Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.31 KB, 25 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
1.1.1.Đặc điểm, vai trò của DN&VN trong sự phát triển kinh tế quốc gia.
1.1.1.1.Khái niệm DNV&N.
Doanh nghiệp có thể được hiểu một cách chung nhất là một tổ chức kinh tế
được thành lập nhằm sản xuất, cung ứng sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ trên
thị trường. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình doanh nghiệp cùng
tồn tại, phát triển và cạnh tranh lẫn nhau.Tuy nhiên để thuận lợi cho việc quản
lý, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển người ta thường phân chia các doanh
nghiệp thành các loại hình doanh nghiệp khác nhau, trong đó có doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Ở hầu hết các nước, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển thì việc
đầu tư phát triển các DNV&N đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Sự thành
đạt về kinh tế- xã hội của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của
các doanh nghiệp, trong khi đó các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ lại có ý
nghĩa vô cùng quan trọng ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường. Tuy
nhiên, theo điều kiện của từng quốc gia, từng loại hình sản phẩm và ý đồ chính
sách, khả năng hỗ trợ của từng chính phủ ở từng thời kỳ…mà có rất nhiều các
định nghĩa khác nhau về DN&VN. Trong thực tế, việc xác định DNV&N của
một nước thường được cân nhắc đối với từng giai đoạn phát triển kinh tế -xã
hội, tình hình việc làm nói chung trong cả nước và tính chất phát triển kinh tế
hiện hành của nước đó. Như vậy, việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ không
có tính chất “ cố định” mà có xu hướng thanh đổi theo tính chất hoạt động của
nó, mục đích của việc xác định và mức độ phát triển doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn để xác định DNV&N là: tổng vốn đầu tư được huy động vào
sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lao động được sử dụng thường
xuyên, giá trị bằng tiền của sản phẩm bán hoặc dịch vụ, lợi nhuận , vốn bình
quân cho một lao động…
Đối với nước ta, mặc dù đã quan tâm đến DNV&N và có nhiều hoạt động hỗ


trợ nó, song vẫn chưa có khái niệm chính thức. Các chuyên gia kinh tế thì cho rằng
: “doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có mức vốn đầu tư từ 100-300 triệu đồng và
từ 5 - 50 lao động. Doanh nghiệp vừa là những doanh nghiệp có mức vốn đầu tư
300 triệu đồng trở lên và có lao động trên 50 người’.
Ngoài ra, ngân hàng Công Thương Việt Nam cũng đã nhận định rằng: “
doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có số lao động thường xuyên
dưới 500 người, giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, số vốn lưu động dưới 8
tỷ đồng và doanh thu dưới 20 tỷ đồng/ năm”.
Có thể thấy rằng, việc đưa ra tiêu chí để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ
mới chỉ mang tính ước lệ Có nhiều quan điểm khác nhau về các đối tượng, chủ
thể kinh tế được coi là thuộc hoặc không thuộc khu vực DNV&N. Theo Nghị
Định của Chính Phủ số 90/2001/NĐ- Chính Phủ ngày 23 tháng 11 năm 2001 thì
“doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh
doanh theo pháp luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và số lao
động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Nghị định quy định đối tượng
áp dụng bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp nhà
nước.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo nghị định số 02/2000 NĐ-CP ngày 3
tháng 2 năm 2000 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh.
1.1.1.2.Vai trò của DNV&N trong nền kinh tế.
Tuy có nhiều tiêu chí, cách xác định, đánh giá khác nhau trong các nước
song tất cả đều cho rằng DNV&N là xương sống của nền kinh tế, có vị trí và
vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và đối với việc thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Quốc gia. Ở nước ta, qua mười năm đổi
mới, nền kinh tế đã thu được những thành tựu đáng khích lệ, trong đó sự đóng
góp của DNV&N là đáng kể, các doanh nghiệp này có vai trò hết sức quan
trọng đối với việc ổn định phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là đối với sự phát

