Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

SKKK: Một số giải pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi thông qua hoạt động vui chơi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.99 KB, 15 trang )

                                                                                                                                 Mẫu số 01

CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên
I. Tác giả sáng kiến: NGUYỄN THỊ MINH HẢI.
­ Ngày tháng năm sinh:11/06/1985.          Giới tính: Nữ.
­ Đơn vị công tác (hoặc hộ khẩu thường trú):Trường MN Tiên Hường.
­ Chức danh: Giáo viên.
­ Trình độ chuyên môn: Cao Đẳng sư phạm.
­  Tỷ  lệ  (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến  (ghi rõ đối với từng 
đồng tác giả, nếu có): 100%.
II. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: 
­ Họ tên:  NGUYỄN THỊ MINH HẢI
­ Đơn vị: Giáo viên Trường MN Tiên Hường.
III. Tên sáng kiến; lĩnh vực áp dụng; mô tả  bản chất của sáng kiến; 
các thông tin cần được bảo mật (nếu có):
1.Tên sáng kiến: " Một số giải pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ  
mẫu giáo 3­ 4 tuổi thông qua hoạt dộng vui chơi”.
2. Lĩnh vực áp dụng: Trẻ 3­4 tuổi tại lớp 3 tuổi B.Trường Mầm Non Tiên 
Hường.
        3. Mô tả sáng kiến:
Trên trang báo Sài Gòn Giải Phóng Online ra ngày 30/04/2018 với bài viết: 
“Kinh tế Việt Nam phát triển ấn tượng”. Trong bài viết truyền thông nước ngoài 
nhận định về kinh tế Việt Nam như sau:
Theo hãng tin Bloombeng( Mỹ), Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ từ 1 
quốc gia chỉ xuất khẩu thô như café, giày dép nhưng đã trở thành một trung tâm  
sản xuất thu hút những công ty lớn như SamSung Electronesco của Hàn Quốc.
Đặc biệt trên trang phân tích của viện Brookings( Mỹ) với tựa đề: “ Sự kỳ 
diệu của ngành sản xuất Việt Nam” với nội dung bài học cho những nước đang 


phát triển. Thương mại của Việt Nam đã tăng lên mức 190% GDP vào năm 2017 
cao hơn nhiều so với mức độ 70% của năm 2007.
Để  đạt được những thành tựu và kết quả  đó thì ngoài yếu tố  khách quan 
như nguồn nhân lực trẻ, giá rẻ, sự ổn định về chính trị, vị trí địa lý…thì phải kể 


đến chính sách hợp lí của chính phủ Việt Nam về hội nhập kinh tế toàn cầu và  
trên con đường hội nhập đó chúng ta cần một nguồn nhân lực có đủ  tài năng, 
nhân cách và phẩm chất. Vì vậy giáo dục có vai trò quan trọng trong việc thực  
hiện nhiệm vụ  đó mà giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ  thống  
giáo dục quốc dân.
Trong mục tiêu của giáo dục mầm non thì kỹ  năng giao tiếp là 1 trong  
những mục tiêu hàng đầu để giáo dục trẻ. Vì kỹ năng giao tiếp là những kỹ năng 
mềm cực kỳ quan trọng trong thế kỷ 21.Có kỹ  năng giao tiếp tốt thể  hiện cách  
ứng xử đối đáp, sự  tác động qua lại giữa người với người tạo ra các mối quan 
hệ như: bạn bè, đồng nghiệp… trở nên gần gũi hơn thân thiện hơn.
Mà đối với trẻ  mầm non vui chơi là hoạt động chủ  đạo. Thông qua hoạt  
dộng vui chơi giúp trẻ  hình thành và phát triển cấu trúc tâm lý trong nhân cách  
trẻ. Mặt khác hoạt động vui chơi gây ra những biến đổi về  chất có ảnh hưởng  
quyết định đến sự hình thành nhân cách của trẻ mẫu giáo và là tiền đề cho hoạt 
động học tập cho lứa tuổi tiếp theo.
Người ta thường nói: “ Trẻ lên ba cả nhà học nói” thật không sai chút nào 
vì ở độ tuổi 3­ 4 tuổi trẻ luôn thích đặt ra câu hỏi, tìm tòi khám phá và bắt chước  
làm người lớn thông qua hoạt động vui chơi. Và trong quá trình chơi của trẻ giáo 
viên là người đóng vai trò quan trong để  kích thích trẻ  giao tiếp, cùng trẻ  nhập  
cuộc chơi từ đó uốn nắn kịp thời những kỹ năng giao tiếp của trẻ.
Bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp làm công tác chăm sóc, nuôi dưỡng 
và giáo dục trẻ. Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thức được vị trí và tầm quan  
trọng của môn học này. Tôi cũng luôn trăn trở  suy nghĩ tìm ra giải pháp tối  ưu  
nhất để trẻ  tiếp thu một cách có hiệu quả  đáp  ứng được yêu cầu của giáo dục 

