, 1987; A history of
phylosophy, Vo1. Greece & Rome/ S.J. Frederik Copleston - New York:
Image books, 1962; A history of Western Philosophy. Vo1. Beginnings to


4

plotinus, Ralph M.McInerny - Chicago: Henry regnery company, 1963;
Doing philosophy historically, Peter H.Hare - New York...
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin là những ngƣời rất
quan tâm tới triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và phép biện chứng Hy Lạp
cổ đại nói riêng. Quan điểm của các ông về lịch sử triết học có ý nghĩa
phƣơng pháp luận quan trọng cho việc nghiên cứu phép biện chứng Hy
Lạp cổ đại, đặc biệt là quan điểm sau đây của V.I.Lênin trong Bút ký triết
học : “Ủng hộ tính lịch sử nghiêm khắc trong lịch sử triết học để khỏi gán
cho những ngƣời thời cổ một sự “phát triển” nào đó của các ý niệm của

họ, dễ hiểu đối với chúng ta, nhƣng trên thực tế chƣa thể có ở họ”[18, tr.
262].


Liên Xô, từ những năm 20 của thế kỷ XX, vấn đề phép biện chứng

Hy Lạp cổ đại đã thu hút đƣợc sự chú ý của nhiều nhà triết học Xôviết:
M.A.Đƣnnhíc (Phép biện chứng của Hêraclit Ephedơ), B.X.Chanƣsép
(Phái ngụy biện) và V.K.Xêrêgiơnicốp (Khảo luận về lịch sử triết học).
Bút ký triết học của V.I.Lênin lần đầu tiên đã đƣợc M.A.Đƣnnic sử dụng
nhƣ một hệ thống phƣơng pháp luận để phân tích lịch sử triết học và lịch
sử phép biện chứng trong Khảo luận về lịch sử triết học ở Hy Lạp thời cổ
điển.
Sau đó các vấn đề của phép biện chứng cổ đại đã đƣợc các nhà triết
học Nga nghiên cứu trong rất nhiều ấn phẩm đa dạng, trong số đó có ba tác
phẩm mang tính tổng kết của tập thể tác giả: Lịch sử triết học (t.1,
M.,1940), Lịch sử triết học (t.1, M.,1957) và Từ điển bách khoa triết học
(t.I-V, M.,1960 -1970), cũng nhƣ tác phẩm chuyên về triết học cổ đại của
các nhà lịch sử triết học lớn của Nga: Lịch sử triết học cổ đại của
V.Ph.Asmuxơ (M.,1965), Lịch sử lôgic học của A.O.Macôvenxki
(M.,1967), Lịch sử mỹ học cổ đại (t.I, M., 1963; t.II, M., 1969) của
A.Ph.Lôxép.


5



Việt Nam, các công trình nghiên cứu về lịch sử triết học Hy Lạp cổ


đại không nhiều, có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu, nhƣ Triết
học Hy Lạp cổ đại của Thái Ninh (Nhà xuất bản sách giáo khoa Mác Lênin, 1987); Triết học cổ đại Hy Lạp - La mã của Phó giáo sƣ Hà thúc
Minh (Tài liệu lƣu hành nội bộ của Viện khoa học xã hội Việt Nam tại
thành phố Hồ Chí Minh; 1993); Triết học Hy Lạp cổ đại của Tiến sĩ Đinh
Ngọc Thạch (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia; 1999).
Đó là những công trình chuyên về lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Còn
trong các công trình sau, triết học Hy Lạp cổ đại cũng đƣợc bàn tới nhƣ một
bộ phận cấu thành của nó: Lịch sử triết học phương Tây của Đặng Thai Mai
(Nhà xuất bản sách giáo viên; 1950); Bộ Lịch sử triết học do Giáo sƣ Tiến sĩ
Nguyễn Hữu Vui làm chủ biên. Cuốn sách đã đƣợc tái bản nhiều lần và lần
gần đây nhất là vào năm 1998; Lịch sử triết học của Phó giáo sƣ Bùi Thanh
Quất (Nhà xuất bản giáo dục, 2000); Lịch sử triết học Tây phương của Lê Tôn
Nghiêm (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000); Triết học Tây Âu
trước Mác của Tiến sĩ Lê Thanh Sinh (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh,
2001); Lịch sử triết học - t.1: Triết học cổ đại do tiến sĩ Nguyễn Thế Nghĩa và
Tiến sĩ Doãn Chính làm chủ biên (Nhà xuất bản khoa học xã hội, 2002). Tuy
nhiên, còn phải kể đến những tác phẩm dịch, đặc biệt là từ tiếng Nga, nhƣ
Lịch sử triết học phương Tây do Đặng Thai Mai dịch, xuất bản năm 1956;
Lịch sử triết học: triết học của xã hội chiếm hữu nô lệ (Nxb Sự thật, Hà nội,
1958); ... Trong các công trình này, khi trình bày học thuyết của các nhà triết
học tiêu biểu trong lịch sử triết học cổ đại, tƣ tƣởng biện chứng của họ cũng
đƣợc đề cập tới. Đặc biệt là cuốn Lô gích học biện chứng của E.V.Ilencôp do
Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn dịch (Nxb Văn hóa thông tin, 2003). Trong cuốn
sách này, Ilencôp đã đƣa ra những suy ngẫm sâu sắc về con đƣờng giải quyết
nhiệm vụ tạo lập Lôgic học với chữ L viết hoa mà V.I.Lênin đã nói. Đó là việc
phải làm thế nào, dựa trên những nguyên tắc nào và cần tính đến những mối
liên hệ