triển kinh tế địa phương.
a.Cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể cho nền kinh tế.
Các DNV&N có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế, góp phần
làm tăng thu nhập quốc dân. Theo đánh giá của viện nghiên cứu quản lý kinh tế
TƯ thì hiện nay khu vực DNV&N của cả nước chiếm khoảng 25% - 26% GDP.
Năm 1993, các DNV&N đã tạo ra được khoảng 25% giá trị tổng sản lượng
ngành công nghiệp và 54% giá trị công nghiệp địa phương, tăng 11% so với
năm 1992 và tăng 63% so với năm 1990. Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt hơn
29.000 tỷ đồng, bằng 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng
hóa. Trong nhiều nghành nghề như gỗ xẻ, chiếu cói, giầy dép… DNV&N sản
xuất 100% sản phẩm. Nhiều nghành nghề truyền thống được khôi phục và phát
triển đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu.
Hiện nay, các DNV&N chiếm khoảng 90% tổng số hơn 230.000 doanh
nghiệp trên toàn quốc. Tỷ trọng GDP cung cấp cho nền kinh tế của các
DNV&N có xu hướng ngày càng tăng lên. Nếu năm 1999 tỷ trọng GDP của các
DNV&N chỉ chiếm 8,01%, năm 2002 chiếm 9,02%, đến năm 2004 tỷ lệ này
khoảng 24%-25% và năm 2006 tỷ trọng đóng góp khoảng 26% GDP.
b.Tạo việc làm cho người lao động và tăng thu nhập của dân cư.
Để thấy rõ vai trò giải quyết việc làm của các DNV&N, chúng ta xem tỷ
trọng lao động lao động ở một vài nước.
Các doanh nghiệp DNV&N ở Đài Loan đã đóng vai trò quan trọng về tạo
việc làm và mở rộng xuất khẩu; DNV&N chiếm 97% tổng số doanh nghiệp, con
số tương ứng của các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông và Mỹ là 98%.
Mặc dù số lượng của các DNV&N của Đài Loan thấp hơn, nhưng điều không
bình thường là nó tạo ra tỷ lệ việc làm và kim ngạch xuất khẩu cao hơn Hàn
Quốc và Hồng Kông. Cụ thể là nó đã tạo ra được 66,4% tổng sản phẩm xuất
khẩu của ngành gia công chế biến và 6,39 triệu việc làm chiếm 78,7% tổng số
việc làm năm. Tỷ lệ này đã bị giảm xuống còn 70% những năm đầu thập kỷ 90.
Các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển có số lượng các
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chiếm khoảng 97%- 98% tổng số doanh

nghiệp trong cả nước, giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động
công nghiệp từ ( 62%- 76%).
Việc làm là vấn đề cấp bách ở Việt Nam. Với tốc độ tăng dân số trên 2%,
hàng năm cả nước có thêm một triệu người đến tuổi lao động có nhu cầu việc
làm. Đó là chưa kể những người thất nghiệp và bán thất nghiệp hiện nay do cơ
cấu lại nền kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Trong điều kiện như
vậy, các DNV&N đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có vai trò
quan trọng trong việc thu hút lao động. Tính đến tháng 8/1993, cả nước có 7000
doanh nghiệp nhà nước, 6728 doanh nghiệp tư nhân, 2750 công ty trách
nhiệm hữu hạn, 91 công ty cổ phần, và khoảng 638 doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài hoạt động, tổng cộng có 17.027 doanh nghiệp. Trong đó có 96,5% là
DNV&N, đã giải quyết việc làm cho gần 2 triệu lao động. Năm 2002, cả nước
tạo ra được 1,42 triệu việc làm mới thì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thu
hút được 79,1% tổng số việc làm. Hàng năm khu vực doanh nghiệp này thu hút
hàng chục vạn lao động, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước.
Theo số liệu ước tính năm 2006 khu vực DNV&N tạo ra khoảng 49% việc làm
phi nông nghiệp ở nông thôn và chiếm khoảng 25%-26% lực lượng lao động
trong cả nước. Tuy nhiên, do khu vực sản xuất nông nghiệp ỏ nông thôn vẫn
chiềm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế nên xem xét tổng thể thì tổng
số lao trong các DNV&N chiếm tỷ trọng chưa cao trong tổng số lao động xã hội
hiện nay.
Đặc điểm của nước ta là một nước là một nước nông nghiệp, năng suất sản
xuất cũng như thu nhập của dân cư thấp. Việc phát triển các DNV&N ở thành
thị cũng như ở nông thôn là phương hướng cơ bản nhằm tăng nhanh năng suất,
tăng nhanh thu nhập, và đa dạng hóa thu nhập của dân cư. Kết quả điều tra cho
thấy tại những vùng có doanh nghiệp phát triển thì thu nhập gấp 4 lần thu nhập
của dân cư tại những vùng thuần nông nghiệp. Điều quan trọng là thu nhập của
dân cư được đa dạng hóa vừa có ý nghĩa nâng cao mức sống dân cư, vừa làm
cho cuộc sống giảm bớt rủi ro hơn nhất là tại những vùng thiên tai.
c.Thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế.

