Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.48 KB, 45 trang )

TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH.
1.1. CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN
PHẨM.
1.1.1. Chất lượng sản phẩm.
1.1.1.1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và được sử dụng
rất phổ biến trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Tuy nhiên, để hiểu rõ
và đầy dủ về khái niệm chất lượng sản phẩm thì thật không hề đơn giản. Bởi
đây là một phạm trù phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế
và xã hội. Đứng ở những góc độ khác nhau và tùy theo mục tiêu, nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh có thể đưa ra những quan niệm về chất lượng sản phẩm thành
những nhóm chủ yêu sau:
- Quan niệm siêu việt: cho rằng chất lượng là sự tuyệt vời và hoàn hảo nhất
của sản phẩm.
Quan niệm này quá tính trừ tượng bởi chất lượng sản phẩm không thể xác
định một cách chính xác.
- Quan niệm theo hướng công nghệ: cho rằng chất lượng sản phẩm là tồng
hợp những đặc tính bên trong sản phẩm, có thể đo được hoặc so sánh được,
phản giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng yêu cầu định trước
cho nó, trong những yêu cầu xác định về kinh tế xã hội.
Ưu điểm của quan niệm này là có thể dễ dàng đánh giá được chất lượng
đơn thuần về mặt kỹ thuật và ở mặt tương đối tĩnh.
Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm là dễ dẫn đến nguy cơ làm cho chất
lượng không kịp thời cải tiến, không gắn chặt với nhu cầu thị trường và dẫn đến
kết quả là tiêu thụ sản phẩm kém.
- Quan niệm theo hướng khách hàng: theo hướng này có rất nhiều chuyên
gia nổi tiếng như:
Theo W.E.Deming: “ Chất lượng là mức độ dự đoán trước về tính đồng
đều và có thể tin cậy được, tại mức chi phí thấp và được thị trường chấp nhận”.
Theo Philip B.Crosby trong quyển “ Chất lượng là thứ cho không” đã diễn
tả: “ Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu”.


Theo A. Feigenbaum: “ Chất lượng là những đặc điểm tổng hợp của sản
phẩm dịch vụ mà khi sử dụng sẽ làm cho sản phẩm, dịch vụ đáp ứng được mong
đợi của khách hàng”.
Hầu hết các tác giả đều khẳng định chất lượng sản phẩm chính là mức độ
thỏa mãn nhu cầu hay sự phù hợp với những đòi hỏi của khách hàng. Từ đó mà
mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt
được. Chất lượng sản phẩm không chỉ là các chỉ tiêu kỹ thuật mà cả về những
yêu cầu về mặt kinh tế xã hội.
Điểm đặc biệt nổi bật của quan niệm này là ở chỗ chất lượng sản phẩm
luôn gắn bó chặt chẽ với nhu cầu và xu hướng vận động của nhu cầu thị trường
nên sản phẩm phải thường xuyên cải tiến, đổi mới phù hợp cho thích ứng với
đòi hỏi của khách hàng.
- Ngoài ra, xuất phát từ việc nhấn mạnh đến mục tiêu chủ yếu của từng
doanh nghiệp theo đổi nhằm thích ứng với đòi hỏi của thị trường như lợi thế
cạnh tranh, tính hoàn thiện không ngừng của sản phẩm, khả năng vượt những
đòi hỏi của khách hàng,…ta còn có các quan điểm khác về chất lượng sản phẩm
như:
Quan niệm của tổ chức tiêu chuẩn chất lượng của nhà nước Liên Xô
(IOCT: 15467:70): “Chất lượng sản phẩm là tổng thể những thuộc tính của nó
quy định tính thích hợp sử dụng của sản phẩm để thỏa mãn những nhu cầu phù
hợp với công dụng của nó”.
Quan niệm của tổ chức tiêu chuẩn chất lượng Quốc tế ISO: “Chất lượng là
tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của nó thể hiện được sự thỏa mãn nhu
cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản
phẩm mà người tiêu dung mong muốn.”
Cho tới nay quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục được mở rộng hơn
nữa, “Chất lượng là sự kết hợp giữa các đặc tính của sản phẩm thỏa mãn những
nhu cẩu của khách hàng trong giới hạn chi phí nhất định. Trong thực tế ta thấy
rằng các doanh nghiệp không theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà
luôn đặt nó trong một giới hạn về công nghệ, kinh tế, xã hội.

