Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

SKKN: Một số kinh nghiệm để dạy tốt phân môn Địa lí lớp 4.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 13 trang )

         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

Phần I. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI

Ngay từ  đầu năm học, tôi nhận thấy rằng: Địa lí là phân môn rất mới lạ 
với học sinh lớp 4. Vì ở chương trình lớp 3 các em chưa được học Địa lí mà lên  
lớp 4 các em mới được làm quen với phân môn này. Vì thế khi học Địa lí các em 
rất ngỡ  ngàng, lúng túng, chưa hình dung được chương trình Địa lí lớp 4 có nội 
dung nào ?
          Bên cạnh đó, qua nhiều năm phụ trách lớp 4 bản thân tôi thấy: Đa số học  
sinh dành nhiều thời gian học cho các môn Toán, Tiếng Việt,… còn phân môn 
Địa lí thì được xem là môn học phụ, chỉ cần học bài là được. Chính những điều 
này đã làm tôi trăn trở  và ray rứt: Làm thế  nào để  học sinh có được lòng yêu 
thích, hứng thú học các tiết học Địa lí và thấy được : Địa lí có vai trò đặc biệt  
quan trọng, nó là cơ sở cho việc học tập phần Địa lí kinh tế ­ xã hội Việt Nam ở 
các lớp sau.
         Chính vì vậy để học sinh yêu thích, hứng thú học Địa lí và để nâng cao chất  
lượng học tập cho học sinh, tôi phải luôn tìm tòi, ra sức học hỏi, nghiên cứu 
nhiều sách tham khảo, với những kinh nghiệm của bản thân qua quá trình giảng 
dạy để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm:  “Một số kinh nghiệm để dạy tốt  

phân môn Địa lí lớp 4.”

Phần II. NỘI DUNG CẦN GIẢI QUYẾT
        Một trong những yếu tố  để  giúp cho tiết dạy Địa lí thành công, đạt chất 
lượng cao thì trước tiên giáo viên thiết kế  bài dạy sao cho thật sáng tạo, chất  
lượng, phù hợp với từng bài dạy, từng đối tượng học sinh. Nếu làm được như 
vậy sẽ gây hứng thú cho học sinh học Địa lí.
        Vậy muốn dạy cho học sinh một tiết Địa lí hấp dẫn, sinh động, đạt hiệu  
quả  cao để  các em có hứng thú ham học mỗi giờ Địa lí. Trước tiên tôi phải tìm  


hiểu những kiến thức, những thông tin về  lĩnh vực Địa lí của từng miền, từng  
vùng trên đài truyền hình, sách, báo, … nhằm cung cấp thêm những kiến thức cho 
các em để giáo dục các em biết yêu thiên nhiên và văn hoá gần gũi với các em.
       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 1


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

       Để đạt được điều này, tôi mạnh dạn vận dụng các biện pháp:

Biện pháp 1: Rèn kỹ năng đọc và chỉ bản đồ, lược đồ, bảng số liệu.
Biện pháp 2: Hình thành biểu tượng Địa lí.
Biện pháp 3: Hình thành khái niệm Địa lí.
Biện pháp 4: Giải thích hiện tượng Địa lí.
    

       Biện pháp 5: Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố Địa lí.
       Biện pháp 6: Liên hệ thực tế để khắc sâu kiến thức cho học sinh. 
      Biện pháp 7: Tổ chức thi đua khen thưởng qua những trò chơi.