Vốn là một nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò rất quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng doanh
nghiệp. Nhờ có vốn mới kết hợp được các yếu tố lao động, đất đai, công nghệ
và quản lý. Thực tế cho thấy, để đầu tư cho một chỗ làm ở Việt Nam, trung bình
phải mất 5-10 triệu đồng. Tuy nhiên một nghịch lý hiện nay là các doanh nghiệp
thiếu vốn trầm trọng, trong khi đó vốn trong dân còn tiềm ẩn nhưng huy động
được chưa nhiều. Có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do môi trường đầu tư
không ổn định và không được thuận lợi. Trong tình hình đó thì chính các
DNV&N là người trực tiếp tiếp xúc với người cho vay, gây được niềm tin nên
có thể huy động vốn, hoặc chính người có tiền đứng ra đầu tư kinh doanh.
Hiện nay Nhà nước có chủ trương bán, khoán, cho thuê và cổ phần hóa các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Chủ trương này có tác dụng thúc đẩy hoạt
động đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi người dân bằng
việc mua lại các doanh nghiệp, mua cổ phần hoặc thành lập DNV&N mới.
Trong năm 2002, riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã có 7.600
doanh nghiệp được thành lập với tổng số vốn đăng ký trên 12.550 tỷ đồng, tăng
11% về số lượng doanh nghiệp và 16% về vốn so với năm 2001, trong đó doanh
nghiệp tư nhân là 1.760 với số vốn đăng ký là 915 tỷ đồng; 5.200 công ty trách
nhiệm hữu hạn và vốn đăng ký trên 7.600 tỷ đồng; 604 công ty cổ phần với số
vốn đăng ký trên 4000 tỷ đồng. Qua đó có thể thấy các DNV&N đã thu hút
được khá nhiều các khoản tiết kiệm trong dân cư.
Tính riêng năm 2002, đầu tư khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 28,8%
tổng vốn đầu tư trong toàn xã hội; trong tổng số 2.808 dự án được cấp giấy phép
ưu đãi đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước đã có 2.225 dự án thuộc
khu vực kinh tế tư nhân, với tổng số vốn thực hiện trên 16.244 tỷ đồng, chiếm
38,7% tổng vốn đầu tư thực hiện, thu hút 234.899 lao động.
Tính đến cuối tháng 12 năm 2004 số doanh nghiệp thực tế hoạt động sản
xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế ( không bao gồm các hợp tác xã
nông lâm, ngư và hộ kinh doanh cá thể) là 91.755 doanh nghiệp, trong đó nếu
xét theo tiêu chí lao động thì có 88.233 DNV&N, nếu xét theo tiêu chí vốn thì