hiện nay, vì vậy tôi đã chọn đề  tài: “ Giải pháp phát triển kỹ  năng giao tiếp  
cho trẻ mẫu giáo 3­4 tuổi thông qua hoạt dộng vui chơi ” để làm đề tài nghiên 
cứu.
3.1. Về nội dung của sáng kiến.
Các nhà khoa học đã chứng minh: Khi trẻ sơ sinh ra đời não bộ đã có 100 tỷ 
lệ  thần kinh và 3 năm đầu đời của trẻ  là giai đoạn rất quan trọng với sự  phát 
triển của não bộ  vì thế  trẻ được tiếp xúc càng nhiều với sự  vật hiện tượng từ 
môi trường xung quanh giúp cho hệ thần kinh của não bộ  bắt đầu phát triển từ 
đây tâm sinh lý của trẻ cũng ngày càng phong phú và diễn ra một cách mạnh mẽ.  
Để thể hiện được nhu cầu của bản thân trẻ  sẽ  học và nắm được tiếng mẹ  đẻ. 
Do vậy phát triển kỹ  năng giao tiếp cho trẻ là rất quan trọng nó sẽ  ảnh hưởng  


đến tư duy và quá trình học sau này. Mặt khác giao tiếp chính là phương diện về 
tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ.
Dạy trẻ kỹ năng giao tiếp là nhằm đáp  ứng việc phát triển ngôn ngữ  cho  
trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo 3­ 4 tuổi dùng ngôn ngữ để giao tiếp là rất quan trọng, 
đặc biệt khi cho trẻ tham gia vào hoạt động vui chơi, trẻ sẽ thể hiện được nhu 
cầu của bản thân  và luôn tìm tòi khám phá ra những điều mới lạ từ đó giúp trẻ 
tích lũy kinh nghiệm sống, mạnh dạn, tự tin, lễ phép với mọi người và nhận ra 
những hành vi đúng­ sai.
Vì vậy là giáo viên đứng lớp 3­4 tuổi tôi luôn tạo ra sự  tự  tin, thoải mái  
giúp trẻ “học mà chơi, chơi mà học”. Thường xuyên thảo luận, trò chuyện, gợi 
mở  cho trẻ  tiếp cận với cuộc sống hàng ngày qua hoạt động vui chơi giúp trẻ 
giao tiếp một cách mạnh mẽ và đạt kết quả cao.
Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Qua nhiều năm làm công tác chăm sóc ­ giáo dục trẻ tôi thấy: Kỹ năng giao 
tiếp của trẻ phát triển chưa đồng đều, một số trẻ giao tiếp khá mạnh dạn tự tin 
nhưng tỷ lệ chiếm khá ít, còn số đông trẻ nhút nhát, thiếu tự tin khi giao tiếp, nói 
chưa đủ câu và dùng từ còn chưa chính xác.

Mặt khác kinh nghiệm sống của trẻ chưa có nhiều do sự bao bọc của gia  
đình đối với trẻ  quá lớn, trẻ  thường không được giao lưu tiếp xúc với mọi  
người xung quanh và không được trải nghiệm thực tế với cuộc sống hàng ngày.
Ngày nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin làm cho con người ngày  
càng xa lánh nhau. Mọi vấn  đề từ xã hội, gia đình, vui chơi giải trí..... đều nằm 
gọn trong một chiếc Smart phone hay một chiếc ti vi, máy tính bảng... con người  
không cần phải ra khỏi nhà cũng có thể mua hàng, cũng có thể mua đồ ăn, cũng  
có thể nhìn thấy được mọi hoạt động của nhau trên các trang mạng xã hội như 
Fecebook, Zalo....và trẻ em thì được thừa hưởng từ chính sự bùng nổ công nghệ 
thông tin đó: “trẻ chẳng cần phải có bạn chơi mà chỉ  cần có chiếc smart phone  
trên tay thì đó là cả một thế giới” đó là vấn đề thực tế đang diễn ra và nó có tác 
hại lớn đối với trẻ  làm trẻ  tự  kỷ, xa lánh và không muốn tiếp xúc với mọi  
người.
Một khó khăn nữa đó là sự  nhận thức của cha mẹ  trẻ  về  việc phát triển  
kỹ  năng giao tiếp cho trẻ  còn hạn chế  nên không quan tâm chú ý đến sự  hình  
thành về mặt giao tiếp cho trẻ.


Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát đánh giá đúng khả năng 
của trẻ  để  có phương hướng phấn đấu đạt được kết quả  cao trong giảng dạy  
nên ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát trẻ.
Bảng khảo sát chất lượng trẻ đầu năm:
Sĩ số

Các chỉ  tiêu đánh  Kết quả
giá
Đạt
Lắng   nghe   và   trả   lời   được   câu   hỏi   của  18/29=62%
người đối thoại.


29 
trẻ

Không đạt
11/29=38%

Kể  lại được những sự  việc đơn giản đã  16/29=55,2% 13/29=44,8%
diễn ra của bản thân với người khác
Mạnh   dạn   tham   gia   vào   các   hoạt   động,  16/29=55,2% 13/29=44,8%
manh d
̣
ạn khi trả lời câu hỏi.
Biết  chào hỏi  và nói cảm  ơn, xin lỗi khi  19/29=65,5% 10/29=34,5%
được nhắc nhở...
 