Phần III. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT
        * Biện pháp 1: Rèn kỹ năng đọc và chỉ bản đồ, lược đồ, bảng số liệu:
Trong mỗi tiết học của phân môn Địa lí các em đều phải sử  dụng bản đồ, 
lược đồ,…. Vì bản đồ, lược đồ được sử dụng như là nguồn cung cấp kiến thức,  
là đối tượng để  học sinh chủ  động, tự  lực khai thác kiến thức Địa lí, học sinh  
phải biết đọc các kí hiệu trên bản đồ, lược đồ, hiểu được ý nghĩa màu sắc được 
biểu thị trên bản đồ, lược đồ, xác định được các yếu tố Địa lí trên bản đồ.
Đồ  dùng dạy học không thể  thiếu trong giảng dạy môn Địa lí là bản đồ, 
lược đồ, tranh ảnh, bảng số liệu, … bản đồ địa lí là hình vẽ thu nhỏ bề mặt Trái 

Đất hoặc một bộ phận của bề mặt Trái Đất trên mặt phẳng dựa vào các phương 
pháp toán học, phương pháp biểu hiện bằng kí hiệu để thể hiện các thông tin về 
Địa lí. Do đó, giáo viên sử  dụng bản đồ, lược đồ  cần chính xác và hiệu quả  để 
khai thác kiến thức mới. Muốn vậy, giáo viên phải:
         * Nắm được mục đích làm việc với bản đồ: 
Tức là đọc tên bản đồ, để biết nội dung sử dụng cung cấp kiến thức gì cho  
bài học. Bước này không khó, giáo viên cần lưu ý khi tự vẽ thêm bản đồ thì phải  
có tên bản đồ (có thể viết trên hoặc viết ở dưới)
       * Xem bảng chú giải để có biểu tượng địa lí cần tìm trên bản đồ:
Đọc bảng chú giải, kí hiệu nào cho biết thông tin gì. Ví dụ: đường đứt khúc  
chỉ ranh giới giữa các tỉnh, cây dù chỉ bãi biển, chấm tròn chỉ thành phố …
       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 2


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

      * Tìm vị trí địa lí của đối tượng trên bản đồ.
Đây chính là bước kĩ năng chỉ bản đồ. Ở  bước này giáo viên cũng như  học 
sinh thường chỉ không chính xác do không thường xuyên chỉ  bản đồ  nên dễ lúng 
túng. Chỉ bản đồ có các cách chỉ sau : 
 Chỉ điểm (thành phố , khoáng sản, …) 
 Chỉ đường (sông, dãy núi, …)
 Chỉ vùng (chỉ vị trí giới hạn của tỉnh, thành phố,…)
+  Một số thao tác khi chỉ các biểu tượng địa lí: 
­ Chỉ về một địa danh, một thành phố, một tỉnh… Nếu là bản đồ hành chính 
thì sẽ  có ranh giới giữa các nước, các thành phố, tỉnh. Giáo viên chỉ  theo đường  
ranh giới, bắt đầu  ở  điểm nào thì kết thúc  ở  điểm đó của một châu lục, một  
nước, một thành phố, một tỉnh muốn chỉ. Nếu là bản đồ tự nhiên thì thường một  
thành phố được kí hiệu bằng dấu chấm tròn, giáo viên chỉ ngay vào chấm tròn là  

thành phố, hoặc chỉ các phương tiện đi lại của các vùng miền (Xem chú giải trên 
bản đồ, lược đồ)
­ Chỉ về biển, sông ngòi, đại dương khi chỉ kéo rộng trong giới hạn của nó 
không lấn vào đất liền. Biển, sông, dãy núi chỉ  theo hướng từ  thượng lưu đổ 
xuống hạ lưu, từ nơi cao (độ cao của địa hình) xuống nơi thấp.        
 

* Quan sát đối tượng trên bản đồ, nhận xét và nêu đặc điểm đơn giản  

của đối tượng (khai thác một phần kiến thức mới). 
Ví dụ: Khi chỉ vị trí của nước Việt Nam, nhận xét vị  trí nước ta kéo dài từ 
Bắc xuống Nam, nằm phía cực Nam.
­ Bài Đồng bằng Nam Bộ, quan sát và chỉ  lược đồ  xong, học sinh có thể 
nhận xét ngay là hệ thống sông ngòi nhiều, chằng chịt.
­ Bài Người dân  ở  đồng bằng Nam Bộ, quan sát, nhận xét trang phục của  
người dân ở dồng bằng Nam Bộ…
          *  Xác lập mối quan hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố tự nhiên:

       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 3


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

Ví dụ:   Khi học sinh chỉ  được vị  trí nước ta, phía Đông giáp biển Đông,  
đường bờ  biển kéo dài như  thế  thì sẽ  thuận lợi để  phát triển ngành nào? (đánh 
bắt thủy hải sản). Đó chính là mối quan hệ  giữa vị  trí địa lí và hoạt động sản  
xuất.
*  Một số lưu ý:  
­ Tư  thế  khi thao tác là mặt quay xuống phía học sinh, có thể  đứng bên trái 

hay bên phải tùy thuộc giáo viên thuận tay nào.
­ Sử dụng dụng cụ chỉ bản đồ, không dùng tay thao tác.
­ Giới thiệu biểu tượng muốn chỉ  rồi thao tác, hoặc thao tác trước rồi giới 
thiệu biểu tượng, tránh vừa thao tác vừa giới thiệu rất dễ sai.
­ Bản đồ, lược đồ  khi treo trên bảng cần đủ  lớn để  tất cả  học sinh có thể 
quan sát được (trường hợp nhỏ phát về nhóm cho các em tự quan sát).
Giáo viên và học sinh nên thường xuyên thao tác trên bản đồ  để  giúp học 
sinh nhuần nhuyễn khi lên học lên lớp trên.      
* Biện pháp 2: Hình thành biểu tượng Địa lí:
         Đây là bước rất quan trọng. Vì vậy phương pháp hình thành biểu tượng Địa  
lí tốt nhất là giáo viên phải biết lựa chọn đối tượng quan sát phù hợp với trình độ 
học sinh và điều kiện của lớp, của địa phương để  cho các em quan sát trực tiếp  
các đối tượng tại thực địa hoặc qua tranh ảnh,…
       Ví dụ : Khi dạy bài: Hoạt động sản xuất của người dân Tây Nguyên
         Để hình thành biểu tượng rừng rụng lá trong mùa khô (rừng khộp). Tôi cho  
học sinh quan sát tranh về rừng khộp mà tôi sưu tầm được. Sau đó tôi hướng dẫn  
các em xác định mục đích quan sát về đặc điểm của rừng rụng lá mùa khô mà các 
em quan sát từ tranh ảnh là:
+ Rừng thưa
+ Chỉ có một vài cây
+ Lá rụng vào mùa khô
         * Biện pháp 3: Hình thành khái niệm Địa lí:
       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 4


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

        Hình thành khái niệm Địa lí là một trong những mục đích của việc dạy Địa  
lí. Vì thế  bước này rất quan trọng. Vậy muốn hình thành khái niệm Địa lí cho 

học sinh, tôi yêu cầu các em phải nắm được các dấu hiệu của đối  tượng Địa lí 
mà các em quan sát được từ  thực tế, từ  băng hình, tranh  ảnh để  các em tìm ra 
những dấu hiệu, bản chất của đối tượng Địa lí nhằm đưa ra khái niệm đúng về 
đối tượng.
       Ví dụ:  Khi dạy bài: Trung du Bắc Bộ
          Điều đầu tiên tôi cho học sinh xác định các tỉnh ở vùng trung du trên bản đồ 
Địa lí Việt Nam (tỉnh: Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên)
          Sau đó tôi cho học sinh quan sát vùng trung du qua tranh ảnh và băng hình, 
rồi tôi khai thác kinh nghiệm sống của các em bằng những câu hỏi sau :


Trong lớp ta, em nào đã nhìn thấy vùng trung du chưa ? Khi nào ? Ở 



Em hãy tả hoặc vẽ lại vùng trung du mà em đã thấy.

đâu ?

         Sau khi hình thành khái niệm Địa lí chung cho học sinh, tôi dựa vào trình độ 
của lớp để  soạn ra một hệ thống câu hỏi, bài tập nhằm hướng dẫn các em phát 
hiện ra dấu hiệu riêng của đối tượng Địa lí.
Ví dụ: Khi dạy bài: Tây Nguyên.
        Học sinh đã nêu được khái nịêm về cao nguyên là: Những vùng đất cao, có 
bề mặt tương đối bằng phẳng.
       