có 79.420 doanh nghiệp.
Đến tháng 6/2005, cả nước đã có trên 125 nghìn doanh nghiệp thành lập
với tổng vốn đăng ký hơn 240.000 tỷ đồng, đưa tổng số doanh nghiệp cả nước
lên đến gần 190.000 doanh nghiệp với số vốn đăng ký trên 398.000 tỷ
đồng.Riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm tới 52% số doanh
nghiệp thành lập mới với 50% tổng số vốn đăng ký so với cả nước.
d.Hoạt động của các DNV&N góp phần làm cho nền kinh tế năng động, đạt
hiệu quả kinh tế cao.
Vì số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày một tăng lên, làm tăng tính
cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời làm tăng số
lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Mặt khác, các doanh
nghiệp này có khả năng thay đổi về mặt hàng, công nghệ, và chuyển hướng kinh
doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các DNV&N
có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn: làm
đại lý, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hóa và cung cấp
các đầu vào, thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn
không vào được.
Mặt khác, vốn của các DNV&N, trong phần lớn là của khu vực kinh tế tư
nhân chủ yếu chỉ đầu tư vào những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao. Vì thế
sự gia tăng các cơ sở này sẽ làm cho hiệu quả kinh tế của đất nước tăng nhanh.
Tuy nhiên nếu doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ thì thì hiệu quả kinh tế khó
tăng nhanh được.
e.Khai thác tiềm năng phong phú trong dân và có khả năng tận dụng các
nguồn lực xã hội.
Có rất nhiều tiềm năng trong dân cư chưa được khai thác triệt để như: trí
tuệ, lao động, vốn, bí quyết tay nghề, điều kiện tự nhiên, …Việc phát triển các
doanh nghiệp sản xuất, các ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay
là một trong những hướng quan trọng để xử dụng tay nghề tinh xảo, thu hút lao
động trong nông thôn, phát huy lợi thế của từng vùng.
Về tiềm năng vốn, các DNV&N thường bắt đầu bằng nguồn vốn ít ỏi, hạn

hẹp của các cá nhân. Do đó nên các doanh nghiệp này dễ được đông đảo nhân
dân tham gia hoạt động, vì thế thu hút được nguồn vốn trong dân vào sản xuất
kinh doanh. Ước tính trên 400.000 doanh nghiệp công nghiệp ở mọi thành phần
kinh tế đã thu hút khoảng 25.000 tỷ đồng, chưa kể hàng nghìn tỷ đồng nhàn rỗi
khác phục vụ cho nhu cầu về vốn ngắn hạn của doanh nghiệp.
Về lao động, DNV&N thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh
phục vụ nhu cầu tiêu dùng của dân cư, sử dụng nhiều lao động, ít vốn, với chi
phí thấp, do vậy lao động trong khu vực này không đòi hỏi trình độ cao, chỉ cần
bồi dưỡng ngắn hạn là có thể tham gia vào sản xuất của doanh nghiệp.
Về kỹ thuật, DNV&N thường lựa chọn các kỹ thuật phù hợp với trình độ
lao động khả năng về vốn, kết hợp kỹ thuật thủ công với kỹ thuật đơn giản mà
mọi người có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất, ít sử dụng kỹ
thuật tiên tiến hiện đại, do đó phần lớn trang thiết bị đều là các sản phẩm trong
nước.
Về nguyên vật liệu, nguồn nguyên vật liệu được sử dụng ở các DNV&N chủ
yếu là thuộc phạm vi địa phương, dễ khai thác, qua đó cũng tạo điều kiện việc làm
trong khu vực, rất ít các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại.
f. DNV&N góp phần to lớn vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có tác
dụng quan trọng đối với quá trình CNH_HĐH đất nước.
Việc phát triển các DNV&N có ý nghĩa lớn trong việc phát triển công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xóa dần tình trạng thuần nông và độc canh. Do
đó góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm
cho công nghiệp phát triển mạnh, thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ phát
triển, việc phân bổ các doanh nghiệp hợp lý hơn về mặt lãnh thổ cả nông thôn,
thành thị, miền núi và đồng bằng:
- Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên
nhanh chóng, các doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu lại, kinh doanh có hiệu
quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
- Cơ cấu ngành: phát triển nhiều ngành nghề đa dạng, phong phú cả ngành nghề
hiện đại và truyền thống theo hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.