Qua phần khảo sát trên tôi thấy: Kỹ năng giao tiếp của trẻ còn kém vì vậy  
bản thân tôi thấy cần phải tìm ra các giải pháp để giúp trẻ có  kỹ năng giao tiếp 
tốt. Vì thế tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau:
Giải pháp 1: Tìm hiểu thực tế và lập kế hoạch khảo sát trẻ.
Để nắm được khả năng giao tiếp của trẻ ở mức độ nào tôi đi vào thực tế 
đó là: Quan sát­ tìm hiểu tâm lí­ trò chuyện cùng trẻ thông qua các hoạt động đặc  
biệt là qua hoạt động vui chơi của trẻ  ở các góc chơi.  Qua đó tôi sẽ  nắm được  
khả  năng phát âm, khả  năng nghe­ hiểu, cách sử  dụng ngôn từ  và mức độ  trò  
chuyện của trẻ.
Từ  đây tôi sẽ  xây dựng kế  hoạch khảo sát trẻ  bằng cách: Xây dựng hệ 
thống câu hỏi để  trò chuyện cùng trẻ; Quan sát trẻ  khi giao tiếp; Nhận xét và 
đánh giá đúng  khả năng nghe­ hiểu; Kỹ năng sử dụng ngôn từ; Kỹ năng chia sẻ;  
Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cơ thể; Kỹ năng trao đổi của trẻ.
Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động chơi các góc tôi thấy:
­


Ở góc học tập là cuộc trò chuyện giữa hai bé: Minh Đức và Khánh Ly

Minh Đức: Cho tớ mượn màu đỏ
Khánh Ly: Ừ ( kết hợp gật đầu)


Qua cách giao tiếp của 2 bé tôi thấy bé sử dụng ngôn từ  và sử  dụng ngôn 
ngữ cơ thể.
­ Góc nghệ thuật bé Phương Thảo đóng vai cô giáo và hướng dẫn các bạn 
múa và các bé khác cũng thực hiện theo đúng hướng dẫn của bé Phương Thảo 
điều này chứng tỏ các bé đã biết lắng nghe và hiểu lời nói của bạn.
Giáo viên cần đánh giá liên tục trong khi quan sát trẻ  chơi để  lắm được  
khả năng giao tiếp của trẻ bằng hệ thống các câu hỏi:
+Trẻ đang thích thú, giận dữ, ghen tức hay sợ hãi?
+Trẻ có sử dụng ngôn ngữ một cách hiệu quả không?
+Các ý tưởng của cuộc chơi có phong phú không?
+Trẻ giải quyết vấn đề có tốt không?
+Trẻ thu nhận được những khái niệm nào khi chơi?
+ Trẻ có tìm ra những điều diễn tả mới không?( Cử chỉ, điệu bộ, lời nói)
+Những trẻ  nhút nhát có tìm ra cách để  hòa nhập vào cuộc chơi với các 
bạn không?
+Những trẻ  quá hiếu động có chia sẻ  ý tưởng và hợp tác trong khi chơi  
không?
Giải pháp 2: Xây dựng các góc chơi và cách tổ chức hoạt động chơi.
Theo chương trình giáo dục mầm non trẻ  phát triển toàn diện qua 5 lĩnh 
vực phát triển: Thể  chất; Nhận thức; Ngôn ngữ; Tình cảm­ xã hội; Thẩm mỹ 
gắn với 5 lĩnh vực đó là 10 chủ đề xuyên suốt năm học của trẻ. Mỗi một chủ đề 
lại cung cấp những kiến thức và kỹ năng sống khác nhau và qua các góc chơi trẻ 
sẽ được củng cố kiến thức tăng cường kinh nghiệm sống và vốn từ giao tiếp. Vì  

vậy giáo viên cần phải biết trẻ  muốn chơi gì? Khả  năng chơi của trẻ  như  thế 
nào? Từ  đây giáo viên sẽ  xây dựng các góc chơi phù hợp với từng chủ  đề  và 
cách tổ chức hoạt động các góc chơi đáp ứng được nhu cầu chơi của trẻ
Với mỗi một chủ  đề  giáo viên sẽ  trang trí các góc chơi phù hợp nhưng 
phải đảm bảm tính thẩm mỹ để kích thích thị giác của trẻ, tạo cảm giác mới lạ 
và trẻ nhìn vào là biết mình học chủ đề  gì.Trẻ sẽ trao đổi, trò chuyện với nhau  
về chủ đề đó điều này giúp trẻ khắc sâu kiến thức về chủ đề đó.  Đồ chơi ở các  
góc cũng phải phù hợp với chủ  đề  vì nó sẽ  cung cấp cho trẻ  nội dung chơi và 
cách chơi.
Ví dụ: Góc xây dựng­ lắp ghép:


­ Chủ đề gia đình:Đồ chơi có ngôi nhà ( Nhà cấp 4, nhà 2 tầng...), có vườn 
rau, có cây ăn quả....những đồ chơi liên quan đến gia đình sẽ giúp trẻ có vật liệu 
để  xây  ­ lắp ghép theo ý thích và qua đó cũng là đề  tài cho trẻ  trò chuyện về 
ngôi nhà của trẻ đang xây.
­Với chủ  đề  giao thông: Đồ  chơi sẽ  có cột đèn giao thông, biển báo chỉ 
đương, các loại xe tham gia giao thông....cách tổ  chức cho trẻ    xây dựng­   lắp 
ghép ở chủ đề giao thông cũng sẽ khác chủ đề gia đình. Điều này sẽ giúp cho kỹ 
năng giao tiếp của trẻ sẽ phong phú và có nhiều kinh nghiệm chơi hơn.
Trong quá trình lựa chọn bố trí góc chơi cần có sự  điều chỉnh phù hợp và 
hỗ trợ kịp thời để đáp ứng nhu cầu, khả nawg của cá nhân trẻ, của các nhóm trẻ.  
Khi tổ chức góc chơi giáo viên phải để trẻ  được tự do trong việc: Lựa chọn trò 
chơi; Chơi theo ý thích của mình; Tự  nguyện và quyết định chọn bạn chơi và 
đảm bảm tính giáo dục, phát triển cho trẻ. Phát triển về: Nội dung chơi, kỹ năng  
chơi, khả năng thiêt lập mối quan hệ với bạn chơi, khả năng giải quyết các vấn 
đề khi chơi.
Các góc chơi được trang bị  đầy đủ  đồ  chơi và trẻ  đuộc tự  lựa chọn góc  
chơi, bạn chơi và chơi theo ý thích nhưng bên cạnh đó việc bố trí góc chơi cũng 
rất quan trọng. Ví dụ như: Góc ồn ào như góc xây dựng­ lắp ghép hay góc phân  

vai sẽ bố trí xa góc thư viện, góc học tập, các góc sẽ  có khoảng cách nhất định  
( có thể được ngăn bằng các kệ đồ chơi)
+ Góc xây dựng­ lắp ghép: Là một góc động, trẻ sẽ thường xuyên trao đổi 
và di chuyển vì thế sẽ bố trí xa các góc tĩnh, trong quá trình trẻ chơi giáo viên sẽ 
nhập vai cùng trẻ, trong giao tiếp sẽ xưng hô bác với tôi để trẻ cảm thấy tự tin  
mạnh dạn trình bày ý tưởng và giáo viên có thể gợi ý cách chơi cho trẻ bằng các 
câu hỏi: Các bác đang làm gì vậy? Các bác xây gì? Theo tôi các bác bố trí khu vui 
chơi chỗ này sẽ đẹp, các bác thấy có được không?.....Tuy nhiên cô phải luôn tôn  
trọng ý tưởng chơi của trẻ, không áp đặt ý tưởng và cách chơi của trẻ.
+Góc phân vai:Cũng là một góc chơi động, trẻ  sẽ  được tự  bàn bạc thỏa  
thuận về cách phân vai, số  lượng bạn chơi. Điều này sẽ  giúp trẻ  biết được vai  
chơi của mình của bạn và nhiệm vụ của vai chơi điều này sẽ giúp trẻ chủ động 
trong giao tiếp, trong cách xưng hô trong quan hệ tình cảm­ xã hội của trẻ.
Ví dụ: Trẻ đóng vai bác sỹ luôn ân cần dịu dàng,động viên khi bệnh nhân 
tới khám bị   ốm bị  đau. Hay trẻ  đóng vai là người bán hàng thì luôn tươi cười 
niềm nở, biết chào mời mua hàng biết nói cảm ơn khi khách hàng trả tiền....


+ Góc học tập: Là một góc tĩnh được bố  trí xa các góc động .  Ở  góc này  
phải có đầy đủ  ánh, tranh truyện, đồ  dùng học tập phong phú và có tính thẩm 
mỹ. Khi chơi trẻ sẽ  có ý thức trong việc trao đổi nhẹ  nhàng, nói nhỏ  nhẹ.Giáo 
viên giúp trẻ  kỹ  năng giao tiếp bằng cách khéo léo đưa nhân vật thứ  3 để  trò 
chuyện cùng trẻ.
Ví dụ: Bạn ơi, Thỏ Bông chưa biết cách lật sách đâu, bạn hãy chỉ cho Thỏ 
Bông với nhé!
+ Góc nghệ thuật: Trẻ sẽ được cảm nhận cái hay cái đẹp của cuộc sống 
xung quanh qua các sản phẩm tạo hình, cũng như được rèn luyện kỹ năng nghe –  
hiêủ, mạnh dạn tự tin qua các bài hát. Cần phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cho trẻ
Ví dụ: Cho trẻ chơi hoạt động âm nhạc thì phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ 
âm nhạc cho trẻ  như: Nơ  tay, mũ âm nhạc, phách, trống...... các dụng cụ  đẹp 