* Biện pháp 4: Giải thích hiện tượng Địa lí:
        Trong quá trình dạy Địa lí, tôi không để học sinh tiếp nhận suông các hiện  
tượng Địa lí mà tôi tập cho các em phải biết quan sát sự  vật, hiện tượng, tìm  

kiếm, thu thập tư  liệu về  Địa lí từ  các nguồn khác nhau để  tự  mình giải thích  
được các hiện tượng Địa lí gần gũi, đơn giản bằng vốn hiểu biết của các em.  
Trong quá trình quan sát sự  vật, hiện tượng, tìm kiếm, thu thập tư  liệu, tôi tạo  
điều kiện cho các em nêu thắc mắc, đặt câu hỏi để  các em giải thích, nhận biết  
đúng các hiện tượng Địa lí. Rồi sau đó tôi tổ  chức cho các em trình bày kết quả 

       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 5


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

làm việc của mình. Nếu làm được điều này, tức là đã gây hứng thú, phát huy  
được tính tích cực học tập của các em.
Ví dụ: Khi dạy bài: Dải đồng bằng duyên hải miền Trung
         Tôi yêu cầu học sinh phải tự mình giải thích được các hiện tượng Địa Lý 
mà các em tìm được. Chẳng hạn như:


Tại sao lại có tên gọi là dải đồng bằng duyên hải miền Trung ? (Do 

các đồng bằng nhỏ hẹp ở ven biển chạy dọc theo biển khu vực mi ền Trung nên  
mới gọi là Dải đồng bằng duyên hải miền Trung.


Tại sao hệ thống sông ngòi ở miền Trung thường nhỏ và ngắn? (Do 

ở miền Trung có nhiều đồi núi và nơi đây chủ yếu là dãy đất hẹp.



Tại sao vào mùa hạ   ở  nước ta thường có gió thổi từ  Lào sang (còn 

gọi là gió Lào)? (Khi gặp dãy núi Trường Sơn, gió bị  chặn lại, trút hết mưa  ở 
sườn tây, khi thổi sang sườn bên kia chỉ  còn hơi khô, nóng. Do đó ở  đồng bằng 
duyên hải miền Trung vào mùa hạ, gió rất khô và nóng. Vào mùa đông ở đây có  
gió thổi từ  biển vào mang theo nhiều hơi nước gây mưa nhiều. Do sông  ở  đây 
ngắn và nhỏ nên thường có lụt, nước từ núi đổ  xuống đồng bằng thường gây ra 
lũ lụt đột ngột).
          * Biện pháp 5: Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố địa lí:
          Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố địa lí là một bước rất quan trọng. Nó  
không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy Địa lí. Vì thế tôi luôn hướng dẫn 
học sinh biết xác lập mối quan hệ  giữa các hiện tượng địa lí tự  nhiên với tự 
nhiên, tự nhiên với kinh tế ­ xã hội, để các em thấy được sự tương quan, hỗ trợ 
giữa các yếu tố  địa lí. Mặt khác, các em sẽ  làm quen với cách tìm nguyên nhân  
khi biết kết quả.
Ví dụ: Khi dạy bài: Thành phố Đà Nẵng
Bằng hoạt động nhóm kết hợp với hình ảnh về các hoạt động sản xuất ở 
Đà Nẵng mà các em sưu tầm được thì các em sẽ  hiểu và phân tích được: Sản 
phẩm của Đà Nẵng chở đến các nơi khác chủ yếu là nguyên liệu chưa chế biến 
       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 6


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

như: cá, tôm đông lạnh để cung cấp cho các nhà máy chế biến, vật liệu thô như:  
đá để  xây dựng. Nếu các sản phẩm đông lạnh được chế  biến sẽ  có giá trị  cao 
hơn rất nhiều. Đà Nẵng có các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng, dệt chế biến thực 
phẩm, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng. Hiện nay Đà Nẵng đã xuất hiện 
những khu công nghiệp lớn thu hút nhiều nhà đầu tư. Đà Nẵng trở  thành trung 

tâm công nghiệp lớn và quan trọng của miền Trung.
 