6


lôgic và lịch sử nào để xây dựng, phát triển học thuyết biện chứng duy vật
nhƣ là khoa học triết học chỉnh thể. Điều đó cũng có ý nghĩa định hƣớng
đối với chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này.
Ngoài ra, còn những bài viết đăng trên Tạp chí Triết học của Phó giáo
sƣ, Tiến sĩ Đặng Hữu Toàn, chẳng hạn nhƣ: Học thuyết về “dòng chảy”
trong triết học Hêraclít (số 7 năm 2001); Quan niệm của Hêraclít về sự hài
hòa và đấu tranh của các mặt đối lập, về tính thống nhất của Vũ trụ (số
1năm 2002); Bức tranh nguyên tử về thế giới trong triết học Đêmôcrít (số
8 năm 2002); Khái niệm Logos trong triết học Hêraclit (số 4 năm 2004)...
Cũng đã có một số công trình chuyên bàn về một vấn đề nào đó của một
tác gia nào đó trong triết học Hy Lạp cổ đại, nhƣ: Arixtôt với học thuyết
phạm trù của Tiến sĩ Nguyễn Văn Dũng.
Đƣơng nhiên, triết học Hy Lạp cổ đại nói chung, phép biện chứng Hy
Lạp cổ đại nói riêng còn đƣợc trình bày trong những tác phẩm bàn về các
nhà tƣ tƣởng lớn thời cổ đại với cách tiếp cận khác nhƣ: Câu chuyện triết
học của Will Durant do Trí Thảo và Bửu Đính dịch (Nxb Đà nẵng, 2000);
Mười nhà tư tưởng lớn của thế giới của Vƣơng Đức Phong và Ngô Hiểu
Minh do Phong Đảo dịch (Nhà xuất bản Văn hóa - thông tin, Hà nội,
2003); Triết học Đông - Tây (Viện Thông tin khoa học xã hội, 1996)...
Nhƣ vậy, có thể nói, ở Việt Nam ta đã có một số công trình nghiên
cứu về triết học Hy Lạp cổ đại, song trong số các công trình đó, chƣa có
một công trình nào chuyên sâu về vấn đề tƣ tƣởng biện chứng trong triết
học Hy Lạp cổ đại, trừ tập 1 Phép biện chứng cổ đại nằm trong bộ bốn tập
Lịch sử phép biện chứng của các nhà triết học Nga do Viện triết học thuộc
Viện Hàn lâm khoa học Liên xô cũ xuất bản. Tập sách này đã đƣợc Tiến sĩ
Đỗ Minh Hợp dịch sang tiếng Việt, Phó giáo sƣ Tiến sĩ Đặng hữu Toàn
hiệu đính. Đây là bộ sách có tầm quan trọng bậc nhất của bộ môn lịch sử
triết học mà lần đầu tiên đã đƣợc dịch trọn bộ ra tiếng Việt. Nó cung cấp
nhiều thông tin hữu ích cho việc nghiên cứu lịch sử phép biện chứng nói



7

chung, lịch sử phép biện chứng Hy Lạp cổ đại nói riêng. Tuy nhiên, ở đó
cách tiếp cận của các nhà triết học Nga là theo từng trƣờng phái, từng triết
gia. Khác với cách tiếp cận đó, chúng tôi muốn đƣa ra một cách nhìn mới,
cách nhìn theo tiến trình phát triển những tƣ tƣởng biện chứng xuyên suốt
triết học Hy Lạp cổ đại.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
Mục đích của luận văn này là tái hiện một cách có hệ thống một số tƣ
tƣởng biện chứng cơ bản trong triết học Hy Lạp cổ đại để trên cơ sở đó,
chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của những tƣ tƣởng biện chứng sơ
khai này.
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, nhiệm vụ mà luận văn này phải giải
quyết là:
-

Phân tích những tiền đề cho sự ra đời triết học Hy Lạp cổ đại

nói chung, phép biện chứng Hy Lạp cổ đại nói riêng.
-

Phân tích một số tƣ tƣởng biện chứng cơ bản trong triết học

Hy Lạp cổ đại.
-

Đƣa ra một số đánh giá về những tƣ tƣởng này.


4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn.
Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi chỉ tập
trung vào các vấn đề về phép biện chứng đƣợc đặt ra ở giai đoạn cổ điển,
hay còn gọi là giai đoạn Hy Lạp hóa - La mã trong lịch sử Hy Lạp cổ đại.
Bởi vì, chính giai đoạn này, bắt đầu từ Talét và kết thúc ở Arixtốt (khoảng
từ đầu thế kỷ thứ VI đến cuối thế kỷ IV tr.CN), triết học Hy Lạp cổ đại đã
đƣa ra các tƣ tƣởng biện chứng sâu sắc nhất trong suốt toàn bộ lịch sử
triết học cổ đại. Mặc dù, tƣ tƣởng biện chứng vẫn đƣợc tiếp nối trong
nhiều thế kỷ cho tới tận thế kỷ V-VI.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.


8

Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên nền tảng lý luận là quan điểm của
các nhà sáng lập triết học Mác - Lênin về lịch sử triết học nói chung, triết
học Hy Lạp cổ đại nói riêng, đồng thời kế thừa, tham khảo có chọn lọc các
công trình của những nhà khoa học có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu mà chúng tôi sử dụng là những phƣơng
pháp nghiên cứu của lịch sử triết học, cụ thể là: phƣơng pháp lôgic kết hợp
với phƣơng pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, hệ thống hóa và so sánh...
6. Cái mới của luận văn.
Đây là luận văn đầu tiên ở Việt nam tập trung phân tích và luận giải
một số tƣ tƣởng cơ bản trong phép biện chứng Hy Lạp cổ đại. Trên cơ sở
đó, sơ bộ đánh giá những mặt tích cực cũng nhƣ những hạn chế trong các
tƣ tƣởng biện chứng này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Về mặt lý luận, luận văn góp phần vào việc nghiên cứu tƣ tƣởng triết
học Hy Lạp cổ đại nói chung, phép biện chứng Hy Lạp cổ đại nói riêng.

Về mặt thực tiễn, luận văn có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy triết học nói chung, lịch sử triết
học nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học đã
công bố của tác giả liên quan đến đề tài luận văn và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung cơ bản của luận văn đƣợc kết cấu thành 2 chƣơng, 4 tiết.


9

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG
TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1. CÁC ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH NỀN
TRIẾT HỌC VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1.1. Các nền văn minh có giai cấp đầu tiên ở miền Đông Địa Trung
Hải. Thần thoại, khoa học và tiền triết học
Lịch sử Hy Lạp cổ đại và nền văn hóa của nó là một bộ phận không
thể tách rời với lịch sử các nƣớc Cận Đông Địa Trung Hải. Không những
nguồn gốc, mà cả sự phát triển tiếp theo của văn hóa vật chất, đặc biệt là
văn hóa tinh thần của nó chỉ đƣợc nhận thức đúng đắn khi tính đến nhƣng
ảnh hƣởng to lớn và sự giao lƣu với các nền văn hóa Ai Cập, Babilon,
Phini và các nền văn hóa Cận Đông khác.
Trong các nguồn tài liệu sử học mácxít, ngƣời ta thƣờng gọi hình thái
có giai cấp đầu tiên đã xuất hiện ở đây là hình thái chiếm hữu nô lệ. Thuộc
về hình thái này, trƣớc hết C.Mác kể đến “chế độ nô lệ kiểu gia trƣởng
hƣớng vào việc sản xuất ra tƣ liệu sinh hoạt trực tiếp”. Chế độ xã hội có
giai cấp ít bị phân hóa, sơ khai này đã tồn tại ở Sumerơ và Akađơ ở Ai
Cập, Babilon và các nƣớc Cận Đông khác. Ở các nƣớc này, việc mở mang

