PHÒNG GD & ĐT LỆ THỦY
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÚ THUỶ
BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
CUỐI NĂM
GIÁO VIÊN : NGUYỄN THỊ THƯƠNG
Năm học : 2016 2017
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp 2, tôi thấy giải toán có lời văn có
vị trí rất quan trọng trong chương trình toán ở tiểu học và đặc biệt dạy học
theo mô hình VNEN. Các em làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp học,
đặc biệt ở lớp 2 yêu cầu các em viết lời giải cho phép tính, chúng ta thấy
rằng đây là một khó khăn lớn đối với các em. Đọc một đề toán đang còn là
khó với các em vậy mà còn phải tiếp tục tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề toán,
đặt câu lời giải, viết phép tính, ghi đáp số. Trong việc dạy học theo mô hình
VNEN học sinh làm bài một cách độc lập theo từng cá nhân. Chính vì điều ấy
mà tôi luôn băn khoăn trăn trở làm sao tất cả các em đều làm đúng phép tính,
ghi lời giải chuẩn xác và ghi đáp số rõ ràng.
Thực tế trong một tiết hoạt động thực hành ở môn Toán, chúng ta
thường thấy có dạng toán có lời văn mà học sinh lớp 2 thì nêu câu trả lời
không được nhiều và học sinh thì chưa thành thạo khi đọc đề toán vả lại
phải tự các em mày mò theo kiểu dạy học mới này nên đó cũng là lí do mà
các em chưa có kĩ năng làm bài tập với dạng toán có lời văn.
Do tâm lý chung của học sinh lớp 2 còn ham chơi, bên cạnh đó nhiều
gia đình thiếu sự quan tâm nên việc học hành của các em còn nhiều hạn chế.
Từ thực trạng trên, bản thân tôi đã trăn trở, mình cần phải làm gì để giúp
học sinh lớp 2 nắm và có kĩ năng giải được các dạng toán có lời văn đồng thời
khi làm bài các em mạnh dạn và tự tin không cần sự hổ trợ của các nhóm
trưởng hay của cô giáo. Chính vì điều đó nên ở mọi nơi, mọi lúc tôi luôn tìm
tòi,học hỏi để áp dụng một số biện pháp, một số kinh nghiệm vào trong giảng
dạy giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 2.Với sự nhiệt tình của tôi khi áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm này, qua một thời gian tôi thấy các em có sự tiến
bộ rõ rệt và hơn nữa những em yếu dạng toán này từng bước hình thành được
lời giải và làm đúng phép tính. Chính vì thế năm học 2016 2017 này tôi chọn
đề tài:
“ Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn ”, nhằm góp
phần nâng cao chất lượng học học tập của các em nói riêng và chất lượng học
tập trong trường nói chung theo mô hình VNEN.
2. Phạm vi áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến “ Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn ”
được áp dụng đối với học sinh lớp 2 theo chương trình VNEN.
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng
a. Về phía học sinh
Lớp 2B có 28 học sinh. Đa số các em là con gia đình nông dân thuộc hộ
nghèo, hộ cận nghèo, cha mẹ ít quan tâm đến việc học hành của con em mình.
Thực sự đây là lớp mà GV chủ nhiệm nào khi gặp cũng cần có sự quan tâm và
lo lắng. Nhìn chung phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc
học Toán nói chung và việc giải toán có lời văn nói riêng của học sinh nên phụ
huynh chưa có sự đầu tư đúng mức. Đầu năm học, đối với chương trình môn
toán lớp 2. Nhìn chung các em đều thực hiện được các phép tính cộng, trừ có
nhớ trong phạm vi 100, nắm được tên gọi, thành phần và kết quả phép cộng,
trừ, hay tìm x trong bài toán, nhưng ở phần giải toán có lời văn thì lớp 2B có
59,3% học sinh giải và trình bày được, 10% các em biết tóm tắt bài toán, ghi
đúng lời giải nhưng thực hiện phép tính thì sai. 30,7% các em chưa biết ghi lời
giải của bài toán, chưa có em nào có sáng tạo hay có lời giải hay hơn, gọn hơn.
Đặc biệt là những em trung bình, yếu, việc đọc, viết đã chậm thì giải toán có
lời văn lại càng khó khăn hơn rất nhiều như các em: ( Giang, Toàn, Lê Huy … )
b. Về phía giáo viên
Trong quá trình dạy học theo mô hình VNEN người giáo viên chưa có sự
chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để học sinh nắm vững được lượng kiến
thức, đặc biệt là dạng giải toán có lời văn. Nguyên nhân là do giáo viên mới
tiếp cận với chương trình dạy học theo kiểu mới này. Thời gian dành nghiên
cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học mới này còn hạn chế. Bên cạnh đó
việc ý thức về tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn của các em chưa
đầy đủ. Từ đó dẫn đến tình trạng học sinh lên lớp 3 vẫn còn nhiều em chưa
ghi được lời giải và phép tính đúng cho một bài toán.