* Biện pháp 6: Liên hệ thực tế để khắc sâu kiến thức cho học sinh: 
Nếu giáo viên chỉ  dạy những gì trong sách giáo khoa và sách giáo viên thể 

hiện thì chưa đủ. Vì chỉ  dạy những gì trong sách thì chưa thấy được vai trò của  
giáo viên. Trong sách có sẵn câu hỏi, phần trả  lời, học sinh chỉ  cần xem là làm  
được. Vậy vai trò giáo viên phải làm gì ?
Trước hết, chúng ta cần xác định dạy môn Tự nhiên xã hội nói chung và Địa 
lí nói riêng là cung cấp thêm cho các em một số vốn sống phù hợp với tâm sinh lí 
lứa tuổi của các em. Trẻ  nhỏ  thì mau quên nhưng cũng rất “tò mò”, thích khám 
phá. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy giáo viên khắc sâu kiến thức sẽ  giúp các  
em hứng thú tìm tòi, yêu thích môn học hơn. Để  làm được điều này, trước tiên 
giáo viên cần tham khảo sách, báo tư liệu, tranh ảnh … liên quan đến nhiều môn 
chứ không riêng môn Địa lí. Cập nhật kiến thức thường xuyên như một thói quen 
thì lúc đó chúng ta sẽ nhớ lâu hơn. Tuy nhiên khi khắc sâu hay mở rộng kiến thức  
phải có sự lựa chọn, đảm bảo tính chính xác, bám sát vào nội dung bài đang dạy  
tránh sa đà đi quá mục tiêu bài.
Để tiết học Địa lí được sinh động, hấp dẫn, phát huy được tính tích cực của  
học sinh, không những tôi cung cấp kiến thức Địa lí  ở  sách giáo khoa mà còn 
cung cấp cho trẻ kiến thức từ cuộc sống, ngoài thực tế  xã hội, để  trẻ  có được 
vốn kiến thức khá đầy đủ vừa ở sách vừa ở cuộc sống thực tế. Muốn làm được 
điều này, tôi phải học hỏi, thu thập những kiến thức về Địa lí qua các nguồn tài 
liệu, để làm giàu thêm vốn hiểu biết của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài : Hoạt động sản xuất của người dân  ở  Tây Nguyên  
(tiếp theo)
       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 7



         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

Tôi yêu cầu các em dựa vào tranh đã sưu tầm để  tìm thông tin và trình bày 

khai thác rừng và những nguyên nhân dẫn đến diện tích rừng bị giảm. Sau đó tôi  
giảng thêm rằng: Rừng Tây Nguyên cho ta nhiều sản vật nhất là gỗ. Ngoài gỗ,  
rừng còn có tre, nứa, mây, các loại cây làm thuốc và nhiều thú quý.
Tuy nhiên hiện nay do phong trào di dân tự  do từ  các nơi khác đến Tây 
Nguyên để phá rừng, lấy đất trồng cây công nghiệp (cà phê, cao su, tiêu…), nên  
rừng ở Tây Nguyên bị chặt phá bừa bãi, dẫn đến diện tích rừng giảm mạnh, môi 
trường bị huỷ hoại, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất và đời sống của con người.  
Vì thế chúng ta phải bảo vệ rừng bằng nhiều cách:
+ Khai thác rừng hợp lý.
+ Tạo điều kiện để đồng bào định canh định cư.
+ Không đốt phá rừng.
+ Mở rộng diện tích trồng cây.
+…
Ví dụ: Khi dạy bài: Biển, đảo và quần đảo
Để cho tiết học được sinh động, thu hút học sinh, tôi tổ  chức cho lớp thăm 
cảnh biển qua tranh  ảnh, kết hợp với việc xem băng hình về  các đảo và quần 
đảo ở nước ta để học sinh thấy được: Chúng ta đã lợi dụng thuỷ triều lên xuống  
để  đánh bắt cá và làm muối. Ngoài những loài cá, loài tôm có giá trị  xuất khẩu  
cao, vùng biển nước ta còn có nhiều đặc sản quý như: hải sâm, bào ngư, sò  
huyết…
Dọc bãi biển có nhiều bãi cát chứa ôxít titan có giá trị xuất khẩu. Biển nước  
ta là nguồn muối vô tận. Nghề  làm muối được phát triển từ  lâu đời ở  vùng ven 
biển từ Bắc vào Nam. Đặc biệt là ven biển Nam Trung Bộ  ở Sa Huỳnh (Quảng  
Ngãi), Cà Ná (Ninh Thuận).
Việt Nam có nguồn tài nguyên du lịch phong phú. Dọc bờ biển nước ta, suốt  