lãnh thổ và phát triển sản xuất đều nhằm phục vụ cho các giai cấp thống
trị. Mọi liên minh nhà nƣớc đều đƣợc kích thích bởi nhu cầu tƣới tiêu để
canh tác nằm ở các lƣu vực sông Tigơrơ, Eprtơ, Nin.
Cơ sở kinh tế của các nhà nƣớc có giai cấp đầu tiên đó là nền nông
nghiệp sử dụng công cụ bằng bạc. Mặc dù chúng ta gọi các nhà nƣớc đó là
các nhà nƣớc chiếm hữu nô lệ, song lao động của ngƣời nô lệ ở đây vẫn
chƣa phải là hình thức lao động cơ bản, mà lao động giữ vai trò cơ bản ở
đây là lao động của các thành viên tự do về mặt hình thức sống trong nhiều
công xã nông thôn. Còn các tầng lớp thƣợng lƣu tập hợp xung quanh ngai


10

vàng nhà vua chủ yếu sống nhờ sự bóc lột một cách trực tiếp và phi kinh tế
đối với các thành viên có tự do hình thức trong những công xã nông thôn.
Nền kinh tế của các nhà nƣớc phƣơng Đông cổ đại đầu tiên chủ yếu
mang tính chất tự nhiên, vai trò của buôn bán là không đáng kể. Vai trò đó
hoàn toàn phù hợp với tính chất bảo thủ của quan hệ kinh tế - xã hội, với
tình trạng thủ công nghiệp mới bắt đầu tách ra khỏi nông nghiệp, với sự
phát triển chƣa đáng kể của đời sống thị thành. Tính chất bảo thủ đó thể
hiện rõ nhất ở tính ổn định của công xã nông thôn tại các nƣớc phƣơng
Đông cổ đại, nơi mà các công xã kiểu đó tạo thành những đơn vị sản xuất,
canh tác lúa nƣớc và gắn liền với thủ công nghiệp, đã tồn tại hàng thế kỷ
và thậm chí hàng nghìn năm dƣới một hình thức ít nhiều không thay đổi.
Cho nên, sở hữu cá nhân ở các nƣớc này cũng kém phát triển.
Trong điều kiện chế độ nhà nƣớc về cơ bản vẫn mang tính chất công
xã, buôn bán chƣa phát triển, nền kinh tế tự nhiên ổn định, phƣơng thức
cƣỡng bức và bóc lột mang tính chất phi kinh tế, thì quan hệ giữa ngƣời
với ngƣời, theo C.Mác, chƣa đƣợc vật hóa ở mức độ đáng kể, nó còn
mang tính chất trực tiếp, tự nhiên, không phải vật chất, mà dƣờng nhƣ là

mang tính chất cá nhân.
Phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của các nhà nƣớc phƣơng Đông
cổ đại đó là đời sống tinh thần của họ, mà trƣớc hết là các quan niệm về
thần thoại. Đó là hình thái đầu tiên, chƣa có sự phân hóa, hình thái thống
nhất của ý thức xã hội, và trong điều kiện tan rã của chế độ bộ tộc nguyên
thủy và sự chuyển hóa của nó thành chế độ nhà nƣớc có giai cấp. Dựa trên
cơ sở của hình thái đó, ở nó đã xuất hiện hình thái phân hóa hơn của ý thức
xã hội, nhƣ trƣờng ca, sử thi.
Thần thoại xuất hiện với tƣ cách là sự phản ánh giới tự nhiên và đời
sống xã hội vào ý thức của con ngƣời nguyên thủy. Nhƣng đó không phải là
sự phản ánh trực tiếp về giới tự nhiên và đời sống xã hội của con ngƣời
nguyên thủy, mà là sự nhận thức đƣợc đặc trƣng bởi các mối quan hệ mang


11

tính chất liên tƣởng - cảm tính. Sự nhận thức đó trƣớc hết đƣợc thực hiện
bằng con đƣờng so sánh giữa môi trƣờng xã hội mà trực tiếp và chủ yếu là
quan hệ huyết thống với các hiện tƣợng tự nhiên đầy bí ẩn. Cần phải nhấn
mạnh rằng, sự nhận biết và quan sát trực tiếp về giới tự nhiên và quan hệ
huyết thống nhƣ vậy đã diễn ra không phải với một ý thức bất biến nào đó,
mà với một ý thức đang biến đổi, dù là rất chậm chạp của con ngƣời cổ
đại. Qua đó, lịch sử thần thoại không những phản ánh quan hệ luôn biến
đổi giữa con ngƣời với tự nhiên, mà nó còn phản ánh cả những sự biến đổi
mang tính tiến bộ trong bản thân ý thức của “con ngƣời có lý tính”, trong
tƣ duy mà nội dung biểu cảm của nó ngày một tích tụ thêm các yếu tố
lôgíc - khái niệm ở “con ngƣời có lý tính” đó.
Tuy nhiên, trong nền văn hóa cổ đại của các nƣớc Cận Đông, bộ phận
quan trọng cấu thành nền văn hóa đó là tri thức khoa học mà lần đầu tiên,
đã xuất hiên ở chính nơi đây. Đƣơng nhiên, tri thức mà nhân loại đạt đƣợc

qua thƣc tiễn nhiều nghìn năm cũng đã tham dự vào thế giới quan thần
thoại, vì thiếu tri thức thì về thực chất, không thể có một thế giới quan nào
cả. Song, việc tích lũy kinh nghiệm thực tế ở Sumerơ, Babilon và Ai Cập
gắn liền với việc canh tác lúa nƣớc, với các công trình xây dựng trên hầu
khắp lãnh thổ, nhƣ các đền đài lớn, các kim tự tháp khổng lồ và cùng với
việc đáp ứng các nhu cầu khác, đã làm cho một số môn khoa học xuất hiện
và phát triển. Một tiền đề quan trọng của quá trình đó là sự xuất hiện chữ
viết. Chữ viết xuất hiện đã góp phần duy trì kinh nghiệm cộng đồng và duy
trì tri thức của con ngƣời một cách có hiệu quả hơn nhiều so với trí nhớ và
sự truyền khẩu.
Trong số các môn khoa học đó thì toán học và thiên văn học giữ một
vai đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của tƣ duy con ngƣời và toàn
bộ sự tiến bộ văn hóa tiếp theo. Các môn khoa học đó mang tính chất ứng
dụng, bởi các chân lý của chúng đƣợc phát hiện ra một cách thuần túy kinh
nghiệm chủ nghĩa và phục vụ cho các mục đích thực tiễn trực tiếp. Tuy