2. Giải pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn
2.1. Chuẩn bị cho việc giải toán:
Để giúp học sinh có kĩ năng trong việc giải toán có lời văn thì chúng ta
không những hướng dẫn các em trong giờ học toán khi các em cứu trợ mà còn
luyện cho các em kĩ năng nói trong các tiết học ở môn Tiếng Việt.
Chúng ta đã biết các em còn nhỏ, còn rụt rè chưa tự tin trong giao tiếp.
Chính vì vậy khi dạy chương trình VNEN các em được hoà đồng cùng bạn bè,
học hỏi ở bạn bè và mạnh dạn đưa thẻ cứu trợ khi làm bài chưa được. Giáo
viên gần gũi với học sinh, khuyến khích các em trong giao tiếp, tổ chức các trò
chơi để các em luyện nói nhiều để giúp các em có vốn từ lưu thông. Bên cạnh
đó người giáo viên phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc và phần tìm hiểu bài của
phân môn Tiếng Việt để từ đó các em có kĩ năng phán đoán yêu cầu cơ bản mà
bài tập đề ra.
2. 2. Giúp học sinh nắm được trình tự của việc giải một bài toán có lời
văn:
a) Tìm hiểu nội dung bài toán: Đọc đề, tìm hiểu đề bài.
Đây là một bước rất quan trọng, giáo viên cần nhắc nhở cho học sinh đọc
kĩ đề, đọc nhiều lần (đọc thầm trong nhóm) để hiểu rõ đề toán cho biết gì?
Như đã cho biết điều kiện gì? Bài toán hỏi cái gì ? Bài toán thuộc dạng nào ?
Khi đọc bài toán phải hiểu thật kĩ một số từ, thuật ngữ quan trọng chỉ rõ tình
huống Toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ thông thường .
Trong đề tài này tôi không thể trình bày được hết phần thực nghiệm và
đánh giá kết quả thực nghiệm của tôi trong năm qua, chỉ xin mô tả một vài bài
thực nghiệm ở chương trình toán 2 để chứng minh phần lý luận đã nêu .
Chẳng hạn “ Một giàn có 46 quả gấc” bài 4/65 SHD. Hay “ Bạn Tú cân nặng
32 kg...” 5/86 SHD vv.... Mỗi học sinh trong nhóm cần đọc nhẩm nhiều lần
đề toán đã cho.
Cần dùng bút chì gạch chân hoặc ghi vào vở nháp những điều kiện đã biết và
cái phải tìm.
Ví dụ : Bài toán : Mảnh vải màu xanh dài 34 dm, mảnh vải màu tím ngắn hơn
mảnh vải màu xanh 15 dm. Hỏi mảnh vải màu tím dài bao nhiêu dm ?
+ Học sinh đọc đề, tìm hiểu và có thể gạch chân như trên. Sau đó học
sinh có thể nêu được ( có thể cho các em tự hỏi đáp nhau )
* Bài toán cho biết gì ? ( Mảnh vải xanh : 34 dm, mảnh vải tím ngắn
hơn mảnh vải xanh : 15 dm ).
* Bài toán hỏi gì ? ( Mảnh vải tím dài bao nhiêu dm ? ).
+ Cho học sinh phân tích ngược :
* Bài toán hỏi gì ? ( Mảnh vải tím dài bao nhiêu dm ? )
* Bài toán cho biết gì ? ( Mảnh vải xanh : 34 dm , mảnh vải tím ngắn
hơn mảnh vải xanh : 15 dm )
b) Tìm tòi cách giải toán :
a/ Chọn phép tính giải thích hợp
Sau khi các em đã xác định được đề toán như cái gì đã cho và cái gì phải tìm
cần giúp học sinh chọn phép tính thích hợp: Chọn “ PHÉP CỘNG” nếu bài
toán yêu cầu: “ Nhiều hơn” hoặc “ gộp”, “ Tất cả”. Chọn tính trừ nếu đề toán
ra là “ bớt” hoặc “tìm phần còn lại” “ ngắn hơn” hay là “ ít hơn” “ trong đó”
Lập kế hoạch giải toán nhằm xác định trình tự giải quyết, thực hiện phép
tính.