hấp dẫn sẽ kích thích giúp trẻ hưng phấn tham gia vào góc chơi.
+ Góc thiên nhiên: Góc này sẽ  bố  trí  ở  khu vực ngoài trời với đầy đủ  đồ 
dùng để  trẻ  được trải nghiệm và khám phá ( Rổ, rá, chai nhựa, tạo ra các mô  
đất, hố  cát, xô, xẻng ...) Khi trẻ khám phá cho trẻ  trực tiếp thực hiện và gợi ý  
cho trẻ dự đoán kết quả giúp trẻ phát triển khả năng tư duy trìu tượng. Thường  
xuyên đặt câu hỏi để  trẻ  diễn tả  đuộc những việc mình đang làm và chuẩn bị 
làm.
Qua cách xây dựng bố trí góc chơi và cách tổ  chức chơi cho trẻ một cách 
khoa học cô và trò lớp 3 tuổi B đã được vui chơi, giao tiếp thoải mái với nhau, 
tạo sự tự tin, thoải mái trong giao tiếp: Trẻ biết chủ động dùng ngôn ngữ đểgiải 
quyết vấn đề  một cách tình cảm và tích cực. Giáo viên cũng lắm được mứa độ 
giao tiếp của trẻ để có sự điều chỉnh  kịp thời và phù hợp.
Giải pháp 3:  Vai trò của giáo viên trong giao tiếp  ứng xử  và cách 
hướng dẫn trẻ giao tiếp
Trong quá trình trẻ chơi giáo viên đóng một vai trò rất quan trọng là người  
hướng dẫn trẻ chơi và nhập vai chơi cùng trẻ vì vậy cô phải biết cách giao tiếp  
với trẻ cũng như cách hướng dẫn trẻ giao tiếp trong quá trình trẻ chơi.
­ Trước hết khi giao tiếp với trẻ cô nên nhẹ  nhàng, sử  dụng cử  chỉ  điệu 
bộ thích hợp giúp trẻ rèn luyện thêm về ngôn ngữ cơ thể. Tránh quát to,la mắng  
khi trẻ mắc lỗi điều này sẽ ảnh hưởng đến tâm lý mà những lúc như vậy cô cần  
nói với giọng nghiêm chỉnh tỏ  sự  không bằng lòng giúp trẻ  nhận ra cái sai và 
định hướng cho trẻ để  trẻ  tự  sửa sai cũng như  nói nên điều mong muốn của cô 


với trẻ  như: “ Con làm như  vậy sẽ  gây ra hậu quả  gì?; “ Con sẽ  thay đổi như 
thế nào?”....
­ Cô nhập vai chơi cùng trẻ  giúp trẻ  biết cách xưng hô phù hợp với đối  
tượng giao tiếp, biết lắng nghe người khác nói. Giáo viên  trò chuyện với trẻ  , 
chỉnh sửa cách phát âm cho trẻ, giúp trẻ  biết thay đổi lời nói phù hợp với nội 
dung avf hoàn cảnh giao tiếp.

­ Giáo viên để trẻ tự do nói chuyện với nhau và cũng tạo ra các tình huống  
mang tính bất ngờ để trẻ giải quyết tình huống nếu có xảy ra mâu thuẫn hãy để 
trẻ tự giải quyết mâu thuẫn cô không nên can thiệp ngay. Nếu trẻ cần sự hỗ trợ 
của cô trẻ sẽ  tự  tin đến nhờ  cô, đây chính là một sự  giao tiếp chủ  động và văn  
minh. Khi giáo viên giải quyết mẫu thuẫn cũng nên kịp thời chỉnh sửa cũng như 
giáo dục trẻ bàng các câu hỏi: Các con làm như vậy có đúng không? Bạn bè chơi  
với nhau phải như thế nào?...
­ Giáo viên luôn quan tâm động viên khuyến khích những trẻ  những trẻ 
nhút nhát, ít nói, hay chơi một mình thiếu tự  tin trong giao tiếp, thì cô cần trò 
chuyện với trẻ, giúp trẻ  hòa nhập vào các góc chơi để  nhập vai chơi, giao lưu 
cùng các bạn trong lớp. 
Giải pháp 4:Làm tốt công tác phối hợp với nhà trường, phụ huynh và 
cộng đồng xã hội.
Phát triển kỹ  năng giao tiếp cho trẻ  không chỉ  thực hiện trên lớp mà cần 
có sự phối hợp với các lớp khác trong trường,  phụ huynh và cộng đồng.
Tham mưu và phối hợp với nhà trường tổ  chức giao lưu các hoạt động giữa 
các lớp  ở  các khối với nhau như: Cùng giao lưu trò chơi vận động, chơi  ở  giờ 
hoạt động ngoài trời, cùng chơi các trò chơi dân gian,các chương trình giao lưu 
văn nghệ. Nhà trường cùng giáo viên các lớp tạo môi trường vui chơi ngoài trời 
với không gian thoáng mát, an toàn  và đa dạng về đồ chơi và trò chơi. Điều này 
sẽ  giúp trẻ  mạnh dạn tự  tin trong giao tiếp, thể hiện nhu cầu và tích lũy kinh 
nghiệm sống.
Phối hợp với phụ  huynh rèn luyện kỹ  năng giao tiếp cho trẻ. Cô đưa những 
thông tin, tầm quan trọng và các cách giúp trẻ giao tiếp tốt dán ở  các bản tuyên  
truyền hay trong các buổi họp phụ  huynh cô nêu ra cho phụ  huynh cùng thực 
hiện và cùng nhau thảo luận cách giúp trẻ rèn luyện kỹ năng giao tiếp. Trao đổi  
với phụ  huynh về  khả  năng giao tiếp của trẻ  vào giờ  đón­ trả  trẻ  hàng ngày. 
Vận động phụ  huynh cung cấp nguyên vật liệu mở  để  làm đồ  dùng, đồ  chơi 
phục vụ trẻ học tập, vui chơi.