12

nhiên, ở đó cũng đã có mầm mống của môn toán học chứng minh, suy diễn
- lý luận.
Nhƣ vậy, có thể nói, trong nền văn hóa tinh thần của Babilon và Ai
Cập đã có sự phát triển đáng kể của tƣ duy trừu tƣợng, khi mà thế giới
quan thần thoại cụ thể vẫn là thế giới quan phổ biến nhất, chung nhất của
các nền văn hóa đó. Nhƣng điều đó không có nghĩa là thế giới quan triết
học đã xuất hiện ở đây, mặc dù theo một số tài liệu đƣợc ghi bằng chữ
phƣơng Đông cổ đại đã cho thấy có những chuyển biến đáng kể trong thế
giới quan thần thoại truyền thống.
Giống nhƣ toàn bộ nền văn hóa tinh thần Cận Đông cổ đại, nền văn
hóa Sumerơ - Babilon và nền văn hóa Ai Cập rút cục vẫn chƣa chín muồi

cho sự xuất hiện triết học với tƣ cách một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
đặc thù. Chính các nguyên nhân mang tính ý thức hệ - xã hội đã cản trở sự
xuất hiện đó.
Sự xuất hiện khoa học ở các nƣớc Cận Đông đã dẫn tới việc tách lao
động trí óc ra khỏi lao động chân tay và hình thành nên một lớp ngƣời đặc
biệt với tƣ cách là các đại biểu của lao động trí óc. Đó là những ngƣời xuất
thân từ tầng lớp tăng lữ và sau khi trở thành những ngƣời lao động trí óc, họ
đã dần dần hình thành một đẳng cấp đặc biệt. Tuy nhiên, sự nghiên cứu khoa
học và việc điều hành công việc sản xuất chỉ là một dạng hoạt động, hơn nữa
không phải là dạng hoạt động quan trọng nhất trong những dạng hoạt động
của giới tăng lữ. Dạng hoạt động quan trọng nhất trong giới tăng lữ là thực
hiện các chức năng ý thức hệ - tôn giáo, thờ cúng - các chức năng đƣợc thiết
định bởi tính tất yếu phải duy trì và củng cố xã hội có giai cấp bóc lột. Trong
điều kiện chế độ nhà nƣớc ngày một trở nên cồng kềnh thì lĩnh vực cái siêu
nhiên, yếu tố sùng bái tôn giáo trong thế giới quan thần thoại cũng tăng lên.
Việc xây dựng các kim tự tháp Ai Cập cổ đại nổi tiếng và các đền thờ ở
Sumerơ - Babilon khổng lồ, vƣơn lên tận trời xanh dƣới dạng những cái tháp
có thang bậc, là những minh chứng cho điều đó.


13

Việc xây dựng các đền thờ thần thánh đó đã cho thấy, khi đó khoa học phải
phục vụ tôn giáo. Trong các nhà nƣớc thần quyền ở phƣơng Đông cổ đại,
cùng với sự ổn định đặc biệt của công xã nông thôn và các hình thức xã
hội khác, cùng với sự thần thánh hóa các vị Hoàng đế và các lãnh chúa
khác - những ngƣời tƣợng trƣng cho chính quyền nhà nƣớc một cách vô
điều kiện, thì truyền thống có hàng nghìn năm tồn tại đã thể hiện ra nhƣ
một lƣc lƣợng có quyền sai khiến và ban phát. Nó loại trừ việc hợp lý hóa
thế giới quan - là cái đƣa tới chỗ làm cho triết học xuất hiện.

Tuy nhiên, nội dung tiến bộ của nền văn hóa cổ đại ở các nƣớc Cận
Đông đã không hoàn toàn biến mất khỏi kho báu tinh thần của nhân loại.
Nền văn hóa Hy Lạp cổ đại đã không thể có đƣợc nếu không khai thác nó .
1.1.2. Tính đặc thù của chế độ kinh tế - xã hội và đời sống tư
tưởng - văn hóa ở Hy Lạp cổ đại
Lịch sử nhà nƣớc có giai cấp ở Hy Lạp cổ đại bắt đầu từ thời đại
Kritô - Miken - thời đại có lẽ đã xuất hiện vào cuối thiên niên kỷ thứ ba - là
nền văn hóa thuộc kỷ nguyên bạc. Các tài liệu khảo cổ học đã cho thấy mối
quan hệ giữa nền văn minh này với dân tộc Ai Cập và các dân tộc Cận
Đông khác đã xuất hiện ngay từ thiên niên kỷ thứ hai. Vào cuối thiên niên
kỷ này, nhiều bộ lạc ở Bắc Hy Lạp đã di chuyển xuống miền Nam và hình
thành nên cái gọi là cuộc chinh phạt của ngƣời Đôriên. Nó đã tiêu diệt các
nhà nƣớc Kritô - Akhây và mở ra một thời đại mới trong lịch sử Hy Lạp cổ
đại mà ngƣời ta quen gọi là thời đại Hôme, với các tác phẩm sử thi nổi
tiếng của ông là Iliát và Ôđixê.
Tính phát triển không đồng đều của lịch sử đã tăng lên ở thời đại này,
xã hội chiếm hữu nô lệ đƣợc định hình ở Hy Lạp cổ đại lúc đó bắt đầu sản
xuất và sử dụng các công cụ bằng sắt - thứ công cụ có hiệu quả hơn nhiều
so với công cụ bằng bạc - đã mở ra khả năng to lớn để phát triển nông
nghiệp. Đây là điều hết sức quan trọng đối với cƣ dân Hy Lạp cổ đại, nơi
mà đất đai khô cằn và không thuận tiện đối với việc tƣới tiêu. Các công cụ