1.1.1.2. Phân loại chất lượng sản phẩm.
Qua sự phân tích nghiên cứu, các chuyên gia chất lượng sản phẩm đã đưa
ra 6 loại chất lượng sản phẩm như sau:
Chất lượng thiết kế: là chất lượng thể hiện những thuộc tính chỉ tiêu của
sản phẩm được phác thảo trên cơ sở nghiên cứu thị trường được định ra để sản
xuất, chất lượng thiết kế được thể hiện trong các bản vẽ, bản thiết kế, các yêu
cầu về vật liệu chế tạo, những yêu cầu về gia công, sản xuất chế tạo, yêu cầu về
bảo quản, về thử nghiệm và những yêu cầu hướng dẫn sử dụng. Chất lượng thiết
kế còn gọi là chất lượng chính sách nhằm đáp ứng đơn thuần về lý thuyết đối
với nhu cầu thị trường, còn thực tế có đạt được điều đó hay không thì nó còn
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.
Chất lượng chuẩn: là loại chất lượng mà thuộc tính và chỉ tiêu của nó được
phê duyệt trong quá trình quản lý chất lượng và người quản lý chính là các cơ
quan quản lý và chính chỉ có họ mới có quyền phê chuẩn. Sau khi phê chuẩn rồi
thì chất lượng này trở thành pháp lệnh, văn bản pháp quy.
Chất lượng thực tế: là mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản
phẩm và nó được thể hiện sau quá trình sản xuất, trong quá trình sử dụng sản
phẩm.
Chất lượng cho phép: là mức độ cho phép về độ lệch giữa chất lượng
chuẩn và chất lượng thực tế của sản phẩm. Chất lượng cho phép do cơ quan
quản lý chất lượng sản phẩm, cơ quan quản lý thị trường, hợp đồng quốc tế, hợp
đồng giữa đôi bên quy định.
Chất lượng tối ưu: biểu thị khả năng toàn diện đáp ứng nhu cầu của thị
trường trong điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp nhất. Nó nói lên
mối quan hệ giữa chất lượng sản phẩm và chi phí.
Chất lượng toàn phần: là mức chất lượng thể hiện mức tương quan giữa
hiệu quả có ích cho sử dụng sản phẩm có chất lượng cao và tổng chi phí để sản
xuất và sử dụng sản phẩm đó.
1.1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng ta có thể chia

thành hai nhóm yếu tố chủ yếu. Đó là nhóm yếu tố bên ngoài và nhóm yếu tố
bên trong.
* Nhóm yếu tố bên ngoài:
- Nhu cầu của nền kinh tế:
Ở bất cứ trình độ nào, với mục đích sử dụng gì, chất lượng sản phẩm bao
giờ cũng bị chi phối, rằng buộc bởi hoàn cảnh, điều kiện nhu cầu nhất định của
nền kinh tế, được thể hiện ở những mặt sau:
+ Nhu cầu của thị trường: là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất
lượng. Trước khi tiến hành thiết kế, sản xuất sản phẩm, cần phải tiến hành
nghiêm túc, thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân
tích môi trường kinh tế - xã hội, nắm bắt chính xác các yêu cầu chất lượng cụ
thể của khách hàng cũng như những thói quen tiêu dung, phong tục tập quán,
văn hóa lối sống, khả năng thanh toán của khách hàng …để có đối sách đúng
đắn.
+ Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất: đảm bảo chất lượng luôn là vấn đề
nội tại của bản thân nền sản xuất xã hội nhưng việc nâng cao chất lượng không
thể vượt ra ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế.
+ Chính sách kinh tế: hướng đầu tư, hướng phát triển loại sản phẩm nào đó
cũng như mức thỏa mãn các loại nhu cầu được thể hiện trong các chính sách
kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
- Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật:
Trong thời đại ngày nay, trình độ chất lượng của bất cứ sản phẩm nào cũng
gắn liền và bị chi phối bởi sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, đặc biệt là sự
ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Hướng chính của việc
áp dụng các kỹ thuật tiến bộ hiện nay là:
+ Sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế.
+ Cải tiến hay đổi mới công nghệ.
+ Cải tiến sản cũ và chế thử sản phẩm mới.
- Hiệu lực của cơ chế quản lý:
Có thể nói rằng khả năng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi

tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế quản lý của mỗi nước.
Hiệu lực quản lý nhà nước là đòn bẩy quan trọng trong việc quản lý chất
lượng sản phẩm, đảm bảo cho sự phát triển ổn định của sản xuất, đảm bảo uy tín
và quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dung.
Mặt khác, nó còn góp phần tạo tính tự chủ, độc lập, sáng tạo trong cải tiến
chất lượng sản phẩm của các tổ chức, hình thành môi trường thuận lợi cho việc
huy động các nguồn lực, các công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng những phương
pháp quản lý chất lượng hiện đại.
* Nhóm yếu tố bên trong tổ chức.
Trong phạm vi một tổ chức thì có 4 yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm ( được biệu thị bằng quy tắc 4 M), đó là:
- Men (con người): lực lượng lao động trong tổ chức (bao gồm tất cả
thành viên trong tổ chức, từ cán bộ lãnh đạo đến nhân viên thừa hành). Năng
lực, phẩm chất của mỗi thành viên và mối liên kết giữa các thành viên có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng.
- Methods (phương pháp): phương pháp công nghệ, trình độ tổ chức
quản lý và tổ chức sản xuất của tổ chức. Với phương pháp công nghệ thích hợp,
với trình độ quản lý và tổ chức sản xuất tốt sẽ tạo điều kiện cho tổ chức có thể
khai thác tốt nhất các nguồn lực hiện có, góp phần nâng cao chất lượng sản
phẩm.
- Machines (máy móc thiết bị): khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị
của tổ chức. Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị có tác động rất lớn trong việc
nâng cao những tính năng kỹ thuật của sản phẩm và nâng cao năng suất lao
động.
- Materials (nguyên vật liệu): vật tư, nguyên nhiên liệu và hệ thống tổ
chức đảm bảo vật tư, nguyên nhiên liệu của tổ chức. Nguồn vật tư, nguyên
nhiên liệu được đảm bảo những yêu cầu chất lượng và được cung cấp đúng số
lượng, đúng thời hạn sẽ tạo điều kiện đảm bảo và nâng cao chất lượng sản
phẩm.
[1]


1.1.2. Quản lý chất lượng.
1.1.2.1. Khái niệm về quản lý chất lượng.
Quản lý chất lượng là một khái niệm rộng xét từ khái niệm “quản lý” và
“chất lượng”. Theo định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO) nêu
trong Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000:
[1][1] Quản lý chất lượng trong các tổ chức, Nxb Thống kê( từ trang 35-37)
- Chất lượng là mức độ đáp ứng yêu cầu của một tập hợp các đặc tính vốn
có.
- Quản lý chất lượng được hiểu là các hoạt động nhằm điều chỉnh và kiểm
soát một cơ quan, tổ chức về (vấn đề) chất lượng.
Theo các định nghĩa này ta có thể thấy phạm vi quản lý là rất rộng. Tuy
nhiên, đứng ở phạm vi quốc gia quản lý chất lượng được thực hiện chủ yếu ở
hai cấp độ chính là Nhà nước và Doanh nghiệp. Xét về đối tượng, đối tượng của
quản lý chất lượng chính là các sản phẩm của tổ chức, trong đó bao gồm hàng
hóa, dịch vụ hoặc quá trình.
[2]
1.1.2.2. Sự ra đời của quản lý chất lượng trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế.
Ta sẽ chỉ xét quản lý chất lượng ở cấp doanh nghiệp. Hoạt động quản lý
chất lượng trong các doanh nghiệp hay nói rộng hơn là của các tổ chức không
phải là nhà nước hết sức đa dạng do tính chất hoạt động của các tổ chức này.
[2][2] Trang web: Công ty cổ phần cơ giới, lắp máy & xây dựng - VIMECO
Theo Bộ Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000 được thông qua lần đầu tiên vào
năm 1987 (ISO 9000:1987), đến năm 2000 bộ tiêu chuẩn này đã được sửa đổi
bổ xung lần thứ ba với ký hiệu ISO 9000:2000. Đây là sự thay đổi về chất đối
với bộ tiêu chuẩn này, đó chính là sự thay đổi khái niệm “đảm bảo chất lượng”
bằng “quản lý chất lượng”. Khái niệm “quản lý chất lượng” không chỉ dành cho
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, mà còn cho tất cả
các tổ chức khác như tổ chức sự nghiệp: Nhà trường, bệnh viện, viện nghiên