Sau thời gian kết hợp với nhà trường và phụ  huynh đã tạo được môi trường  
vui chơi học tập bổ ích cho trẻ. Lớp học đã có thêm nhiều đồ chơi được làm từ 
nguyên vật liệu mở, phụ huynh đã quan tâm tới việc giao tiếp với trẻ khi  ở nhà 
và cung cấp kịp thời những tâm tư  nguyện vọng và khả  năng của trẻ  cho giao  
viên và từ đó cô giáo có phương pháp rèn luyện thích hợp hơn với từng cá nhân 
trẻ.
Giải pháp 5:Giáo viên tự  học và bồi dưỡng nâng cao trình độ  chuyên 
môn.
Bản thân tôi luôn có ý thực tự  luyện tập để  nâng cao kỹ  năng giao tiếp của  
mình như: Đọc sách, báo để  tìm hiểu về  tâm sinh lý trẻ  mầm non để  có kế 
hoạch thích hợp rèn cho trẻ, xem tin tức để có thông tin, học hỏi từ đồng nghiệp  
những điều hay có những nội dung trò chuyện hấp dẫn, cần thiết và phù hợp với  
trẻ. Tìm trên mạng và tự suy nghĩ sáng tạo ra các đồ dùng, đồ chơi các góc mới  
lạ, đảm bảo an toàn, phù hợp với chủ đề, đa dạng phong phú có tính thẩm mỹ 
Đi dự giờ thăm lớp học hỏi đồng nghiệp cách tổ chức chơi góc cho trẻ.
Tôi đã hiểu hơn về khả năng giao tiếp của trẻ và đã dễ dàng trò chuyện cùng  
trẻ, khi chơi trẻ trò chuyện với tôi một cách thoải mái, tự nhiên và sẵn sàng chia  
sẻ những tâm tư nguyện vọng những hiểu biết của trẻ cho tôi.
3.2 Về khả năng áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến có khả năng áp dụng 
rộng rãi cho trẻ  3­4 tuổi trong các trường mầm non và đã áp dụng tại trường 
mầm non Tiên Hường năm học 2018­ 2019.
4. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng 
giải pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:
Qua thực tiễn nghiên cứu đề  tài “ Một số giải pháp phát triển kỹ  năng  
giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 3­ 4 tuổi thông qua  hoạt dộng vui chơi  ”. Sau gần 
một thời gian áp dụng một số biện pháp trên để  dạy trẻ tôi thấy trẻ có kỹ  năng 
giao tiếp rất tiến bộ, mạnh dạn tự tin trong mọi hoạt động, biết hoà đồng cùng 
các bạn trong lớp, hồn nhiên khi giao tiếp, vốn từ phát triển rộng rãi phong phú 
hơn. Hơn nữa trẻ  ngoan, lễ phép với mọi người, đoàn kết giúp đỡ bạn bè, tự tin  

thích thú khi tham gia hoạt động và giao tiếp với mọi người xung quanh
Sau khi tôi áp dụng một số giải pháp mới thay đổi hình thức dạy cho trẻ ở 
lớp tôi phụ  trách tôi thấy trẻ  hứng thú tham gia, tích cực vào các giờ  học, đặc 
biệt là kỹ năng giao tiếp của trẻ đã thành thạo và tự tin rất nhiều.


Kết quả khảo sát trẻ trước khi áp dụng sáng kiến (9/2018)
Sĩ số
29 
trẻ

Các chỉ  tiêu đánh  Kết quả
giá
Đạt
Lắng nghe và trả  lười được câu hỏi của  18/29=62%
người đối thoại.

Không đạt
11/29=38%

Kể  lại được những sự  việc đơn giản đã  16/29=55,2% 13/29=44,8%
diễn ra của bản thân với người khác
Mạnh   dạn   tham   gia   vào   các   hoạt   động,  16/29=55,2% 13/29=44,8%
manh d
̣
ạn khi trả lời câu hỏi.
Biết chào hỏi và nói cảm  ơn, xin lỗi khi  19/29=65,5% 10/29=34,5%
được nhắc nhở...