14

bằng sắt đã đem lại cho ngƣời Hy Lạp cổ đại một uy quyền đối với tự
nhiên lớn hơn một cách đáng kể so với ngƣời Ai Cập và ngƣời Sumerơ Babilon.
Quá trình tan rã của chế độ bộ lạc nguyên thủy, quá trình hình thành
xã hội có giai cấp và đời sống nhà nƣớc ở Hy Lạp cổ đại kéo dài vài thế kỷ
(vào khoảng từ thế kỷ XI-VIII tr.CN). Song dẫu sao thì quá trình đó vẫn

diễn ra ở đây nhanh hơn so với ở các nƣớc phƣơng Đông cổ đại. Và, điều
quan trọng là ở đây, những quá trình đó đã dẫn tới các hậu quả kinh tế - xã
hội khác. Một trong những hậu quả đó là việc giảm đang kể vai trò tính ổn
định của công xã nông thôn. Vai trò của sở hữu tƣ nhân, trƣớc hết là sở
hữu của giới qúy tộc nông nghiệp và của giới qúy tộc dòng dõi ở Hy Lạp
cổ đại là lớn hơn nhiều so với ở các nƣớc phƣơng Đông cổ đại. Tƣơng
ứng với hậu quả đó là sự tan rã nhanh chóng của công xã nông thôn ở Hy
Lạp cổ đại. Gắn liền với quá trình đó là quá trình hình thành nên vô số nhà
nƣớc - thị thành ở Hy Lạp cổ đại. Vai trò của thành thị trong đời sống kinh
tế - xã hội, trong quá trình hình thành và phát triển chế độ nhà nƣớc ở Hy
Lạp cổ đại là lớn hơn và mang tính quyết định hơn nhiều so với các nƣớc
phƣơng Đông cổ đại. Lý do cơ bản của nó là việc sử dụng các công cụ
bằng sắt trong sản xuất thủ công nghiệp đã khiến cho thủ công nghiệp
thoát khỏi hoạt động sản xuất nông nghiệp trên một quy mô rộng lớn mà
các nƣớc phƣơng Đông cổ đại không hề biết đến.
Các thị thành Hy Lạp cổ đại đã đi đến chỗ đối lập với nông thôn một
cách gay gắt hơn nhiều so với các thị thành phƣơng Đông cổ đại. Buôn bán
trở nên sôi động ở trong lòng nhà nƣớc - thị thành, giữa các công xã cũng
nhƣ trên quy mô cả nƣớc và giữa các nhà nƣớc thị thành với nhau. Các nhà
nƣớc - thị thành Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ VIII-VI tr.CN trải rộng khắp miền
Đông Địa Trung Hải (một phần miền Tây, Nam Italia và Xixin) đã duy trì
quan hệ buôn bán, văn hóa, ...với các thị thành - mẫu quốc ở chính Hy Lạp, ở
quần đảo Êgin và ven biển phía Tây bán đảo Tiểu á (Iôni). Bản


15

thân vị trí địa lý của thế giới Hy Lạp - Êgin, thế giới nằm giữa các nƣớc
Cận Đông cùng với chế độ nhà nƣớc và nền văn hóa nhiều thế kỷ của nó,
đã khiến cho nó cùng với các nƣớc phƣơng Tây bừng tỉnh và hòa nhập

vào cuộc sống lịch sử, đồng thời biến các thị thành Hy Lạp cổ đại thành
trung tâm buôn bán và sản xuất hàng hóa hết sức sôi động vào thời kỳ đó.
Mức độ buôn bán và sản xuất hàng hóa sôi động đó có tầm quan trọng
rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự xuất hiện đồng tiền vào
thế kỷ VII tr.CN. Quá trình phát triển việc trao đổi hàng hóa ở một số nƣớc
phƣơng Đông cổ đại cũng đã dẫn tới việc sử dụng các thỏi hợp kim làm
đơn vị chung để đo giá trị. Nhƣng đó là một hiện tƣợng còn ít nhiều mang
tính ngẫu nhiên, và không dẫn đến sự tan dã đáng kể của nền kinh tế tự
nhiên. Sự xuất hiện đồng tiền có quốc huy đã thể hiện rõ các thành tựu to
lớn về sự phân công lao động, cƣờng độ sản xuất hàng hóa trong xã hội Hy
Lạp cổ đại.
Tất cả những điều đó cho thấy sự khác biệt về nguyên tắc của nền văn
minh Hy Lạp cổ đại so với nền văn minh ở các nƣớc phƣơng Đông cổ đại.
Cùng với quá trình phát triển kéo dài vài thế kỷ (vào khoảng thế kỷ VIIIVI tr.CN) cái có ý nghĩa ngày một gia tăng ở nhà nƣớc - thị thành Hy Lạp
cổ đại là quan hệ trao đổi và nhƣ C.Mác đã nói, quan hệ vật chất - giữa các
cá nhân mà địa vị xã hội đƣợc xác định bởi giá trị tài sản của họ.
Bƣớc tiến lớn trong quá trình phát triển của cá nhân con ngƣời cũng
đã đƣợc thực hiện ở chính thế giới Hy Lạp cổ đại, và hơn nữa, trƣớc hết là
nhờ sự tiến bộ của quan hệ vật chất. “Càng đi ngƣợc lại dòng lịch sử,
chúng ta càng thấy cá nhân - và do đó cá nhân sản xuất cũng vậy - thể hiện
ra là bị lệ thuộc, là một thành viên của một tổng thể lớn hơn: lúc đầu cá
nhân đó gắn liền một cách hoàn toàn tự nhiên với gia đình và với gia đình
đã phát triển thành thị tộc; sau đó thì gắn liền với công xã dƣới những hình
thái khác nhau, sản sinh ra do sự đụng độ và hợp nhất giữa các thị tộc”[23,
tr. 855].