Từ tóm tắt đề toán, một lần nữa cho học sinh nắm lại mối liên hệ giữa đề
toán đã cho và cái cần tìm.
Trong lớp GV phải quan sát, nếu có một nhóm đưa thẻ cứu trợ thì ta đến nhóm
đó để hướng dẫn . Trường hợp nếu có nhiều nhóm cùng đưa thẻ cứu trợ thì
giáo viên nên cho các em cùng quay mật lên bảng để giáo viên hướng dẫn.
Ta có thể hướng dẫn cho học sinh suy luận từ câu hỏi bài toán đến dữ kiện đã
cho.
+ Bài toán hỏi gì ? ( Tấm vải tím dài mấy đề xi mét ).
+ Trong đó dữ kiện nào đã biết ? ( Tấm vải tím ngắn hơn tấm vải xanh
15dm )
+ Mà tấm vải xanh đề toán đã cho biết là bao nhiêu dm ?(Vải xanh dài 34 dm
)
+ Vậy muốn biết tấm vải tím dài bao nhiêu dm ta thực hiện phép tính gì ?
( Thực hiện phép tính trừ 34 trừ đi 15 ) .
Cách khác : Học sinh chọn và nêu phép tính sau đó nêu lời giải.
+ Vậy kết quả cuối cùng có phải là đáp số của bài toán không ? (Đó là
đáp số của bài toán ).
c) Thực hiện cách giải quyết bài toán :
Quá trình tìm tòi cách giải quyết, học sinh tự trình bày bài giải của
mình có thể làm vở ô li, vở nháp.
Hoặc tạo sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh
trong nhóm, học sinh trong nhóm trao đổi ý kiến về cách làm bài hoặc giải bài
toán.
Giáo viên có thể lựa chọn nội dung cho thật tinh giản, xác định rõ các
kiến thức cơ bản, các thuật ngữ quan trọng trong bài, lời giải thích phải ngắn,
gọn, nhấn mạnh các chỗ cần thiết, minh họa bằng nhiều ví dụ quen thuộc
( gợi ý một số đặc điểm riêng của đơn vị. Đối với bài toán này đơn vị của nó
là dm).
Sau khi đã hướng dẫn , giáo viên cho các nhóm làm bài vào vở. Bài toán
này có một phép tính nhưng có thể có nhiều lời giải khác nhau mà vẫn phù hợp
.Việc cho học sinh tự tìm nhiều lời giải khác nhau có tác dụng lớn trong việc
gây hứng thú cho học sinh, thúc đẩy các cố gắng tìm tòi, sáng tạo và rèn luyện
óc suy nghĩ linh hoạt, độc lập .
Học sinh có thể nêu lời giải như sau :
Số dm mảnh vải tím dài là ( Mảnh vải tím dài là / Chiều dài mảnh
vải tím là / Độ dài mảnh vải tím là ...)
34 – 15 = 19 ( dm ).
Đáp số : 19 dm.
d) Kiểm tra cách giải bài toán :
Việc kiểm tra này nhằm phân tích cách giải đúng hay sai, sai chỗ nào để sửa
chữa. Giáo viên hướng dẫn học sinh kiểm tra lại trình tự các bước giải thử lại
phép tính đã thực hiện trong bài giải ... Từ đó giúp các em có thói quen kiểm tra
đánh giá, sửa bài.
Với kết quả bài toán trên có thể hướng dẫn học sinh kiểm tra xem
mảnh vải tím có phải là 19 dm không ?
Hay khi cộng 19 dm của mảnh vải tím với 15 dm chiều dài tấm vải
xanh dài hơn có bằng chiều dài tấm vải xanh là 34 dm không ? Ta xét tính hợp
lý của đáp số.
Tóm lại :
Đối với mỗi bài toán, học sinh cần đọc thật kĩ đề bài, tìm hiểu đặc
điểm của bài toán : các dữ kiện đã có và vấn đề cần tìm. Sau đó tóm tắt đề
toán bằng sơ đồ minh họa hoặc bằng lời. Rồi tự suy nghĩ hoặc thảo luận
nhóm , tổ để tìm ra hướng giải quyết bài toán, lựa chọn cách giải hay nhất
,phù hợp nhất .
- Khi giải xong cần kiểm tra thử lại kết quả có đúng và phù hợp không ?
- Khuyến khích học sinh tự đánh giá bài làm của mình , của bạn để khắc sâu
kiến thức .
Đối với bài toán khó học sinh cần phải đọc đi , đọc lại nhiều lần, cố
gắng suy nghĩ tìm ra cách giải cho phù hợp