Kết quả  khảo sát trẻ sau khi áp dụng sáng kiến (01/2018)

Sĩ số
29 
trẻ

Các chỉ  tiêu đánh  Kết quả
giá
Đạt

Không đạt

Lắng   nghe   và   trả   lời   được   câu   hỏi   của  27/29=93,1% 2/29=6,9%
người đối thoại.
Kể  lại được những sự  việc đơn giản đã  26/29=89,6
diễn ra của bản thân với người khác
%

3/29=10,4%

Mạnh   dạn   tham   gia   vào   các   hoạt   động,  27/29=93,1% 2/29=6,9%
manh d
̣
ạn khi trả lời câu hỏi.
Biết chào hỏi và nói cảm  ơn, xin lỗi khi  27/29=93,1% 2/29=6,9%
được nhắc nhở...


BẢNG SO SÁNH KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

STT


Khảo sát 
trước 
Nội dung
khi   thực 
hiện

Khảo sát 
sau   khi 
So sánh
thực 
hiện
Đạt

1 Lắng   nghe   và   trả   lười  62%
1 được   câu   hỏi   của   người 
đối thoại.

Không  Đạt
đạt

Không  Tỉ  lệ  đạt 
đạt
Tăng

38%

6,9%

93,1%


31,1%

2 Kể lại được những sự việc  55,2% 44,8%
2 đơn   giản   đã   diễn   ra   của 
bản thân với người khác

89,6% 10,4%

33,6%

3 Mạnh dạn tham gia vào các  55,2% 44,8%
3 hoạt   động,   manh
̣   dạn   khi 
trả lời câu hỏi.

93,1%

6,9%

37,1%

4 Biết   chào   hỏi   và   nói   cảm  65,5% 34,5%
4 ơn,   xin   lỗi   khi   được   nhắc 
nhở...

93,1%

6,9%

27,6%


Áp dụng biện pháp này  tôi nhận thấy trẻ  không chỉ  tiến bộ  về  mặt kỹ 
năng giao tiếp mà còn phát triển cả kỹ năng ngôn ngữ, tình cảm xã hội cũng như 
tư duy, quan hệ tình cảm xã hội, khả năng nhận thức và kỹ năng sống. Điều này 
được thể hiện thông qua bảng đánh giá chất lượng giáo dục trẻ của lớp tôi qua 5 
lĩnh vực phát triển.
Việc phát triển ngôn ngữ cũng như kỹ năng giao tiếp cho trẻ phải được bắt  
đầu từ  rất sớm, ngay từ  khi trẻ  mới ra đời. Cho nên giáo viên cũng như  phụ 
huynh cần phải đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp phát triển ngôn ngữ, rèn 
kỹ năng giao tiếp  cho trẻ phải đúng lúc và phù hợp với lứa tuổi.
* Đối với giáo viên:  Qua việc thực hiện đề  tài này, kết quả  trên trẻ  cho 
thấy hiệu quả của việc thay đổi, vận dụng một số hình thức  giúp trẻ phát triển 
kỹ  năng giao tiếp qua hoạt động vui chơi là rất cần thiết và không thể  thiếu  


trong quá trình tổ  chức hoạt động của cô và trẻ. Tôi thấy việc thực hiện đề  tài 
này không chỉ phù hợp với lớp tôi mà còn có thể triển khai ở các lớp nhà trẻ khác  
khác nói riêng cũng như các lứa tuổi mẫu giáo nói chung và có thể tiếp tục thực 
hiện trong những năm sau. Việc nghiên cứu đề tài này đã giúp tôi dễ dàng trong  
việc thực hiện các yêu cầu, kỹ  năng cần đạt phù hợp với trẻ  3­4  tuổi, tạo cho  
trẻ niềm vui, sự  hứng thú khi tham gia các hoạt động cũng như  tạo sự  gần gũi,  
yêu thương giữa cô và trẻ.
* Số tiền làm lợi:
Khi sử dụng các biện pháp đã giúp tôi tiết kiệm được rất nhiều thời gian và  
công sức. Bởi như  chúng ta đã biết hiện nay công nghệ  thông tin đã bùng nổ 
chính vì vây mà tôi thường xuyên lên mạng sưu tầm những đoạn phim ngắn hay 
hình  ảnh rất sinh động về  làm tài liệu hay thông qua các phương tiện hiện đại 
như máy tính, máy chiếu tôi đã tạo nên các bài giảng powerpoint rất  hấp dẫn trẻ 
và đạt hiệu quả rất cao khi dạy trẻ.
Ngoài ra khi áp dụng biện pháp này giúp tôi tiết kiệm được rất nhiều về 

tiền bạc, kinh phí đầu tư vì tôi đã sưu tầm được rất nhiều đồ dùng, đồ chơi, tận  
dụng được những phế liệu bỏ của địa phương để làm đồ  dùng, đồ  chơi cho trẻ 
và thông qua công tác tuyên truyên truyền với các bậc phụ  huynh, các bậc phụ 
huynh đã ủng hộ rất nhiều các nguyên vật liệu để phục vụ tiết dạy.
5. Các thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không.
IV. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
*Điều kiện về cơ sở vật chất:
­ Các trang thiết bị cần thiết: Máy tính, máy chiếu.
­ Các đồ dùng, đồ chơi sẵn có và tự tạo...
­ Lớp học đầy đủ trang thiết bị cần cho trẻ: Tranh ảnh, rối, sân khấu, dụng 
cụ âm nhạc, đồ chơi các góc...
*Điều kiện về giáo viên:
­ Giáo viên mầm non, yêu nghề, nhiệt tình, ham học hỏi, sáng tạo.
* Điều kiện phối hợp với phụ huynh:
Nhiệt tình  ủng hộ  các phong trào của nhà trườ ng, của lớp, đặ c biệt là  
tuyên truyền phối h ợp với giáo viên trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ  nhằm  
nâng cao k ỹ năng nhận bi ết t ập nói cho trẻ.
*Điều kiện về trẻ:


­ Trẻ ngoan ngoãn, lễ phép, đi học đều, có kỹ năng giáo tiếp tốt với cô giáo, 
ông bà, cha mẹ và những người xung quanh. Đặc biệt thân thiện với bạn bè.
V.  Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan,  
tổ chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu  
(nếu có): 
Sáng kiến có khả  năng áp dụng rộng rãi cho trẻ  nhà trẻ  3­4 tuổi tại các 
trường mầm non.
Tôi làm đơn nay trân trọng đề  nghị  Hội đồng sáng kiến xem xét và công  
nhận sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng 
sự thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu 

trách nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.
Hương Canh, ngày 28  tháng 01 năm 2018
NGƯỜI VIẾT ĐƠN
Nguyễn Thị Minh Hải


PHÒNG GD&ĐT BÌNH XUYÊN CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc
TRƯỜNG MN TIÊN HƯỜNG
Số:     /NXSK­MNTH

Hương Canh , ngày    tháng     năm 2019

 
BẢN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
VÀ ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên
Phòng giáo dục và đào tạo huyện Bình Xuyên
Đơn vị  công tác: Trường  mầm non Tiên Hường nhận được đơn đề  nghị 
công nhận sáng kiến của Bà: Nguyễn Thị Minh Hải
­ Ngày tháng năm sinh: 11/06/1985; Giới tính:   Nữ
­ Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Tiên Hường.
­ Chức danh: Giáo viên.
­ Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm mầm non.
­ Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến : 100%
­ Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Minh Hải.
­ Tên sáng kiến: " Một số giải pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ  
mẫu giáo 3­ 4 tuổi thông qua hoạt dộng vui chơi”.
­ Lĩnh vực áp dụng: Trẻ mẫu giáo 3­ 4 tuổi tại  lớp 3 tuổi B.Trường Mầm  
Non Tiên Hường.

Sau khi nghiên cứu đơn đề nghị công nhận sáng kiến. 
­ Tôi tên là: Nguyễn Thị Xuân
­ Chức vụ: Hiệu trưởng trường mầm non Tiên Hường
Thay mặt trường mầm non Tiên Hường nhận xét, đánh giá như sau:
1. Đối tượng được công nhận sáng kiến: 
­ Giải pháp chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non.
+  Tìm hiểủ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
+ Phương pháp lấy trẻ làm trung tâm.
+ Dạy trẻ qua các hoạt động trên lớp
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong tiết dạy


+ Phối kết hợp giữa giáo viên­ gia đình và nhà trường 
2. Nhận xét, đánh giá về nội dung sáng kiến: 
a) Đảm bảo tính mới, tính sáng tạo:
­ Không trùng với nội dung của giải pháp trong đơn đăng ký sáng kiến nộp  
trước;
­ Chưa bị bộc lộ công khai trong các văn bản, sách báo, tài liệu kỹ thuật đến 
mức căn cứ vào đó có thể thực hiện ngay được;
­ Không trùng với giải pháp của người khác đã được áp dụng hoặc áp dụng  
thử, hoặc đưa vào kế hoạch áp dụng, phổ biến hoặc chuẩn bị các điều kiện để 
áp dụng, phổ biến;
­ Chưa được quy định thành tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm bắt buộc phải  
thực hiện.
b) Giải pháp có khả năng mang lại lợi ích thiết thực:
­ Mang lại hiệu quả kinh tế: Thiết thực, hiệu quả, không tốn tiền.
­ Mang lại lợi ích xã hội: Phát huy năng khiếu của trẻ, nâng cao kỹ  năng 
giao tiếp cho trẻ
c) Về khả năng áp dụng của sáng kiến : Sáng kiến có khả năng áp dụng 
rộng rãi cho trẻ mẫu giáo 3­ 4 tuổi tại các trường mầm non.

3. Kiến nghị đề xuất:
­  Công nhận sáng kiến sáng kiến đảm bảo có hiệu quả tốt.
­ Trường Mầm non Tiên Hường. Đề  nghị  Hội đồng sáng kiến xét công 
nhận sáng kiến" Một số giải pháp phát triển kỹ  năng giao tiếp cho trẻ mẫu  
giáo 3­ 4 tuổi thông qua hoạt dộng vui chơi”.
Xin trân trọng cảm ơn.
HIỆU TRƯỞNG
(Ký ghi rõ họ và tên)

         Nguyễn Thị Xuân



×