16

Đƣơng nhiên, tính chỉnh thể của cộng đồng vẫn đƣợc duy trì ở mọi

thời đại trong quá trình phát triển lịch sử tiếp theo và ngày một phức tạp
hơn theo tiến trình lịch sử nhân lọai. Nhƣng bản chất của tính chỉnh thể đó
đã thay đổi đáng kể. Nó đem lại sự tự do ngày một lớn hơn cho sáng kiến
cá nhân (đƣơng nhiên, trƣớc hết là cho các cá nhân thuộc giai cấp thống trị
về mặt kinh tế và chính trị). Thậm chí ở giai đoạn sơ khai của nó, giai đoạn
đƣợc ghi lại trong Iliát và Ôđixê, chúng ta còn bắt gặp một sự phát triển
hết sức đa dạng của cá nhân. Ở đây có thể thấy không những cá tính mạnh
mẽ của tầng lớp qúy tộc, vua chúa và tƣớng lĩnh, mà cả những hình ảnh
giàu sắc thái của những ngƣời tự do bình thƣờng, thậm chí của cả những
ngƣời nô lệ. So với xã hội phƣơng Đông cổ đại, xã hội Hy Lạp cổ đại bị
phân hóa một cách đáng kể. Thời đại Hôme đã để lại một tầng lớp đông
đảo, bao gồm những ngƣời tiểu nông, các thành viên tự do của công xã
nông thôn, và đối đầu với họ là tầng lớp qúy tộc dòng dõi bao gồm các chủ
điền lớn, các nhà qúy tộc - những ngƣời cố gia tăng sở hữu của mình nhờ
các chủ điền nhỏ và công xã của họ. Cơ cấu xã hội đó trở nên phức tạp hơn
nhiều trong điều kiện nhà nƣớc - thị thành. Sản xuất thủ công nghiệp, buôn
bán, cuộc sống đô thị đã có ảnh hƣởng mang tính phá hủy đối với công xã
nông thôn, và những ngƣời nông dân bị phá sản đã trở thành nguồn bổ
sung cho thành phố. Tầng lớp thợ thủ công đông đảo đƣợc hình thành ở
đây, tầng lớp thủy thủ và những ngƣời có nghề nghiệp khác tạo thành các
nhóm thị dân đông đảo. Lớp thị dân giàu có, chủ nhân các xƣởng thủ công
nghiệp, thƣơng nhân, v.v.. bắt đầu giữ một vai trò to lớn. Đấu tranh giai
cấp khốc liệt là nét đặc trƣng cho nhà nƣớc - thị thành Hy Lạp cổ đại và
xét về phƣơng diện này thì nó khác xa với các nƣớc phƣơng Đông cổ đại.
Vào khoảng thế kỷ VIII tr.CN, tầng lớp dân tự do dƣới sự lãnh đạo
của bộ phận giàu có nhất và đƣợc những ngƣời nông dân ủng hộ đã tiến
hành các cuộc đấu tranh chống lại các nhà nƣớc - thị thành ở Hy Lạp cổ
đại. Vào thế kỷ V tr.CN, Aten đã trở thành trung tâm kinh tế, đặc biệt là



17

trung tâm văn hóa - tinh thần dƣờng nhƣ của toàn thế giới Hy Lạp cổ đại.
Ngay từ cuối thế kỷ VII tr.CN, ở đây, ngƣời ta đã ghi chép và mã hóa cái
gọi là “tập quán pháp” mà dân cƣ của Nhà nƣớc thị thành Aten đã chấp
nhận và đƣa vào các mối quan hệ về tài sản cũng nhƣ các mối quan hệ
khác của họ. Khi đó, trong quá trinh mã hóa, ngƣời ta đã áp dụng một số
đạo luật cần thiết để điều tiết các mối quan hệ xã hội mới, trƣớc hết là
quan hệ sở hữu.
Việc mã hóa luật pháp và sự kiện xuất hiện bộ luật thành văn có một
ý nghĩa xã hội to lớn mà nhờ đó, sự chuyên quyền của tầng lớp qúy tộc đối
với tầng lớp dân tự do của nhà nƣớc (đặc biệt là đối với nông dân) bị hạn
chế đáng kể. Vào đầu thế kỷ tiếp theo (thế kỷ VI tr.CN), các cải cách của
Sôlông đã góp phần hoàn thiện quá trình đó. Nhờ có những cải cách này
mà địa vị nô lệ do vay nợ đã bị thủ tiêu, đất đai bị bọn qúy tộc chiếm đoạt
đã đƣợc hoàn trả lại cho chủ nhân trƣớc đó của nó, việc sử dụng những
công dân Aten làm nô lệ cũng bị cấm. Các cải cách của Sôlông cũng nhƣ
các cải cách sau đó của Klixphen vào cuối thế kỷ VI đã có một ý nghĩa
mang tính nguyên tắc không chỉ đối với Aten, mà còn đối với nhiều nhà
nƣớc - thị thành Hy Lạp cổ đại khác .
Các cải cách đó đã biến Aten thành nhà nƣớc thị thành tiêu biểu ở Hy
Lạp cổ đại. Vốn là một dạng xã hội thu nhỏ của Hy Lạp cổ đại, trong toàn
bộ lịch sử của mình, Aten dƣờng nhƣ đã trải qua mọi hình thức tổ chức
chính trị vốn đặc trƣng cho nhà nƣớc - thị thành Hy Lạp cổ đại. Khác với
các nƣớc Cận Đông thời đó, nét đặc trƣng nhất cho cả Aten lẫn nhiều nhà
nƣớc - thị thành Hy Lạp cổ đại khác là sự thống trị của tầng lớp dân tự do đó là đại bộ phận nhân dân (trừ những ngƣời nô lệ), những ngƣời luôn thể
hiện ở mức độ cao tính tích cực chính trị của mình. Cho nên, nó đƣợc gọi
là chế độ dân chủ.
Sức mạnh và thế mạnh của các nhà nƣớc - thị thành Hy Lạp cổ đại đã
thể hiện rõ trong giai đoạn diễn ra cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tƣ vào



18

thế kỷ V tr.CN khi mà Aten, Spác và các nhà nƣớc thị thành Hy Lạp cổ đại
khác đã giáng cho nền quân chủ Ba Tƣ hùng mạnh - một trong các “siêu
cƣờng” của thế giới cổ đại - những đòn thất bại nặng nề. Thắng lợi trong
cuộc chiến tranh đó không những đã bảo đảm cho sự độc lập chính trị cho
các nhà nƣớc - thị thành Hy Lạp cổ đại, mà nó còn góp phần tiếp tục làm
tăng thêm sức mạnh về kinh tế của chúng. Nhờ đó, chế độ dân chủ đã
đƣợc hoàn thiện ở Aten và nhiều nhà nƣớc thị thành khác.
Một điểm khác biệt cơ bản trong cơ cấu kinh - xã hội của nhà nƣớc thị thành Hy Lạp cổ đại so với các nhà nƣớc phƣơng Đông cổ đại là lao
động cƣỡng bức của ngƣời nô lệ gữi vai trò to lớn hơn nhiều. Nghiên cứu
đặc điểm này, Ph.Ăngghen đã dƣa ra một đánh giá nổi tiếng về ý nghĩa
lịch sử của hình thái chiếm hữu nô lệ ở đây: “Chỉ có chế độ nô lệ mới làm
cho sự phân công lao động có thể thực hiện đƣợc trên một quy mô rộng
lớn giữa nông nghiệp và công nghiệp, và do đó, mới có thể có thời kỳ
hƣng thịnh nhất của thế giới cổ đại, tức là nền văn minh Hy Lạp. Không có
chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa
học Hy Lạp; không có chế độ nô lệ thì không có Đế chế La Mã. Mà không
có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và Đế chế La Mã thì không có Châu
Âu hiện đại. Chúng ta không bao giờ đƣợc quên rằng tiền đề của toàn bộ
sự phát triển kinh tế, chính trị và trí tuệ của chúng ta là một trạng thái trong
đó chế độ nô lệ cũng hoàn toàn cần thiết giống nhƣ nó đƣợc tất cả mọi
ngƣời thừa nhận. Theo ý nghĩa đó chúng ta có quyền nói rằng: không có
chế độ nô lệ cổ đại, thì không có chủ nghĩa xã hội hiện đại”[24, tr. 254].
Tuy nhiên, ở giai đoạn sơ khai trong lịch sử Hy Lạp cổ đại, không
phải mọi ngƣời dân đều trở thành nô lệ. Nô lệ hoàn toàn bị loại ra khỏi đời
sống chính trị của nhà nƣớc - thị thành. Trong giai đoạn này, cái có tính
quyết định ở đây là cuộc đấu tranh giữa các nhà nƣớc - thị thành và giữa