từ  Bắc vào Nam có nhiều bãi cát rộng, dài, phong cảnh đẹp, thuận lợi cho việc 
xây dựng các khu du lịch. Nhiều đảo ven bờ có phong cảnh kỳ thú hấp dẫn khách  
du lịch. Đặc biệt Vịnh Hạ Long dược UNETCO công nhận là di sản thiên nhiên 
       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 8


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

thế  giới. Tuy nhiên trong những năm gần đây diện tích rừng ngập mặn nước ta 
giảm nhanh. Nguồn lợi hải sản cũng giảm đáng kể, khiến cho lượng cá đánh bắt 
hàng năm giảm, một số  loài hải sản có nguy cơ  tuyệt chủng như: cá mòi, cá  
cháy…
Ô nhiễm môi trường có xu hướng gia tăng rõ rệt làm cho chất lượng nhiều 
vùng biển của nước ta giảm sút. Hậu quả là làm giảm nguồn tài nguyên sinh vật 
biển, ảnh hưởng xấu tới chất lượng của khu du lịch biển. Vì vậy chúng ta phải 
bảo vệ giống loài, không đánh bắt cá bừa bãi, giữ  vệ sinh môi trường biển, lập  
khu bảo tồn động vật biển.
Khi dạy bài: Khai thác khoáng sản và hải sản ở vùng biển Việt Nam
Tôi hướng dẫn học sinh thấy được nước ta có nhiều loại khoáng sản nhưng 
nguồn dự  trữ  của từng mỏ  không lớn. Nếu khai thác không có kế  hoạch thì 
nguồn khoáng sản sẽ cạn kiệt nhanh chóng.
* Biện pháp 7: Tổ chức thi đua khen thưởng qua những trò chơi:
Trong những yếu tố  quyết định cho phần kiểm tra, củng cố  kiến thức sau 
bài học đạt chất lượng cao đó là “Tổ  chức thi đua khen thưởng qua những trò 
chơi”. Muốn làm tốt điều này tôi phải luôn thay đổi trò chơi với nhiều hình thức  
mới lạ nhằm tạo hứng thú cho học sinh để thu hút các em học tập.
Ví dụ: Trò chơi: “Ô CHỮ KÌ DIỆU”
­ Tôi chuẩn bị  sẵn các ô chữ  hàng dọc và hàng ngang. Luật chơi của các 
nhóm.

­ Sau khi nghe lời gợi ý về  các ô chữ  hàng ngang, đội nào nghĩ ra trước có  
thể phất cờ để xin trả lời trước.
­ Mỗi ô chữ hàng ngang trả lời đúng: đội ghi được 5 điểm.
­ Ô chữ hàng dọc trả lời đúng: đội ghi được 20 điểm.
­ Nếu sai: đội không ghi được điểm.
­ Các đội  đều có quyền đặt bông hoa hy vọng  ở  mỗi lần trước khi giải ô 
chữ hàng ngang để nếu trả lời đúng thì được tăng gấp đôi số điểm của mình.