cứu…và cả các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị. Nghĩa là có
thể áp dụng cho tất cả những tổ chức nào muốn nâng cao hiệu quả hoạt động
của mình nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng khi sử
dụng sản phẩm của mình. Khái niệm sản phẩm ở đây theo đó cũng hết sức rộng:
‘nó là kết quả của một quá trình hoạt động của con người’. Đây cũng là hệ quả
tất yếu của quá trình quản lý chất lượng của thế giới trước tác động của quá
trình toàn cầu hóa nói chung và tự do hóa thương mại nói riêng đang ngày càng
sâu rộng. Các phương pháp quản lý chất lượng gồm:
- Kiểm tra chất lượng (Quality Inspection) với mục tiêu để sàng lọc các sản
phẩm không phù hợp, không đáp ứng yêu cầu, có chất lượng kém ra khỏi các
sản phẩm phù hợp, đáp ứng yêu cầu, có chất lượng tốt. Mục đích là chỉ có sản
phẩm đảm bảo yêu cầu đến tay khách hàng.
- Kiểm soát chất lượng (Quality Control – QC) với mục tiêu ngăn ngừa
việc tạo ra, sản xuất ra các sản phẩm khuyết tật. Để làm được điều này, phải
kiểm soát các yếu tố như con người, phương pháp sản xuất, tạo ra sản phẩm
(như dây truyền công nghệ), các đầu vào (như nguyên, nhiên vật liệu…), công
cụ sản xuất (như trang thiết bị công nghệ) và yếu tố môi trường (như địa điểm
sản xuất).
- Kiểm soát chất lượng toàn diện (Total Quality Control – TQC) với mục
tiêu kiểm soát tất cả các quá trình tác động đến chất lượng kể cả các quá trình
xảy ra trước và sau quá trình sản xuất sản phẩm, như khảo sát thị trường, nghiên
cứu, lập kế hoạch, phát triển, thiết kế và mua hàng; và lưu kho, vận chuyển,
phân phối, bán hàng và dịch vụ sau khi bán hàng.
- Quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality Management – TQM) với
mục tiêu của TQM là cải tiến chất lượng sản phẩm và thỏa mãn khách hàng ở
mức tốt nhất có thể. Phương pháp này cung cấp một hệ thống toàn diện cho hoạt
động quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và huy động
sự tham gia của tất cả các cấp, của mọi người nhằm đạt được mục tiêu chất
lượng đã đặt ra.
Sự liệt kê các phương pháp quản lý chất lượng nêu trên cũng phản ảnh sự