Ngoài ra các DNV&N còn có vai trò gieo mầm cho tài năng kinh doanh.
Đây là vấn đề rất quan trọng đối với nước ta, vì trong nhiều năm qua đội ngũ
kinh doanh gắn liền với cơ chế bao cấp, chưa có kinh nghiệm với kinh tế thị
trường. Sự phát triển của các DNV&N có tác dụng đào tạo, thử thách, có chọn
lọc qua thực tế đội ngũ các nhà kinh doanh trên mặt trận sản xuất sản xuất, kinh
doanh.
1.1.2.Những lợi thế và hạn chế của DNV&N.
1.1.2.1 Lợi thế của các DNV&N.
Các DNV&N có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thỏa mãn nhu cầu
có hạn trong những thị trường chuyên môn hóa, khuynh hướng sử dụng nhiều
lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại và nhanh
chóng thích nghi với những nhu cầu và thay đổi của thị trường, DNV&N có thể
bước vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn
và sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa nhất hoặc các khoảng trống vừa và nhỏ của
thị trường. Sau đây là một số điểm mạnh có thể nhìn thấy ở các DNV&N:
 Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường. Chỉ cần một
lượng vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp các DNV&N có thể khởi
sự doanh nghiệp.
 Dễ phát huy bản chất hợp tác.
 Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định
thấp.
 Không có hoặc có ít xung đột giữa người sử dụng lao động và người
lao động.
 Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh.
 Có thể phát huy tiềm lực thị trường trong nước.
 Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng.
 Nhanh chóng giảm bớt nạn thất nghiệp.
 Là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp và là cơ sở kinh tế
ban đầu để phát triển các doanh nghiệp lớn.
1.1.2.2. Những hạn chế của DNV&N.

Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ, vốn ít nên có những mặt hạn chế:
 Khó khăn trong đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là những công nghệ
đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng và hiệu
quả, hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường.
 Có nhiều hạn chế về đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, đầu tư
cho nghiên cứu… do đó khó nâng cao khả năng suất và hiệu quả
kinh doanh.
 Thường bị động trong các quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị.
 Khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng.
1.1.3.Hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNV&N.
1.1.3.1.Nội dung về hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNV&N.
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các NHTM thì nghiệp vụ tín dụng
giữ vai trò trọng yếu nhất. Cho vay cũng là một trong các hình thức tín dụng của
ngân hàng và đóng vai trò là nguồn thu chủ yếu. Có thể định nghĩa hoạt động
cho vay của NHTM như sau:
 Cho vay là một mặt của hoạt động tín dụng ngân hàng, thông qua
hoạt động cho vay ngân hàng thực hiện điều hòa vốn trong nền kinh
tế dưới hình thức phân phối nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động
được từ trong xã hội để đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất kinh
doanh và đời sống.
 Cho vay là quyền của ngân hàng với tư cách là người cho vay yêu
cầu khách hàng của mình thực hiện những điều kiện bắt buộc, những
điều kiện này là cơ sở để ràng buộc về mặt pháp lý đảm bảo cho
hoạt động cho vay có thể thu hồi được vốn sau một thời gian nhất
định.
 Cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ NHTM
sang người vay, sau một thời gian nhất định lại quay về với lượng
giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
 Cho vay cũng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó
một bên là NHTM chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng

trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản
cam kết trả vốn gốc và lãi cho NHTM vô điều kiện theo thời hạn đã
thỏa thuận.
Từ các khái niệm về cho vay, có thể đưa ra khái niệm về cho vay đối với
các DNV&N: “ Hoạt động cho vay của NHTM đối với DNV&N là một giao dịch
về tiền hoặc tài sản được chuyển nhượng từ NHTM đến đối tượng là DNV&N

×