       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 9


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

­ Nội dung ô chữ:

1.

Đây là một đặc điểm của loại đất ba dan có 6 ô chữ.

2.

Đây là loài gia súc được chăn nuôi phổ biến ở Tây Nguyên có 6 ô chữ.

3.

Đây là dụng cụ phục vụ việc tưới tiêu vào mùa khô có 6 ô chữ.

4.


Đây là một thuận lợi tạo điều kiện cho việc phát triển chăn nuôi trâu bò có 

6 ô chữ.
5.

Đặc điểm hương vị của cà phê ở Buôn Ma Thuột có 8 ô chữ.

6.

Đây là một trong các loại cây trồng có giá trị xuất khẩu có 5 ô chữ.

7.

Nuôi và thuần dưỡng voi ở Tây Nguyên được xem là nghề như thế nào? có 

11 ô chữ.
8.

Đây là loại cây trồng nhiều nhất ở Buôn Ma Thuột có 5 ô chữ.

9.

Đây là loài vật đặc trưng của Tây Nguyên có 6 ô chữ.


Ô chữ hàng dọc: Tây Nguyên

 Qua những tiết học, những tiết ôn tập và những tiết thực hành trên bản đồ, 
học sinh sẽ tự mình giải thích được các hiện tượng địa lí đơn giản bằng những  
       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 

10


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

kiến thức mà mình đã học, và tự mình tìm hiểu các vùng, miền trên đất nước về 
điều kiện tự nhiên, về đặc điểm kinh tế của từng nơi, biết phân tích các mối liên 
hệ  giữa các hiện tượng địa lí. Trong quá trình học, các em biết được các vùng, 
miền, thành phố… nằm  ở  phía nào (phần nào) của bản đồ; Địa hình khí hậu, 
sông ngòi, thực vật, động vật nơi đó ra sao? Tóm lại các em có thể  du lịch vòng 
quanh đất nước Việt Nam bằng tấm bản đồ. Từ đó các em sẽ biết tôn trọng, bảo 
vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hoá gần gũi với các em.
Qua phần tìm hiểu những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ở các bài Địa lí  
học sinh sẽ  biết nhân dân  ở  mỗi khu vực sinh sống và hoạt động như  thế  nào, 
khai thác và sử dụng điều kiện tự nhiên ở nơi đó ra sao. Qua đó các em hiểu biết 
hơn về đời sống của nhân dân ta ở từng nơi, từng vùng. Từ đây, học sinh sẽ hãnh  
diện về tinh thần vượt khó, cần cù lao động của người Việt Nam, về những nét  
văn hoá độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc, đồng thời thêm lòng yêu thiên nhiên,  
con người, quê hương, đất nước.
Vậy sau khi học xong phân môn Địa lí các em thấy rằng: Đất nước ta rất 
giàu tài nguyên khoáng sản, động vật, thực vật…. Thông qua phân môn Địa lí các  
em thấy tự  hào về  đất nước của mình. Muốn sử  dụng các nguồn tài nguyên đó  
để làm giàu cho đất nước thì điều đó còn phụ thuộc vào tinh thần, khả năng học 
tập của mỗi chúng ta.

Phần IV. KẾT QUẢ
Qua quá trình thực hiện biện pháp trên, tôi thấy lớp tôi học Địa lí có nhiều  
tiến bộ rõ rệt. Điều đó thể hiện rõ ở các giai đoạn khảo sát như sau:
Giai đoạn

Cuối học kì I
Cuối học kì II

Điểm 9­10
SL
Tỉ lệ
8
22.9%
14
40.0%

Điểm 7­8
SL
Tỉ lệ
12
34.3%
16
45.7%

Điểm 5­6
SL
Tỉ lệ
11
31.4%
5
14.3%

Điểm dưới 5
SL
Tỉ lệ

4
11.4%
0
0%

Qua kết quả  khảo sát và số  liệu ghi chép tôi rất phấn khởi thấy trong các 
giờ Địa lí, học sinh say mê tìm hiểu và lớp học sôi nổi hẳn lên. Đây chính là động  
       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 
11


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

lực thúc đẩy tôi đem hết khả năng và sự  hiểu biết của mình truyền đạt cho các 
em.