phát triển của hoạt động quản lý chất lượng trên phạm vi thế giới diễn ra trong
hàng thế kỷ qua, thông qua sự thay đổi tư duy của các nhà quản lý chất lượng
trong tiến trình phát triển kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ của thế
giới.
Ngoài các bộ tiêu chuẩn của ISO về hệ thống quản lý chất lượng (ISO
9001), nhiều các hệ thống khác cũng đang được các doanh nghiệp Việt Nam
xem xét áp dụng, như ISO 14001 – hệ thống quản lý môi trường, HACCP – Hệ
thống Phân tích các nguy cơ và Kiểm soát các điểm trọng yếu trong lĩnh vực
nông sản thực phẩm, GMP – Quy chế thực hành sản xuất tốt trong lĩnh vực
dược và thực phẩm, OHSAS 18001 – Hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe
nghề nghiệp, SA 8000 Hệ thống trách nhiệm xã hội và các hệ thống quản lý chất
lượng tích hợp hoặc đặc thù như ISO 22000 Hệ thống quản lý an toàn thực
phẩm (food chain), ISO/TS 29001 Công nghiệp dầu khí và hóa dầu – Hệ thống
quản lý chất lượng trong các ngành công nghiệp đặc thù- yêu cầu đối với các tổ
chức cung cấp sản phẩm và dịch vụ.
Ngoài các doanh nghiệp, việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức sự nghiệp và các cơ quan hành
chính nhà nước cũng được quan tâm. Điều này chứng tỏ quản lý chất lượng
ngày càng trở nên quan trọng và được áp dụng sâu rộng trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống.
1.1.2.3. Các nguyên tắc quản lý chất lượng
Nguyên tắc 1: Định hướng bởi khách hàng.
Doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần hiểu
những nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng để không chỉ đáp ứng mà
còn vượt cao hơn sự mong đợi của họ.
Nguyên tắc 2: Sự lãnh đạo.
Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ giữa mục đích và đường lối của
doanh nghiệp. Lãnh đạo cần tạo ra và duy trì môi trường nội bộ trong doanh
nghiệp để hoàn toàn lôi cuốn mọi người trong việc đạt được các mục tiêu của
doanh nghiệp.

Nguyên tắc 3: Sự tham gia của mọi người.
Con người là nguồn lực quan trọng nhất của một doanh nghiệp và sự tham
gia đầy đủ với những hiểu biết và kinh nghiệm của họ rất có ích cho doanh
nghiệp.
Nguyên tắc 4: Quan điểm quá trình.
Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn và các
hoạt động có liên quan được quản lý như một quá trình.
Nguyên tắc 5: Tính hệ thống.
Việc xác định, hiểu biết và quản lý một hệ thống các quá trình có liên quan
lẫn nhau đối với mục tiêu đề ra sẽ đem lại hiệu quả của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 6: Cải tiến liên tục.
Cải tiến liên tục là mục tiêu, đồng thời cũng là phương pháp của mọi doanh
nghiệp. Muốn có khả năng cạnh tranh và mức độ chất lượng cao nhất, doanh
nghiệp phải liên tục cải tiến.
Nguyên tắc 7: Quyết định dựa trên sự kiện.
Mọi quyết định và hành động của hệ thống quản lý hoạt động kinh doanh
muốn có hiệu quả phải được xây dựng dựa trên việc phân tích dữ liệu và thông
tin.
Nguyên tắc 8: Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng.
Doanh ngiệp và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau và mối quan hệ tương
hỗ cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.
1.2. QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH.
1.2.1. Khái niệm quản lý chất lượng công trình.
Thông thường, xét từ góc độ bản thân sản phẩm xây dựng và người thụ
hưởng sản phẩm xây dựng:
Chất lượng công trình được đánh giá bởi các đặc tính cơ bản như: công
năng, độ tiện dụng; tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật; độ bền vững, tin cậy; tính
thẩm mỹ; an toàn trong khai thác, sử dụng, tính kinh tế; và đảm bảo về tính thời
gian (thời gian phục vụ của công trình).
Rộng hơn, chất lượng công trình xây dựng còn có thể và cần được hiểu