liên minh các nhà nƣớc đó. Trong vài chục năm cuối thế kỷ V tr.CN, giữa
liên minh các nhà nƣớc - thị thành Aten và liên minh các nhà nƣớc - thị


19

thành Spác đã diễn ra cuộc chiến tranh đƣợc biết đến với tên gọi là cuộc
chiến tranh Pôlôpône. Sự thất bại của Aten trong cuộc chiến tranh này đã
dẫn tới chỗ liên minh của nó bị tan rã. Sau đó các liên minh tƣơng tự nhƣ
vậy đã nhiều lần xuất hiện. Cuộc chiến tranh liên miên giữa các liên minh
này rút cục đã làm cho các nhà nƣớc - thị thành đều bị suy yếu .Quá trình
phân hóa dân cƣ thành đa số ngƣời nghèo khổ và thiểu số ngƣời giàu có
ngày một tăng lên trong các nhà nƣớc - thị thành đó. Sự phân hóa này đã
gây nên những tổn thất hết sức nặng nề, tạo nên sự khủng hoảng ngày một
trầm trọng hơn vào khoảng thế kỷ IVtr.CN, khi mà một lực lƣợng mới chế độ quân chủ Maxêđônia (Mecédoine) giành chiến thắng trƣớc một liên
minh mới giữa các nhà nƣớc - thị thành Hy Lạp cổ đại - còn chƣa bƣớc
lên vũ đài lịch sử. Nhƣng các sự kiện đó đã đã dẫn tới sự xuất hiện của liên
minh Hy Lạp- Maxêđônia và chiến dịch xâm lƣợc các nƣớc Cận Đông của
Alếchxanđrơ Maxêđônia.
Các đặc điểm nêu trên của chế độ kinh tế - xã hội ở nhà nƣớc - thị
thành Hy Lạp cổ đại đã đem lại một tính chất rất độc đáo cho một nền văn
hóa phong phú, nền văn hóa đã trở thành một trang quan trọng trong lịch
sử phát triển tinh thần của nhân loại.
Một trong các nguyên nhân quyết định sự hƣng thịnh của nền văn hóa
này là mức độ tách biệt cao của lao động trí óc khỏi lao động chân tay.
Điều này có liên quan mật thiết với sự tiến bộ chung đã đạt đƣợc trong sự
phân công lao động. Vai trò ngày một tăng của lao động nô lệ - những
ngƣời phải gánh vác một khối lƣợng lao động cơ bắp nặng nề nhất - cũng
đã góp phần tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay và góp phần thúc
đẩy quá trình phân chia đó phát triển. So với các nƣớc Cận Đông, ở Hy

Lạp cổ đại tầng lớp trí thức không còn bị ràng buộc với hoạt động phụng
sự tôn giáo, còn tầng lớp tăng lữ thì không có một vị trí quan trọng trong
đời sống xã hội. Điều đó chủ yếu là do họ thƣờng không hoàn thành các
chức năng của nhà khoa học. Các nhà khoa học đã xuất hiện từ tầng lớp thị


20

dân khá giả, từ tầng lớp thƣơng gia, chính khách v.v. Thực ra, điều này gắn
liền với sự xuất hiện của triết học với tƣ cách một hình thái đặc biệt của ý
thức xã hội, nhƣng bản thân sự xuất hiện đó đã không thể có đƣợc nếu
nhƣ không có sự phát triển cao mà lao động trí óc đã đạt tới ở các nhà
nƣớc - thị thành Hy Lạp cổ đại.
Vai trò của lao động trí óc cũng tăng lên nhờ quá trình phổ biến chữ
viết ở ngƣời Hy Lạp cổ đại mà xét về phƣơng diện này hơn hẳn các dân
tộc phƣơng Đông cổ đại. Việc phổ biến chữ viết sở dĩ diễn ra ở Hy Lạp cổ
đại là do bảng chữ cái đã xuất hiện ở đây vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất
tr.CN. Sự phát triển chữ viết ở các nƣớc Cận Đông đã xuất hiện bảng chữ
cái ở Phiniki. Bảng chữ cái Phiniki đã đƣợc sửa đổi chút ít và đƣợc hoàn
thiện ở Hy Lạp cổ đại: bên cạnh các phụ âm cấu thành toàn bộ bảng chữ
cái Phiniki, ngƣời Hy Lạp đã bổ xung các chữ cái tạo thành các nguyên âm
và nhờ đó, bảng chữ cái trở nên linh hoạt hơn.
Đƣơng nhiên, bảng chữ cái tự nó không thể sáng tạo ra các áng thi ca,
sử thi và các tác phẩm triết học, khoa học ở Hy Lạp cổ đại, song bản thân
khả năng ghi chép lại các tác phẩm đó đã kích thích sự sáng tạo của trí tuệ
và biến các kết quả sáng tạo đó thành một hiện tƣợng ít nhiều mang tính
đại chúng.
Ý

nghĩa của hoạt động trí tuệ đặc biệt tăng lên cùng với sự phát triển


nhân cách của cá nhân trong nền văn hóa tinh thần của ngƣời Hy Lạp cổ
đại, nền văn hóa đã phản ánh các đặc điểm của đời sống kinh tế - xã hội
của ngƣời Hy Lạp cổ đại. Ảnh hƣởng của yếu tố truyền thống trong đời
sống tinh thần con ngƣời ở các nhà nƣớc- thị thành Hy Lạp cổ đại so với
các nƣớc phƣơng Đông cổ đại ngày càng giảm cùng với quá trình gia tăng
mức độ cải biến các mối quan hệ xã hội. Vai trò của quan hệ buôn bán và
các quan hệ khác giữa ngƣời Hy Lạp cổ đại với chính các dân tộc Cận
Đông và các nƣớc khác là rất lớn trong quá trình tăng độ cải biến các mối
quan hệ xã hội đó. Mặt khác, truyền thống bao giờ cũng là yếu tố vững