Phần V. KẾT LUẬN
1. Tóm lược giải pháp:
Qua quá trình thực hiện các biện pháp trên, tôi thấy các en học sinh có sự 
chuyển biến rõ rệt về  phân môn Địa lí và các môn học khác như  Lịch sử, Khoa 
học…, nhất là các em đã yêu thích, hứng thú học các tiết Địa lí. Bên cạnh đó kỹ 
năng đọc, chỉ bản đồ, phân tích bảng số liệu, các mối quan hệ Địa lí đơn giản…  
rất thành thạo, nên trong các tiết thực hành, các bài tập hay các tiết ôn tập được 
tiến hành tốt và đạt kết quả cao, lớp học rất sôi động thông qua hoạt động nhóm, 
cá nhân… Có bài Địa lí các em không cần phải học thuộc lòng mà thông qua các 
lược đồ, bản đồ  của tiết học đó thì các em có thể  hiểu được toàn bộ  nội dung  
bài học đầy đủ, chính xác.
Điều đáng mừng hơn nữa là học sinh rất có ý thức tự  giác trong học tập.  
Nhờ học tốt phân môn Địa lí mà học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học vào  

cuộc sống trong việc yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước, tôn trọng, 
bảo vệ, môi trường và di sản văn hoá.
Để  dạy tốt ­ học tốt Địa lí chúng tôi luôn tâm niệm rằng: Giáo viên phải  
hình thành được biểu tượng địa lí và rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng địa lí 
như: Sử dụng bản đồ, phân tích bảng số liệu và biểu đồ... Do đó việc hình thành 
biểu tượng địa lí và rèn luyện kỹ  năng sử  dụng bản đồ  là hai nhiệm vụ  quan  
trọng của phần Địa lí ở  tiểu học. Theo tôi nghĩ có sử  dụng tốt các phương pháp  
này thì người giáo viên mới dạy tốt phân môn Địa  lí được và một số  môn học 
khác. Ngoài các giải pháp nêu trên, chúng ta cần cập nhật các thông tin về dân số,  
tình hình kinh tế, chính trị  của đất nước cũng như  trên thế  giới để  bổ  sung các 
thông tin giúp cho các em hiểu biết thêm, để  áp dụng vào so sánh bảng số  liệu.  
Vì nếu chúng ta chỉ  sử  dụng sách giáo khoa thì chưa đủ, mà cần phải cập nhật 

       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 
12


         Sáng kiến kinh nghiệm                                                                                  Năm học 2018 ­ 
2019

thông tin kịp thời, chính xác có liên quan đến nội dung bài học (Ví dụ như: dân số 
mỗi năm ở mỗi huyện, tỉnh, thành phố mỗi khác, kinh tế chính trị cũng thay đổi). 
2. Phạm vi đối tượng áp dụng:
Trên đây mới là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi để học sinh yêu thích, hứng 
thú học Địa lí và để  nâng cao chất lượng học tập cho học sinh,   trong thực tế 
giảng dạy mỗi người đều có suy nghĩ, kinh nghiệm, bí quyết nghề  nghiệp riêng 
của mình nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và học. Đề  tài 
này áp dụng cho lớp 4/4 nói riêng và khối 4 nói chung của trường Tiểu học 
Huỳnh Văn Đảnh năm học 2018 ­ 2019 đạt hiệu quả tốt, tôi nghĩ rằng có thể áp 
dụng cho tất cả  các trường Tiểu học trong toàn huyện để  nâng cao chất lượng  

dạy và học.      

       Trần Thị Lệ Quyên                                                                                                             Trang 
13



×