không chỉ từ góc độ của bản thân sản phẩm và người hưởng thụ sản phẩm xây
dựng mà còn cả trong quá trình hình thành sản phẩm xây dựng đó với các vấn
đề liên quan khác. Một số vấn đề cơ bản trong đó là:
- Chất lượng công trình xây dựng cần được quan tâm ngay từ trong khi
hình thành ý tưởng về xây dựng công trình, từ khâu quy hoạch, lập dự án, đến
khảo sát, thiết kế, thi công... đến giai đoạn khai thác, sử dụng và dỡ bỏ công
trình sau khi đã hết thời hạn phục vụ. Chất lượng công trình xây dựng thể hiện
ở chất lượng quy hoạch xây dựng , chất lượng dự án đầu tư xây dựng công
trình, chất lượng khảo sát, chất lượng các bản vẽ thiết kế...
- Chất lượng công trình tổng thể phải được hình thành từ chất lượng của
nguyên vật liệu, cấu kiện, chất lượng của công việc xây dựng riêng lẻ, của các
bộ phận, hạng mục công trình.
- Các tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ thể hiện ở các kết quả thí nghiệm,
kiểm định nguyên vật liệu, cấu kiện, máy móc thiết bị mà còn ở quá trình hình
thành và thực hiện các bước công nghệ thi công, chất lượng các công việc của
đội ngũ công nhân, kỹ sư lao động trong quá trình thực hiện các hoạt động xây
dựng.
- Vấn đề an toàn không chỉ là trong khâu khai thác, sử dụng đối với người
thụ hưởng công trình mà còn là cả trong giai đoạn thi công xây dựng đối với đội
ngũ công nhân, kỹ sư xây dựng;
- Tính thời gian không chỉ thể hiện ở thời hạn công trình đã xây dựng có
thể phục vụ mà còn ở thời hạn phải xây dựng và hoàn thành, đưa công trình vào
khai thác, sử dụng;
- Tính kinh tế không chỉ thể hiện ở số tiền quyết toán công trình chủ đầu tư
phải chi trả mà còn thể hiện ở góc độ đảm bảo lợi nhuận cho các nhà thầu thực
hiện các hoạt động và dịch vụ xây dựng như lập dự án, khảo sát, thiết kế, thi
công xây dựng...
- Vấn đề môi trường: cần chú ý không chỉ từ góc độ tác động của dự án tới
các yếu tố môi trường mà cả các tác động theo chiều ngược lại, tức là tác động
của các yếu tố môi trường tới quá trình hình thành dự án.

[1]
Chất lượng công trình là tổng hợp của nhiều yếu tố hợp thành, do đó để
quản lý được chất lượng công trình thì phải kiểm soát, quản lý được các nhân tố
ảnh hưởng đến chất lượng công trình, bao gồm: con người, vật tư, biện pháp kỹ
thuật và áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến.
1.2.2. Nội dung cơ bản của hoạt động quản lý chất lượng công trình.
1.2.2.1. Về con người.
Để quản lý chất lượng công trình tốt thì nhân tố con người là hết sức quan
trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình. Cán bộ phải là những kỹ
sư chuyên ngành có nhiều kinh nghiệm trong công tác, có phẩm chất, đạo đức
tốt, có ý thức trách nhiệm cao. Và công nhân phải có tay nghề cao, có chuyên
ngành, có sức khỏe tốt và có ý thức trách nhiệm cao và đều là công nhân được
đào tạo cơ bản qua các trường lớp. Nếu kiểm soát tốt chất lượng cán bộ, công
nhân thì sẽ kiểm soát được chất lượng công trình góp phần vào việc quản lý tốt
chất lượng công trình. Nội dung về quản lý nguồn nhân lực gồm có:
- Nguồn nhân lực phải có năng lực dựa trên cơ sở được giáo dục, đào tạo,
có kỹ năng và kinh nghiệm thích hợp.
- Đảm bảo sắp xếp công việc sao cho phù hợp với chuyên môn của mỗi
cán bộ, công nhân, để phát huy tối đa năng lực của họ.
- Lập báo cáo đánh giá năng lực của các cán bộ kỹ thuật, công nhân hàng
năm thông qua kết quả làm việc để từ đó có kế hoạch cụ thể trong việc xắp xếp
công việc phù hợp với năng lực của từng người. Đồng thời đó sẽ là cơ sở để
xem xét việc tăng lương, thăng chức cho các cán bộ, công nhân.
[1][1] TS. Bùi Ngọc Toàn - Nguồn tin: T/C Giao thông vận tải, số 12/2006
- Lưu giữ hồ sơ thích hợp về trình độ, kỹ năng, kinh ngiệm chuyên môn,
hiệu quả làm việc của mỗi người lao động. Sau này sẽ dựa vào đó để xem xét
lựa chọn người được cử đi học chuyên tu nâng cao chuyên môn, tay nghề.
- Công ty cần có chính sách đãi ngộ hợp lý cho các bộ cán bộ,công nhân để
có thể khuyến khích họ làm việc hăng say và có trách nhiệm trong công việc.
Việc khuyến khích phải tuân theo nguyên tắc:

+ Gắn quyền lợi với chất lượng công việc. Lấy chất lượng làm tiêu chuẩn
đánh giá trong việc trả lương, thưởng và các quyền lợi khác.
+ Kết hợp giữa khuyến khích vật chất và khuyến khích tinh thần. Thiên
lệch về một phía thì sẽ dễ gây ra tác động ngược lại.
- Ngoài ra, Công ty cần lập kế hoạch cụ thể cho việc tuyển dụng lao động
để đảm bảo về số lượng cũng như chất lượng nguồn lao động để tránh tình trạng
thừa lao động nhưng lại thiếu lao động có tay nghề cao. Kế hoạch tuyển dụng có
thể tiến hành hàng năm hoặc 5 năm 1 lần, tùy theo nhu cầu của Công ty, và tính
chất công việc.
Việc tuyển dụng cần được thực hiện như sau:
+ Lập hồ sơ chức năng: nêu rõ những yêu cầu, tính chất công việc cần
tuyển dụng.
+ Dự kiến trước nội dung thi và cách thức tổ chức, đánh giá và tuyển chọn.
1.2.2.2. Về vật tư.
Vật tư bao gồm vật liệu xây dựng, cấu kiện, bán thành phẩm, linh kiện…
được đưa vào quá trình xây lắp tạo ra các công trình hoàn thiện. Vật tư có vai
trò quan trọng, là điều kiện tiên quyết trong việc đảm bảo chất lượng công trình.
Quản lý và sử dụng đúng các chủng loại vật liệu, đảm bảo chất lượng và số
lượng các loại vật tư sẽ góp phần nâng cao chất lượng công trình xây dựng. Để
là được điều đó thì cần phải thực hiện quản lý toàn bộ quá trình từ khi tìm kiếm,
khai thác nguồn cung cấp vật tư cho đến khi đưa vật tư vào sản xuất và thi công,
bao gồm:
- Nhà cung cấp uy tín có địa chỉ rõ ràng, có đăng ký chất lượng hàng hoá.
- Kho tàng đạt tiêu chuẩn.
- Thủ kho tinh thông nghiệp vụ và phẩm chất tốt.
- Phòng thí nghiệm đủ tiêu chuẩn được cấp có thẩm quyền cấp giấy phép.
- Hệ thống sổ sách, chứng từ xuất, nhập đúng quy định, cập nhật thường
xuyên, phản ánh đúng đủ số lượng, chủng loại, phẩm cấp chất lượng và nguồn
gốc vật liệu.
- Hệ thống lưu mẫu các lô vật tư nhập vào kho kèm theo các biên bản

nghiệm thu vật tư.
- Ta cũng cần quy định rõ trách nhiệm cụ thể của các phòng chức năng và
các đơn vị thành viên:
+ Phòng kế hoạch - kỹ thuật có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc xét
duyệt tiến độ cung ứng vật tư, tổng mặt bằng thi công (trong đó thể hiện phương
án quản lý vật liệu). Kiểm tra quy trình quản lý chất lượng vật liệu tại công trình
như: Kho tàng, hệ thống sổ sách, chứng từ phản ánh nguồn gốc chất lượng,
phẩm cấp vật tư, biên bản nghiệm thu.

×