21

vàng hơn khi mà con ngƣời chƣa biết đến các trật tự xã hội, các phong tục
và các tín ngƣỡng khác.
1.1.3. Sự phân rã của thần thoại Hy Lạp cổ đại. Sự
xuất hiện của triết học với tư cách một hình thái đặc
thù của ý thức xã hội
Nhƣ E.V. Ilencốp - nhà triết học Xô - viết đã khẳng định: “Triết học
đƣợc sinh ra trong cuộc đối thoại tranh luận nhiệt thành với hệ thống các
cách nhìn nhận thần thoại - tôn giáo về thế giới. Những cái nhìn tích cực
riêng của nó đƣợc hình thành trực tiếp trong tiến trình tái suy ngẫm có phê
phán và cải biến chất liệu tinh thần mà mọi ngƣời đã kế thừa trong di sản
phát triển trƣớc họ. Lẽ tự nhiên là, ở những khoảng thời gian đầu tiên triết
học bị giới hạn bởi những chất liệu ấy, nằm trong sự phụ thuộc nặng nề,
mặc dù là phủ định đối với nó”[14, tr. 24]. Theo dõi quá trình xuất hiện của
triết học Hy Lạp cổ đại nói chung, phép biện chứng Hy Lạp cổ đại nói
riêng chúng ta càng thấy rõ điều đó.
Cái có ý nghĩa đặc biệt đối với sự xuất hiện của triết học ở Hy Lạp cổ

đại là ở chỗ, nó không những bị quy định bởi tính đặc thù của của thần
thoại Hy Lạp so với thần thoại phƣơng Đông, mà chủ yếu là ở “tính chín
muồi” của thần thoại. Trong các tác phẩm của Hôme và Hêxiốt, đặc biệt là
ở Iliát và Ôđixê - những tác phẩm sử thi lớn nhất ở Hy Lạp cổ đại, hành động
của Thƣợng đế, của các vị anh hùng và của con ngƣời đan xen lẫn nhau trong
vô số tình huống đƣợc mô tả. Cả hai sử thi này không những là những di tích
cổ xƣa nhất của thần thoại Hy Lạp cổ đại, mà còn là sản phẩm sáng tạo nghệ
thuật rất xa lạ với niềm tin tuyệt đối vào các nhân vật thần thoại. Hôme đã tỏ
rõ thái độ phê phán đối với các vị thần trên đỉnh Ôlimpia truyền thống. Khi
ngƣời hóa các nhân vật thần thoại của mình và gán cho các nhân vật đó nhiều
khiếm khuyết của con ngƣời, ông đã làm giảm bớt tính không thể vƣơn tới
của các vị thần trên đỉnh Ôlimpia của chúng và làm cho chúng trở nên gần gũi
với con ngƣời. Bên cạnh sự ngƣời hóa đó, một số vị thần mà Hôme miêu tả
giống nhƣ là những nhân vật


22

không phải là đại diện cho một cái gì đó, đã càng trở nên giống nhƣ các
hình tƣợng tự nhiên.
Hình tƣợng quan trọng nhất trong số đó là thần Đại dƣơng - một dòng
sông nƣớc ngọt khổng lồ, bao quanh toàn bộ trái đất, không những nuôi
dƣỡng các dòng sông khác, các mạch nƣớc ngầm, các giếng nƣớc, mà cả các
biển nƣớc mặn. Mọi thứ hiện hữu trên trái đất đều sinh ra từ chính thần Đại
dƣơng và vị hôn thê của ngài là thần Têphia. Tại sao chính nƣớc ngọt

ở Hy Lạp, nơi mà biển bao bọc xung quanh lại đƣợc coi là cơ sở đầu tiên
sinh ra cả nƣớc mặn ở các biển lớn? Theo các nhà nghiên cứu thần thoại
và triết học thì quan niệm này đƣợc ngƣời Hy Lạp cổ đại tiếp thu từ thần
thoại Sumerơ - Babilon, nơi mà vai trò của cơ sở đó hoàn toàn đƣợc giải

thích qua điều kiện tự nhiên của dải đất nằm giữa hai con sông Tigơrơ và
Epratơ, điều kiện có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động sản xuất nông
nghiệp của cƣ dân ở đó.
Mặc dù cái ẩn náu đằng sau vô số hiện tƣợng tự nhiên và hoạt động
của con ngƣời là hoạt động có mục đích của thần Dớt và các vị thần khác
với tƣ cách là những cá nhân siêu tự nhiên, nhƣng ở Hôme, các sự kiện
vẫn diễn ra theo con đƣờng tự nhiên. Biểu tƣợng về tính tất yếu đã đƣợc
phác họa một cách mờ nhạt dƣới dạng số phận mà thƣờng là do hình ảnh
về thần Moira thể hiện. Vị thần này không phải bao giờ cũng phục tùng
thần Dớt, và có sức mạnh thậm chí còn đứng trên thần Dớt. Điều đƣợc coi
là hết sức quan trọng đối với sự xuất hiện sau này của triết học là việc trí
tuệ (noas, noys trong thổ ngữ Atti) đƣợc liệt kê vào số ba năng lực của ý
thức con ngƣời bên cạnh tâm hồn (psychê) và tinh thần (thymos).
Nét đặc trƣng rõ ràng hơn cho tính chín muồi của thần thoại Hy Lạp
cổ đại là hai sử thi của Hêxiốt, đặc biệt là Teôgônia (Gia phả hay nguồn
gốc các thần). Khác với các tác phẩm thi ca có tính nghệ thuật cao của
Hôme, sử thi của Hêxiốt thấm nhuần tinh thần lý trí. Nó đã cố gắng trình
bày và hệ thống hóa các quan niệm thần thoại đã trở nên phổ biến ở ngƣời


×